Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trên cơ sở các số liệu thực tiễn của tòa án nhân dân tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 92 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN HẢI DŨNG



QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN LUẬT ĐỊNH:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN: TRÊN CƠ
SỞ CÁC DỮ LIỆU THỰC TIỄN CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN TỈNH NAM ĐỊNH




LUẬN VĂN TH.S LUẬT



Ngưới hướng dẫn:.TSKH.PGS Lê Văn Cảm




Hà Nội 2007



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ
hoặc hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội, hình phạt mang lại
những hiệu quả nhất định không những trong việc trừng trị người phạm tội
mà còn có vai trò to lớn trong việc cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành
người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới và đồng thời giáo dục
người khác tôn trọng pháp luật, góp phần đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Việc quyết định hình phạt sẽ thực sự phát huy tác dụng, đúng như
mong muốn của nhà làm luật một khi nó tuân thủ các nguyên tắc luật định,
đồng thời phù hợp với thực tế điều kiện, hoàn cảnh phạm tội. Chính vì thế
BLHS đã thiết lập một chế định mềm dẻo cho phép khi quyết định hình phạt,
Toà án có thể cho người bị kết án hưởng một hình phạt nhẹ hơn luật định.
Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định là một chế định quan trọng trong thực
tiễn áp dụng pháp luật, tuy nhiên nó được quy định tương đối ít trong BLHS
(Điều 47). Trong thực tiễn áp dụng pháp luật việc quyết định hình phạt nhẹ
hơn luật định cũng còn gặp những vướng mắc nhất định cần tháo gỡ, xuất
hiện những bất cập trong quy định của BLHS cần phải xem xét, nghiên cứu
để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
Việc quy định những biện pháp này xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo
trong chính sách hình sự của Nhà nước nói chung và Luật hình sự Việt Nam
nói riêng, từ quan điểm cho rằng việc truy cứu trách nhiệm hình sự và xử phạt
về hình sự mặc dù là rất quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế, củng cố trật tự
pháp luật song không phải là biện pháp duy nhất mà đòi hỏi “ngày càng mở
rộng các biện pháp tác động xã hội khác để đấu tranh phòng và chống tội
phạm” [25]. Mặt khác, nó còn để thực hiện phương châm trong đường lối xử lý



2
tội phạm và người phạm tội của Nhà nước ta, đó là “nghiêm trị kết hợp với
khoan hồng”, “trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo”.
Đến lần pháp điển hóa lần thứ nhất Luật hình sự Việt Nam bằng việc
thông qua BLHS năm 1985, quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định đã được
ghi nhận chính thức, nhưng nó vẫn được quy định chung cùng với những tình
tiết giảm nhẹ tại một điều của Bộ luật (Điều 38). Tương tự như vậy, đến lần
pháp điển thứ hai Luật hình sự bằng việc thông qua BLHS năm 1999, các quy
định về quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định cũng đã được sửa đổi, bổ sung
và tiếp tục hoàn thiện, mà cụ thể nó đã được ghi nhận tại một điều luật riêng
biệt trong Phần chung (Điều 47). Tuy nhiên, lần pháp điển hóa thứ hai vừa qua
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về mặt lập pháp đối với chế định này, cũng
như thực tiễn áp dụng nó kể từ khi Bộ luật có hiệu lực thi hành. Chẳng hạn, cả
BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999 vẫn chưa đưa ra được định nghĩa pháp lý
của khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định, các tình tiết giảm nhẹ
TNHS ngoài quy định tại khoản 1 Điều 46 có giá trị như thế nào trong khi
quyết định một hình phạt nhẹ hơn luật định. Mặt khác, trong thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự cho thấy những quy phạm của chế định này còn nhiều bất
cập, một số quy định chưa chặt chẽ về nội dung và chưa thống nhất, đặc biệt
trong thực tiễn đời sống xã hội & thực tiễn pháp lý đang tồn tại vấn đề là tại
sao lại quy định chỉ được quyết định hình phạt trong khung hình phạt nhẹ hơn
liền kề, trong khi các chế định khác như miễn hình phạt, miễn trách nhiệm hình
sự còn mang lại hậu quả pháp lý có lợi hơn nhiều cho người phạm tội thì trên
thực tế cơ sở để áp dụng cũng tương tự như cơ sở khi quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS. Điều đó cho thấy những bất hợp lý, không cân đối
trong luật hình sự thực định.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt
khoa học các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về quyết
định hình phạt nhẹ hơn luật định và vấn đề áp dụng trong thực tiễn, đồng thời



