Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

QUYỀN tố TỤNG của bị cáo từ THỰC TIỄN xét xử sơ THẨM của tòa án NHÂN dân TỈNH BÌNH ĐỊNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.87 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MI SA

QUYỀN TỐ TỤNG CỦA BỊ CÁO
TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MI SA

QUYỀN TỐ TỤNG CỦA BỊ CÁO
TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chun ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số

: 8.38.01.04


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VŨ HOÀI NAM

HÀ NỘI, năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Mi Sa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỐ TỤNG
CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ.........8
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự của Tịa án nhân dân cấp tỉnh............................................................... 8
1.2. Hệ thống các quyền tố tụng của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự theo quy định của pháp luật của quốc tế và Việt Nam..................14
1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc quy định và thực hiện quy định về quyền tố
tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự............................................. 23
1.4. Bảo đảm thực hiện quyền tố tụng của bị cáo và các yếu tố ảnh hưởng
đến việc bảo đảm quyền của bị cáo....................................................................................... 27
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN TỐ TỤNG CỦA
BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA

TỊA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH.................................................................. 35
2.1. Khái quát đặc điểm kinh tế xã hội................................................................................ 35
2.2. Thực trạng thực hiện quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự của Tịa án nhân dân tỉnh Bình Định.............................................. 36
CHƯƠNG 3. MỤC TIÊU, YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO
ĐẢM QUYỀN TỐ TỤNG CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ
THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TỊA ÁN NHÂN DÂN TỈNH
BÌNH ĐỊNH..................................................................................................................................... 51
3.1. Mục tiêu, yêu cầu về hoàn thiện và áp dụng đúng quy định của pháp
luật hình sự về quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của Tịa án nhân dân tỉnh Bình Định................................................................... 51


3.2. Các giải pháp bảo đảm quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự của Tịa án nhân dân tỉnh Bình Định............................................. 54
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:


Cơ quan điều tra

HĐXX:

Hội đồng xét xử

KSV:

Kiểm sát viên

PLHS:

Pháp luật hình sự

TAND:

Tịa án nhân dân

THTT:

Tiến hành tố tụng

TTHS:

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự


VPPL:

Vi phạm pháp luật

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là những giá trị, chuẩn mực tuyệt đối, có tính khách
quan gắn bó với nhau trong mối tương quan biện chứng, vừa mang tính phổ
biến nhưng cũng có tính đặc thù, tính lịch sử - xã hội được thể hiện trong các
lĩnh vực chính trị, dân sự và kinh tế, văn hóa, xã hội được ghi nhận và bảo vệ
bởi luật quốc gia và luật quốc tế. Bảo đảm quyền con người là trách nhiệm
của các quốc gia. Hiến pháp 2013 quy định TAND là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Để đảm bảo việc xét xử
được chính xác, khách quan, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, giảm
thiểu những oan, sai trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự, pháp luật tố
tụng hình sự quy định TAND thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, các cấp xét

xử hiện nay là cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử phúc thẩm.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, bị cáo được thực hiện
quyền của mình tại phiên tịa như trình bày lời khai, trình bày ý kiến, khơng
buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình, quyền tự bào chữa, nhờ người bào
chữa. Các quyền của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự khơng mặc
nhiên được thực hiện khi bị cáo tham gia quan hệ pháp luật về tố tụng hình sự
(TTHS). Để các quyền của bị cáo trở thành hiện thực, để bị cáo thụ hưởng, sử
dụng các quyền của mình cần phải có sự bảo đảm từ phía Nhà nước được biểu
hiện thơng qua hành vi của cơ quan và những người tiến hành, người tham gia
tố tụng và các chủ thể khác.
Tuy nhiên, trên thực tế, trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự các quyền tố tụng của bị cáo ở một số phiên tịa xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của TAND tỉnh Bình Định chưa thật sự được bảo đảm, một số Thẩm
phán, HTND, KSV chưa có ý thức tôn trọng và bảo vệ các quyền của bị cáo
hoặc yếu về năng lực chuyên môn, trong khi một số quy định pháp luật còn
1


bất cập, gây khó khăn cho bị cáo thực hiện các quyền của mình cũng như
người bào chữa cho bị cáo chưa hoàn toàn được độc lập để phát huy tốt vai trò
trong nhiệm vụ bảo vệ các bị cáo. Trước yêu cầu của xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN, xuất phát từ thực trạng bảo đảm quyền của bị cáo trong
hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh thời gian qua
cịn nhiều bất cập,vi phạm nghiêm trọng quyền con người, quyền công dân.
Từ những luận giải trên, tác giả chọn đề tài: “Quyền tố tụng của bị cáo từ
thực tiễn xét xử sơ thẩm của Tịa án nhân dân tỉnh Bình Định” làm luận
văn thạc sĩ, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự; Mã số: 8.38.01.04.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua ở nước ta đã có rất nhiều cơng trình khoa học, bài
báo khoa học, giáo trình, sách chun khảo, Tạp chí khoa học, Luận văn Thạc