3
đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy định của chế định này, cũng như
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định về quyết định hình phạt
nhẹ hơn luật định không những có ý nghĩa lý luận-thực tiễn và pháp lý quan
trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây chính là lý do luận chứng
cho việc chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Quyết định hình phạt nhẹ hơn
luật định: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Trên cơ sở các số liệu thực tiễn
của TAND tỉnh Nam Định)” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu:
Chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định có liên quan mật thiết
và chặt chẽ đến chế định hình phạt và nhiều chế định khác trong luật hình sự.
Ở Việt Nam, quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định cũng mới chỉ được quy
định tại một điều luật riêng lẻ (Điều 47 BLHS năm 1999), điều đó chứng tỏ
quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định vẫn chưa được các nhà lập pháp coi
trọng đúng mức và nhận thức được tầm quan trọng của chế định này cũng như
nhu cầu cần quy định cụ thể và đầy đủ hơn trong BLHS.
Cũng giống như phương diện lập pháp, trên phương diện nghiên cứu, lý
luận chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định cũng vẫn chưa được
quan tâm một cách đúng mức mặc dù đây là một chế định quan trọng, có ý
nghĩa lớn lao đối với quá trình đấu tranh phòng và chống tội phạm của Nhà
nước, thể hiện quan điểm nhân đạo, đường lối chính trị mang đậm nét nhân
văn của Đảng và Nhà nước ta. Cho đến nay, chưa có một công trình khoa học
nào nghiên cứu một cách công phu và đầy đủ ở cấp độ một luận văn thạc sỹ
hay một luận án tiến sĩ về đề tài này. Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định
mới chỉ được nghiên cứu với tư cách là đề tài của các khóa luận tốt nghiệp cử
nhân luật hoặc rải rác trên một số Tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành,
hay được đề cập với tư cách là một vấn đề (khía cạnh liên quan) của các chế

định khác như hình phạt, quyết định hình phạt, các biện pháp tha miễn, các


4
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Tuy nhiên, đáng chú ý, đó là công trình
nghiên cứu của TSKH, PGS Lê Cảm: 1) Về bản chất pháp lý của quy phạm
"Nguyên tắc quyết định hình phạt" tại Điều 37 BLHS 1985 (Một số vấn đề lý
luận-thực tiễn & hoàn thiện pháp luật, Tạp chí Toà án nhân dân - số 1, 2 năm
1989); 2) Nhân thân người phạm tội: một số vấn đề lý luận cơ bản (Tạp chí
Toà án nhân dân - số 10/2001); 3) Nhân thân người phạm tội: một số vấn đề
lý luận cơ bản (đồng tác giả với Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Toà án nhân dân - số
1/2003); 4) Quyết định hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt đối với một tội: Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn (đồng tác giả với Võ Khánh Vinh, tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 1, 2 năm 1988).
Ngoài ra, phải kể đến các nghiên cứu của các tác giả khác như: 1) Định
tội danh và quyết định hình phạt (Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2004
của TS. Dương Tuyết Miên); 2) Định tội danh và quyết định hình phạt trong
Luật hình sự Việt Nam (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2004 của TS Lê
Văn Đệ); 3) Quyết định hình phạt (Chương XIV, Giáo trình luật hình sự Việt
Nam, Phần chung, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 của ThS Trịnh Quốc
Toản); 4) Về ảnh hưởng của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong
việc quyết định hình phạt (Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1/2004 của tác giả
Trịnh Tiến Việt); 5) Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS (Tạp
chí Pháp lý, số 7/2000 của tác giả Phan Hữu Thức)
Tuy nhiên, tất cả những nghiên cứu trên đây của các tác giả mới ở dưới
dạng là các bài viết đăng trên tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục
trong các giáo trình, sách tham khảo hay sách bình luận, hoặc mới chỉ xem xét
vấn đề ở cấp độ một khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật. Có nghĩa là cho đến nay
trong khoa học luật hình sự của Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu nào đề
cập đến chế định này một cách tương đối có hệ thống, tương đối đồng bộ và ở

cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học có gắn với việc nghiên cứu thực tiễn xét xử
của Toà án trên một địa phương nhất định. Hơn nữa, nhiều vấn đề lý luận và


5
thực tiễn xung quanh chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định cũng đòi
hỏi cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn.

3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu:
Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định là một chế định hẹp và tương
đối phức tạp, nghiên cứu về quyết định hình phạt có nhiều nghiên cứu chung,
đồng bộ mà ít có nghiên cứu chuyên sâu về từng trường hợp cụ thể, nên việc
hiểu trong lý luận và vận dụng trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn vướng
mắc. Bởi vậy, phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ xem xét và giải quyết một
số vấn đề xung quanh chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
BLHS như:
1) Khái niệm quyết định hình phạt, bản chất pháp lý, ý nghĩa, căn cứ
quyết định hình phạt.
2) Khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định.
3) Các căn cứ pháp lý quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định.
4) Lý luận và thực tiễn áp dụng, những vướng mắc và phương hướng giải
quyết đối với quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định.
Trên cơ sở nghiên cứu những nội dung cơ bản của chế định quyết định
hình phạt nhẹ hơn luật định, tác giả của luận văn đi sâu nghiên cứu chế định
quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định trên phương diện (khía cạnh) lập pháp
và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn, đưa ra các giải pháp hoàn thiện
các quy phạm của chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Với mục đích nghiên cứu nêu trên trong luận văn này, tác giả tập trung

vào giải quyết những nhiệm vụ chính như sau:
1) Phân tích căn cứ quyết định hình phạt được ghi nhận trong pháp luật
hình sự thực định, một số quan điểm khác nhau về quyết định hình phạt.