sĩ, Luận án Tiến sĩ đề cập đến quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm theo
PLHS Việt Nam cụ thể có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu có liên
quan trực tiếp đến vấn đề được nghiên như: Luận án Tiến sĩ Luật học “Vai trò
của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay” của
Đặng Công Cường [10] đã phân tích và chứng minh những phương diện cơ
bản thể hiện vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người nói chung
và quyền của bị cáo. Tác giả phân tích và làm rõ thực trạng của bảo vệ quyền
con người bằng Tòa án án. Đặc biệt tác giả phân tích những tồn tại, hạn chế
và làm rõ nguyên nhân ảnh hưởng tiêu cực đến vai trò của Tòa án trong việc
bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay; Luận văn Thạc sĩ: “Bảo đảm
quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự” của Ngơ Thị Thanh
[43] khẳng định sự cần thiết phải bảo đảm quyền con người trong TTHS.
Công trình phân tích những vấn đề lý luận như nội dung, yêu cầu của việc bảo
đảm quyền con người trong TTHS. Tác giả đã nêu một số kiến nghị hoàn
thiện các quy định pháp luật về quyền con người trong hoạt động xét xử,
2


tiếp tục hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, triển khai việc
thành lập Cơ quan nhân quyền quốc gia; Bài báo: “Quyền bào chữa của
người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo theo pháp luật Việt
Nam” của Nguyễn Văn Mạnh [34] phân tích về quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo. Cơng trình nêu lên một số kiến nghị nhằm
đảm bảo hiệu quả hơn quyền bào chữa của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can,
bị cáo trong đó đáng chú ý là giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật phải
bảo đảm không gian và điều kiện thuận lợi cho người bào chữa tham gia tố
tụng hình sự.
Những cơng trình khoa học nêu trên đã đề cập đến quyền của bị cáo
theo PLHS Việt Nam. Các cơng trình này đã đi sâu nghiên cứu sáng tỏ cơ sở
lý luận về quyền của bị cáo. Tuy nhiên, trên thực tế, trong hoạt động xét xử sơ

thẩm các vụ án hình sự của TAND tỉnh, một số Thẩm phán, HTND, KSV
chưa có ý thức tôn trọng và bảo vệ các quyền của bị cáo hoặc yếu về năng lực
chuyên môn, trong khi một số quy định pháp luật cịn bất cập, gây khó khăn
cho bị cáo thực hiện các quyền của mình. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn
đề lý luận, đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp về quyền tố tụng của bị cáo
trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND tỉnh là nhiệm vụ
cần thiết. Từ những lý do trên đây, tác giả chọn đề tài: “Quyền tố tụng của bị
cáo từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của Tịa án nhân dân tỉnh Bình Định” làm
đề tài luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và các quy định của PLHS về
quyền tố tụng của bị cáo.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện quyền tố tụng của bị cáo
trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tịa án nhân dân tỉnh Bình Định.
3


Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế, và nguyên nhân trong thực hiện quyền tố
tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản, thiết thực nhằm bảo đảm quyền tố
tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tịa án nhân dân
tỉnh Bình Định.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền tố tụng của bị cáo trong
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh.
- Làm rõ quy định của pháp luật hình sự về quyền tố tụng của bị cáo và
đánh giá thực tiễn thực hiện quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự của Tịa án nhân dân tỉnh Bình Định từ năm 2016 đến năm
2020.

- Làm sáng tỏ mục tiêu, yêu cầu và các giải pháp bảo đảm quyền tố
tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tịa án nhân dân
tỉnh Bình Định.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quyền tố tụng của bị cáo trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tịa án nhân dân tỉnh Bình
Định, được thể hiện trong quy định của pháp luật và việc thực hiện pháp luật
của các chủ thể có liên quan như Thẩm phán, HTND, KSV, luật sư tại phiên
toà.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn về quyền tố tụng của bị cáo (thể nhân) dưới góc độ của pháp luật
hình sự Việt Nam.
+ Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu về quyền tố tụng của bị
4


cáo từ thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tịa án nhân dân tỉnh
Bình Định.
+ Phạm vi về thời gian: Từ năm 2016 đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin về nhà nước và pháp luật nói chung, nhà nước và pháp luật XHCN nói
riêng; tư tưởng Hồ Chí Minh về về Nhà nước và pháp luật, đường lối của
Đảng về cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người trong xét xử các vụ án
hình sự; các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về nhà nước pháp quyền và
vấn đề quyền con người. Bên cạnh đó, luận văn còn được nghiên cứu trên cơ
sở sử dụng tổng hợp các phương pháp như: Lý luận chung về pháp luật, pháp

luật hình sự,lý luận về quyền con người...
5.1. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được sử dụng để
nghiên cứu các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận văn, các văn
bản pháp lý quy định về quyền tố tụng của bị cáo, các báo cáo sơ kết, tổng kết
của của Tịa án nhân dân tỉnh Bình Định trong giai đoạn 05 năm từ năm 2016
đến năm 2020.
- Phương pháp thống kê, so sánh số liệu: Sử dụng để điều tra, khảo sát
thực tế và thống kê, đánh giá thực trạng thực hiện quyền tố tụng của bị cáo
trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tịa án nhân dân tỉnh Bình Định từ
năm 2016 đến năm 2020.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng
trong nghiên cứu khái quát những vấn đề lý luận bảo đảm quyền tố tụng của
bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND tỉnh Bình
5


Định; đánh giá những ưu điểm, hạn chế của thực trạng thực hiện quyền tố
tụng của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND
tỉnh Bình Định; đề xuất các giải pháp bảo đảm quyền tố tụng của bị cáo trong
hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND tỉnh Bình Định.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Thơng qua q trình nghiên cứu và hồn thành luận văn, luận văn góp
phần hoàn thiện thêm một số vấn đề lý luận về quyền của bị cáo; khi đó có thể
được sử dụng làm tài liệu lý luận và thực tiễn giúp cho các cơ quan tiến hành
tố tụng tham khảo, rút kinh nghiệm trong thực hiện và bảo đảm quyền tố tụng
của bị cáo trong xét sơ thẩm các vụ án hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần giúp cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng và các chủ thể có liên quan khác nói chung, tỉnh
Bình Định nói riêng, nhận thức đúng đắn, đầy đủ quyền tố tụng của bị cáo, từ
đó giúp cho những chủ thể tiến hành tố tụng này hiểu và vận dụng đúng đắn
những vấn đề liên quan đến quyền tố tụng của bị cáo, qua đó thực hiện đầy đủ
trách nhiệm của mình trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của
TAND cấp tỉnh.
Ngồi ra, luận văn cịn là tài liệu tham khảo cho các giảng viên, học
viên, người hoạt động thực tiễn khi nghiên cứu, áp dụng pháp luật có liên
quan đến những vấn đề có liên quan đến Luật hình sự nói chung, quyền tố
tụng của bị cáo trong xét sơ thẩm các vụ án hình sự nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục thì luận văn được xây dựng có cấu trúc gồm 3 chương:

6


Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền tố tụng của bị cáo trong xét
xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tịa án nhân dân cấp tỉnh.
Chương 2: Thực trạng thực hiện quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự của Tịa án nhân dân tỉnh Bình Định.
Chương 3: Mục tiêu, yêu cầu và các giải pháp bảo đảm quyền tố tụng
của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tịa án nhân dân tỉnh
Bình Định.

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỐ TỤNG CỦA BỊ CÁO

TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Ở cấp độ quốc tế, theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp
quốc về quyền con người, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn
cầu, bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ
mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của
con người [7, tr.37].
Các cơ quan và chuyên gia Việt Nam có những định nghĩa về quyền
con người khơng hồn tồn giống nhau, nhưng nhìn chung, quyền con người
là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và
bảo vệ bởi pháp luật quốc gia và pháp lý quốc tế [7, tr.38].
Khi nghiên cứu vấn đề quyền con người, một khái niệm được đề cập
nhiều và có liên quan trực tiếp với khái niệm này là khái niệm quyền công
dân. Xét về nguồn gốc, quyền công dân xuất hiện muộn hơn, là một trong
những thành tựu của nhân loại trong cuộc cách mạng tư sản đấu tranh chống
lại chế độ phong kiến. Hiện nay, trên diễn đàn khoa học vẫn tồn tại một số
khái niệm khác nhau về quyền cơng dân:
Theo từ điển tiếng Việt thì “quyền công dân” được hiểu là “quyền của
người công dân được thừa nhận, bao gồm quyền tự do dân chủ và các quyền
kinh tế văn hóa - xã hội” [16]. Như vậy, có thể hiểu “quyền cơng dân” là
quyền con người, được các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho cơng dân của
mình, là tập hợp những quyền được Hiến pháp và pháp luật của mỗi Nhà nước
quy định và đảm bảo thực hiện. Theo quan niệm của Mác, quyền cơng dân là
những quyền chính trị, những quyền cá nhân con người, với tư cách là
8


thành viên “xã hội công dân”. Như vậy, khái niệm “quyền công dân” xuất
hiện sau sự xuất hiện của khái niệm “quyền con người” và được gắn liền với

thời điểm ra đời của nhà nước tư sản và duy trì, phát triển đến xã hội ngày
nay. Ở các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây, khái niệm về quyền con người,
quyền cơng dân ít khi được đề cập, cho nên có quan niệm quyền con người và
quyền cơng dân là đồng nhất. Việt Nam cũng vậy, hầu hết trong các bản Hiến
pháp đều không ghi nhận về quyền con người (trừ Hiến pháp năm 1992 và
Hiến pháp năm 2013), chỉ ghi nhận về quyền và nghĩa vụ của công dân. Lần
đầu tiên Hiến pháp năm 1992, tại Điều 50 ghi nhận về quyền con người: “Ở
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công
dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” - ở đây vẫn chưa có sự phân
định rạch rịi giữa quyền con người và quyền cơng dân, quyền cơng dân như
là hình thức pháp lý của quyền con người.
Quyền con người có phạm vi và nội dung rất rộng, được chia ra thành
các nhóm theo những tiêu chí khác nhau. Có thể chia ra thành năm nhóm nhỏ
hơn (gồm các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa), trong đó
các quyền dân sự thơng thường bao gồm quyền sống; quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm; quyền tự do đi lại; các quyền về tài
sản...); các quyền chính trị bao gồm quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền tham
gia quản lý xã hội...; các quyền kinh tế bao gồm quyền được hưởng mức sống
thích đáng; quyền tự do kinh doanh; quyền lao động...; các quyền xã hội bao
gồm quyền được hưởng an sinh xã hội...; và các quyền văn hoá bao gồm
quyền được giáo dục, quyền được tham gia và hưởng thụ đời sống văn hoá...).
Tuy nhiên, cần lưu ý là sự phân chia các quyền con người thành các nhóm chỉ
mang tính chất tương đối, bởi lẽ một số quyền có thể được xếp vào nhiều hơn
một nhóm [7, tr.62].
9


Trong lịch sử lập hiến của Việt Nam, quyền của con người ln được cụ
thể hóa bằng những quyền cơ bản của công dân và các quyền pháp lý khác

(trong đó có quyền tố tụng của bị cáo) và bao giờ cũng được xem là một chế
định pháp luật rất quan trọng - đây là một trong những chế định thể hiện bản
chất dân chủ, tiến bộ của một nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước
với công dân cùng với các cá nhân trong xã hội. Thông qua đó, có thể xác
định được mức độ dân chủ của một nhà nước, một xã hội.Vì vậy, những nhà
lập pháp Việt Nam ln hồn thiện chế định pháp luật về quyền cơ bản của
công dân trong đạo luật cơ bản của Nhà nước là Hiến pháp và luôn gắn liền
với nghĩa vụ của công dân [16] .
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày
28/11/2013 với nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng trong chế định quyền con
người, quyền công dân. Một trong số những sửa đổi, bổ sung đó là Hiến pháp
năm 2013 đã khơng cịn đồng nhất quyền con người với quyền cơng dân như
Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ những quyền [chỉ]
dành cho công dân và những quyền dành cho tất cả mọi người [1162].
Khi một người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật được quy định
trong Bộ luật hình sự đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, do u
cầu của cơng tác đấu tranh, phòng chống tội phạm các cơ quan tố tụng áp
dụng các biện pháp ngăn chặn và ban hành các quyết định áp dụng pháp luật
để tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố và xét xử. Trong mỗi giai đoạn tố tụng,
người thực hiện hành vi phạm tội đó có những tư cách nhất định. Từ khi bị
can bị Tòa án ra quyết định xét xử vụ án thì tư cách bị cáo của người đó xuất
hiện [8, tr.44]. Như vậy có thể hiểu bị cáo là người bị tình nghi thực hiện hành
vi phạm tội. Hành vi đó được quy định trong Bộ luật hình sự, bị VKS truy tố
bằng cáo trạng thông qua quyết định truy tố và bị Tòa án đưa ra xét xử.Với tư
cách là cá nhân, công dân, trên cơ sở nguyên tắc suy đốn vơ tội, bị
10


cáo mới chỉ bị coi là người bị tình nghi đã thực hiện tội phạm. Do vậy bị cáo
cũng có các quyền con người theo quy định trong các lĩnh vực chính trị, dân

sự, kinh tế, văn hóa và xã hội. Nhà nước cũng như các chủ thể khác phải tơn
trọng và đảm bảo thực hiện các quyền đó trên thực tế.
Quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của
Tịa án ở Mỹ thông qua việc ghi nhận các quyền của bị cáo trong pháp luật;
đồng thời, bảo đảm quyền của bị cáo được thực hiện qua hoạt động xét xử của
Tòa án, ở đó Tịa án được đặt ở vị trí là trọng tài để phán quyết trên cơ sở xem
xét các chứng cứ, tài liệu và quá trình tranh luận giữa bên buộc tội (Công tố)
và gỡ tội (Bào chữa). Quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự của Tịa án ở Mỹ chú đến quyền tranh luận, quyền tranh tụng;
quyền bào chữa; quyền đối chất; quyền xét xử kịp thời; quyền được tiếp cận
với dịch vụ trợ giúp pháp lý tốt nhất. So với TTHS ở Việt Nam, hệ thống
TTHS ở Mỹ thừa nhận mội số quyền khác như quyền được đối chất với nhân
chứng; quyền im lặng (bất cứ bị cáo nào cũng không bị buộc làm nhân chứng
để chống lại mình), quyền tiếp xúc với người bào chữa...
Bộ luật TTHS Trung Quốc ghi nhận các nguyên tắc bảo đảm quyền của
bị cáo trong hoạt động xét xử vụ án hình sự. Theo đó,TAND sơ cấp và trung
cấp xét xử sơ thẩm bởi một HĐXX gồm ba Thẩm phán hoặc các Thẩm phán
và các HTND tối đa là ba. TAND cấp cao và TAND tối cao xét xử sơ thẩm
dưới sự điều hành của HĐXX gồm từ ba đến bảy Thẩm phán hoặc các Thẩm
phán và các HTND tối đa là từ ba đến bảy người (Điều 147). Nguyên tắc xét
xử có HTND tham gia.Nghị án được biểu quyết theo đa số.Khi nghị án, nếu
HĐXX có quan điểm khác nhau thì quyết định theo đa số, nhưng phải ghi ý
kiến thiểu số vào biên bản.
Tại Việt Nam, hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về quyền của bị
cáo. Chẳng hạn có ý kiến cho rằng quyền của bị cáo là những bảo đảm pháp
11


lý được ghi nhận trong pháp luật, cho phép bị cáo sử dụng các quyền đó để
thực hiện các quyền khác hay chống lại sự vi phạm các quyền khác. Tuy

nhiên, quan niệm được nhiều học giả thừa nhận cho rằng quyền của bị cáo là
sự cụ thể hóa các quyền cơ bản của con người, quyền công dân khi một người
thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự, đã bị VKS ra
quyết định truy tố và Tòa án ra quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử. Vì thế,
Nhà nước, các cơ quan nhà nước, người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác
có trách nhiệm phải bảo đảm các quyền của bị cáo.
Như vậy, có thể hiểu quyền tố tụng của bị cáo là những nhu cầu, giá trị
và lợi ích hợp pháp của bị cáo, phù hợp với chuẩn mực quốc gia và quốc tế
được quy định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khi tham
gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử.
Từ khái niệm trên, có thể nhận diện một số đặc điểm về quyền tố tụng
của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp tỉnh
như sau:
- Căn cứ vào mức độ nghiêm trọng, tính chất của tội phạm được quy
định trong Bộ luật hình sự được thể hiện qua các chế tài áp dụng đối với các
tội phạm đó. Theo đó, Bộ luật TTHS quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự của TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh là khác nhau. So
với cấp huyện, các vụ án hình sự mà Tòa án cấp tỉnh tiến hành xét xử sơ thẩm
là những vụ án đặc biệt nghiêm trọng mà mức cao nhất của khung hình phạt là
trên 15 năm tù, hoặc những vụ án khơng thuộc thẩm quyền của Tịa án cấp
huyện theo quy định của pháp luật. Tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
của Tịa án cấp tỉnh, bị cáo đối diện với sự buộc tội của Nhà nước với mức
hình phạt nghiêm khắc nhất, trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Hoặc
các tội phạm xâm hại đến các khách thể quan trọng mà Bộ luật hình sự bảo
vệ. Đó là các tội xâm phạm an ninh quốc gia; tội phá hoại hồ bình, chống
12


loài người và tội phạm chiến tranh; Tội giết người; Tội làm chết người trong
khi thi hành công vụ; Tội vi phạm quy định điều khiển tàu bay... Bị áp dụng

những hình phạt nghiêm khắc nhất điều đó cũng có nghĩa là quyền của bị cáo
có nguy cơ bị xâm phạm ở mức nghiêm trọng nhất nếu những người tiến hành
tố tụng thực hiện không hết trách nhiệm, vi phạm luật tố tụng để xảy ra những
oan, sai. Như vậy, để bảo đảm tốt các quyền của bị cáo năng lực, trách nhiệm
của TAND cấp tỉnh và các chủ thể khác phải yêu cầu cao hơn so với cấp
huyện.
- TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm những vụ án nghiêm trọng liên quan
đến những hành vi phạm tội xâm phạm chủ quyền của Tổ quốc, an ninh quốc
gia, chống phá chế độ; những vụ án có hành vi phạm tội liên quan đến phá vỡ
khối đại đoàn kết dân tộc; các hành vi phạm tội liên quan đến hoạt động tơn
giáo trên địa bàn; các hành vi phạm tội có yếu tố nước ngoài; những hành vi
phạm tội xảy ra trên máy bay, tàu bay, hay những tội phạm có tính tổ chức ảnh
hưởng đến tình hình kinh tế, chính trị an ninh ở địa phương... Như vậy, để bảo
đảm quyền của bị cáo tại các phiên tòa xét xử các sơ thẩm các vụ án hình sự
TAND cấp yêu cầu đặt ra là phải nâng cao chất lượng của người tiến hành tố
tụng như Thẩm phán, HTND, KSV; đồng thời, TAND cấp tỉnh phải bảo đảm
chất lượng của những người tham gia tố tụng như người bào chữa, người giám
định, người phiên dịch. để bảo đảm tốt hơn quyền của các bị cáo.
- So với TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm những vụ án
hình sự mà bị cáo là Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán, cán bộ lãnh đạo
chủ chốt, vụ án có yếu tố nước ngoài. Đối với những vụ án như vậy TAND
cấp tỉnh phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, tìm hiểu, nắm bắt nhân thân của bị cáo để
có những phán quyết bảo đảm đúng pháp luật nhưng cũng phải đúng chính
sách của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phịng, chống tội phạm đối với
các bị cáo. Ngồi ra, vì vụ án phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều
13


ngành cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tố tụng với nhau để
giải quyết vụ án kịp thời, đúng pháp luật, hiệu quả như phối hợp trong công

tác triệu tập bị cáo, thực hiện nhiệm vụ trích xuất bị cáo đang ở trại tạm giam,
tìm và cử HTND, phiên dịch…
- Nội dung các quyền của bị cáo được bảo đảm tại phiên tịa hình sự
của TAND cấp tỉnh so với vụ án hình sự xét xử tại TAND cấp huyện: so với
vụ án hình sự ở cấp huyện, ở phiên tịa sơ thẩm hình sự cấp tỉnh, một số
quyền của bị cáo phải được bảo đảm, bắt buộc người tiến hành tố tụng phải
tôn trọng và thực hiện, nếu không sẽ vi phạm luật tố tụng. Chẳng hạn, một số
vụ án hình sự sơ thẩm tại TAND cấp tỉnh có khung hình phạt là tử hình phải
có luật sư bào chữa cho bị cáo. Nếu bị cáo khơng u cầu luật sư bào chữa thì
Tịa án phải cử luật sư để bào chữa cho họ. Hay đối với các vụ án bị cáo là
người chưa thành viên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất nhưng
bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ khơng mời người bào chữa thì cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các cơ quan khác phải mời
luật sư bào chữa cho bị cáo.
1.2. Hệ thống các quyền tố tụng của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự theo quy định của pháp luật của quốc tế và Việt Nam 1.2.1.
Quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử hình sự theo quy định
của pháp luật quốc tế
Quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử hình sự thuộc phạm trù quyền
con người, trong các công ước quốc tế quyền con người được ghi nhận như
[50]:
Lịch sử phát triển quyền con người cho thấy xu hướng bảo vệ các bị
cáo đối mặt với hình phạt. Do đó, nhiều quyền cơ bản đã sớm được pháp luật
ghi nhận để đạt được sự bảo vệ đó. Hiến chương của Tồ án quân sự quốc tế
(IMT) ghi nhận quyền của các bị cáo được đảm bảo quyền xét xử công bằng.
14


Sau đó, các quyền cơ bản của một cá nhân trong TTHS đã được quy định
trong UDHR, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) và

các văn kiện nhân quyền khu vực.
Quyền của bị cáo bắt nguồn từ một nguyên tắc cơ bản của luật hình sự
là suy đốn vơ tội. Ngun tắc này được nêu tại Điều 14 ICCPR và được thừa
nhận tại Điều 66 Quy chế ICC, Điều 20 Quy chế ICTR và Điều 21 Quy chế
ICTY. Theo quy định này, các cơ quan cơng quyền có nghĩa vụ phải loại bỏ
“định kiến về kết quả của một phiên tòa”. ECHR đã phán quyết rằng, quy
định này yêu cầu các công chức không được “tun bố chính thức rằng ai đó
có tội”, trừ khi có quyết định của tịa án.
Quyền bình đẳng trước tịa án Quyền này được quy định tại Điều 14
Cơng ước. Quyền về xét xử công bằng là một tập hợp các thủ tục tố tụng
nhằm bảo đảm quá trình xét xử được cơng bằng, 16 trong đó bao gồm các
khía cạnh như được bình đẳng trước tịa án, được suy đốn vơ tội, bảo đảm
quyền bào chữa, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, không bị buộc phải nhận tội…
Quyền được xét xử công bằng. Việc đối xử với một người khi họ bị
buộc tội phản ánh rõ nhà nước tôn trọng nhân quyền đến mức nào, bởi vậy,
quyền được xét xử cơng bằng đã được coi là một hịn đá tảng của các xã hội
dân chủ. Giống như đặc tính của mọi nhân quyền là phụ thuộc lẫn nhau,
quyền được xét xử cơng bằng với các quyền khác có mối quan hệ hai chiều.
Một phiên tồ cơng bằng là yếu tố thiết yếu để bảo đảm các quyền cơ bản
khác của con người như quyền sống, quyền được an tồn về thân thể, tự do
ngơn luận… Ngược lại, trong một xã hội không dân chủ, các quyền cơ bản
của con người khơng được tơn trọng thì khó có thể có chuyện mọi người đều
được xét xử cơng bằng. Quan hệ chặt chẽ giữa quyền được xét xử công bằng
với pháp trị và dân chủ cũng đã được khẳng định chính thức trong Tun
ngơn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại châu Phi.
15


Quyền bình đẳng và được xét xử độc lập, cơng khai, khơng thiên vị.
Bình đẳng thể hiện ở sự bình đẳng về quyền giữa các bên buộc tội với bên gỡ

tội có quyền như nhau trong việc đưa ra chứng cứ, u cầu. Tồ án phải độc
lập, khơng thiên vị là yếu tố quan trọng bảo đảm sự công bằng.
Quyền được suy đốn vơ tội, tại Pháp Tun ngơn nhân quyền khẳng
định mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội, việc
tạo nên định kiến cũng cần phải tránh như việc còng tay, mặc đồng phục trại
giam, cạo trọc đầu.
Quyền bào chữa, có vai trò quan trọng, bảo vệ các quyền khác, trong
khi xét xử mọi người phải được bảo đảm thực hiện quyền bào chữa như quyền
biết lý do buộc tội, quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa, trợ giúp pháp lý,
xét xử nhanh chóng…
Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên, cộng
đồng quốc tế đã quan tâm, bảo vệ người chưa thành niên về mặt pháp lý vì họ
bị hạn chế về thể chất và tâm sinh lý, các quy tắc quốc tế đã bảo đảm cho
quyền xét xử của người chưa thành niên như: Quy tắc của Liên hợp quốc về
bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do, Công ước về quyền trẻ em,
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về tư pháp người chưa thành
niên.
Quyền kháng cáo, quy định tại Điều 14/5 ICCPR: người bị kết án có
quyền u cầu Tồ án cấp cao hơn xem xét lại bản án, hình phạt mà Tồ án
cấp dưới đã tuyên.
1.2.2. Quyền tố tụng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự theo quy định của pháp luật Việt Nam.
1.2.2.1. Quyền tố tụng của bị cáo từ khi TAND cấp tỉnh quyết định đưa
vụ án sơ thẩm hình sự ra xét xử đến khi bắt đầu phiên tòa.
Giai đoạn từ khi TAND cấp tỉnh quyết định đưa vụ án sơ thẩm hình sự
16


ra xét xử đến khi bắt đầu phiên tòa các quyền của bị cáo đã được hiến pháp và
pháp luật ghi nhận tại khoản 2 Điều 61 BLTTHS 2015 như sau:

- Quyền được nhận nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định
đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác
theo quy định: Thông qua quyết định đưa vụ án ra xét xử bị cáo có thể biết
được thời gian, địa điểm mở phiên tòa, người tiến hành tố tụng, tội danh họ bị
đưa ra xét xử, vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên toà .... Những quyết
định này là căn cứ pháp lý để bị cáo có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của mình.
- Quyền tham gia phiên tồ: Trong các giai đoạn của tố tụng hình sự thì
phiên tòa xét xử sơ thẩm là giai đoạn trung tâm quan trọng nhất. Tại phiên tòa
sơ thẩm Tòa án phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án, trên cơ sở những
chứng cứ đã được kiểm tra công khai, toà án ra bản án xác định bị cáo có tội
hay khơng có tội. Trong q trình xét xử, KSV, người tiến hành tố tụng, bị cáo
có quyền bình đẳng đánh giá chứng cứ, đưa ra chứng cứ, yêu cầu làm rõ sự
thật khách quan vụ án. Vì vậy, quyền tham gia phiên toà sẽ đảm bảo cho bị
cáo thực hiện đầy đủ các quyền tố tụng khác của mình. Sự có mặt của bị cáo
tại phiên tịa là quyền và nghĩa vụ của bị cáo vì họ là người bị truy cứu trách
nhiệm hình sự và có quyền bào chữa trước tịa. Sự có mặt của bị cáo tại phiên
toà là bắt buộc, nhằm thực hiện nguyên tăc xét xử trực tiếp; bảo đảm cho Tòa
án xác định sự thật khách quan và tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo thực hiện
quyền bào chữa tại phiên tòa theo quy định của pháp luật. Bị cáo có nghĩa vụ
phải có mặt tại phiên tịa trong thời gian xét xử vụ án. Ngồi việc có mặt bị
cáo cịn phải khai báo trung thực tại phiên Tòa tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa
án xem xét xác định sự thật khách quan của vụ án và giúp cho bị cáo được
thực hiện quyền bào chữa theo quy định của pháp luật một cách thuận lợi. Tòa
17


án chỉ có thể xét xử vắng mặt bị cáo trong các trường hợp như sau: Trường
hợp bị cáo trốn tránh và việc truy nã khơng có kết quả mà trước đó Tịa án đã

tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị cáo; Trường hợp bị
cáo phải đang ở nước ngồi (khơng ở Việt Nam) và Tịa án khơng thể triệu tập
bị cáo đến phiên tòa; Trường hợp Hội đồng xét xử đã chấp nhận yêu cầu đề
nghị xét xử vắng mặt của bị cáo; Trường hợp bị cáo vắng mặt khơng vì lý do
bất khả kháng, không do trở ngại khách quan mà sự vắng mặt này không gây
trở ngại cho quá trình xét xử.
- Quyền được thơng báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ: Khi bắt đầu
phiên tòa Chủ toạ phải phải hướng dẫn cho bị cáo hiểu và đảm bảo thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của mình.
- Quyền đề nghị giám định, định giá tài sản: Việc định giá tài sản có ý
nghĩa lớn đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, góp phần giúp cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng định tội, định khung hình phạt một cách
chính xác. Xác định giá trị tài sản bị xâm phạm là một trong những cơ sở cho
việc kết luận hành vi có tội hay khơng, cũng như việc áp dụng đúng khung
hình phạt, mức hình phạt và việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, ra văn bản yêu cầu
định giá tài sản trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị định giá
tài sản của bị cáo.
- Quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người
giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật là một
trong những quyền tố tụng quan trọng nhằm đảm bảo cho tố tụng hình sự
được tiến hành một cách khách quan, vơ tư. Vì vậy để bảo đảm cho vụ án
được xét xử khách quan, vô tư và bảo đảm các quyền của bị cáo thì pháp luật
cho phép bị cáo có quyền đề nghị thay đổi. Quyền đề nghị thay đổi người tiến
hành tố tụng có thể được thực hiện ở bất kỳ thời điểm nào trong tố tụng hình
18


sự trước khi Hội đồng xét xử bắt đầu xét hỏi tại phiên tòa.
- Quyền đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người
tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia
phiên tòa để bảo vệ quyền lợi của mình, nếu xét thấy cần làm rõ những tình
tiết của vụ án bị cáo có quyền đề nghị triệu tập người người làm chứng, người
giám định, và các đối tượng khác theo quy định pháp luật để bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của mình
- Quyền đưa ra đồ vật, chứng cứ, tài liệu và yêu cầu: Trong quá trình
xét xử, việc xác định đúng đắn tính khách quan của chứng cứ có ý nghĩa rất
quan trọng trong chứng minh tội phạm dùng làm căn cứ để xác định có hay
khơng có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết
khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Bị cáo sử dụng quyền được đưa
ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu để chứng minh và bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình, nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan. Toà án dựa vào những
tin tức chứa đựng trong các tài liệu, vật chứng đó và trên cơ sở tranh tụng
cơng khai tại phiên toà để đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho việc ra phán quyết
đúng pháp luật, đảm bảo công bằng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo.
Các quyền yêu cầu của bị cáo như yêu cầu đưa thêm vật chứng, yêu cầu triệu
tập thêm người làm chứng, u cầu hỗn phiên tồ… đều được Tịa án tiếp
nhận và xem xét giải quyết.
- Quyền trình bày ý kiến về đồ vật, chứng cứ, tài liệu liên quan và yêu
cầu người có thẩm quyền đánh giá, kiểm tra: Mọi sự kiện, tình tiết của vụ án
phải được cơ quan và người có thẩm quyền xem xét, giải quyết. Việc quy
định bị cáo có quyền. Quyền trình bày ý kiến về đồ vật, chứng cứ, tài liệu liên
quan tạo điều kiện cho bị cáo có thể tham gia vào quá trình chứng minh, giải
quyết vụ án hình sự, có thể tự mình chứng minh nếu mình khơng phạm tội
19


×