6
2) Phân tích các quan điểm khác nhau về khái niệm quyết định hình
phạt nhẹ hơn luật định, khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chế định
này để đưa ra quan điểm của mình.
3) Phân tích nội dung, điều kiện áp dụng những trường hợp quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS theo các quy định của BLHS năm 1999
hiện hành và thực tiễn áp dụng tại TAND tỉnh Nam Định từ năm 2000 đến
năm 2005. Qua đó phân tích một số tồn tại xung quanh việc quy định và áp
dụng chế định này.
4) Luận chứng cho sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định và đưa ra một
số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định này.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử
và phương pháp tổng hợp , cũng như những thành tựu của khoa học luật hình
sự, khoa học luật tố tụng hình sự, xã hội học pháp luật… trong các công trình
của các nhà khoa học - luật gia ở trong và ngoài nước.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong một số vụ án
hình sự mà thực tiễn xét xử và thông tin trên mạng Internet để phân tích và
đánh giá, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:

Ý nghĩa lý luận-thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã
làm rõ khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của quyết định
hình phạt nhẹ hơn luật định, nội dung và điều kiện áp dụng của những trường
hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định trên cơ sở xem xét các quy định


7
của pháp luật hình sự hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện
các quy phạm của chế định này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng
trong thực tiễn.
Ngoài ra, ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng, đây là
nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề
cập đến chế định quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định có gắn với thực tiễn,
do đó nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ
nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và
sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự.

7. Bố cục của Luận văn:
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn bao
gồm ba chương với kết cấu như sau:

Chương 1: Một số vấn đề chung về quyết định hình phạt nhẹ hơn luật
định.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng việc quyết định hình phạt nhẹ hơn luật
định tại TAND tỉnh Nam Định (thời kỳ 2000 – 2005).
Chương 3: Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
pháp luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định.











8




Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN LUẬT ĐỊNH

1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của quyết định hình phạt
nhẹ hơn luật định:

1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định:
* Một số khái niệm của các nhà khoa học:
Điều 38 khoản 3 BLHS năm 1985 và Điều 47 BLHS năm 1999 quy
định quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Nội
dung của các điều, khoản này là Toà án sẽ áp dụng một hình phạt dưới mức
thấp nhất hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn nếu có
nhiều tình tiết giảm nhẹ. Quy định này đã được Toà án áp dụng rất nhiều trên
thực tế, tuy nhiên để hiểu chính xác và đúng đắn tinh thần điều luật và nội
dung bên trong của nó thì vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Có một câu
hỏi là: như thế nào là "dưới mức thấp nhất" và như thế nào là "chuyển sang

một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn". Ví dụ khoản 4 Điều 185d có khung
hình phạt là tù chung thân hoặc tử hình; khi Toà án áp dụng hình phạt là 20
năm tù thì đây có nghĩa là "hình phạt dưới mức thấp nhất" hay là "chuyển
sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn".
- Theo Thạc sỹ Đinh Văn Quế - Chánh Toà hình sự - Toà án nhân dân
Tối cao, thì: "Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự là
trường hợp Toà án có thể áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của


9
khung hình phạt mà điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt
khác thuộc loại nhẹ hơn" [24].
- Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất là tuyên một hình phạt thấp
hơn so với mức thấp nhất của khung hình phạt quy định, nhưng không được
thấp hơn mức thấp nhất của loại hình phạt đó. Thay thế một hình phạt khác
nhẹ hơn là thay thế loại hình phạt được quy định đối với tội đó bằng một hình
phạt nhẹ hơn không được quy định trong điều luật đó [32].
- Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà
điều luật đã quy định nghĩa là quyết định một hình phạt thấp hơn mức tối
thiểu của hình phạt ở chế tài của khung hình phạt tương ứng, nhưng phải
trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật hoặc một hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung trong trường hợp chỉ có một khung hình phạt hoặc
khung hình phạt đó là khung nhẹ nhất của điều luật. Quyết định chuyển sang
một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn nghĩa là quyết định thay thế loại hình
phạt được quy định trong điều luật hoặc khoản của điều luật đối với tội đang
xét xử bằng một loại hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn không được quy định
trong điều luật hoặc khoản của điều luật đó [29].
- Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy định,
tức là áp dụng hình phạt đó với mức thấp hơn mức thấp nhất của khung hình
phạt mà điều luật quy định đối với tội phạm bị xét xử. Chuyển sang một hình

phạt khác thuộc loại nhẹ hơn nghĩa là thay thế loại hình phạt được quy định
trong điều luật về tội phạm bị xét xử bằng một loại hình phạt khác nhẹ hơn
không được quy định trong điều luật

[30].
Những định nghĩa trên đây mới chỉ dừng lại ở việc giải thích theo nội
dung điều luật (Điều 38 khoản 3 BLHS 1985, Điều 47 BLHS 1999) mà chưa
có sự phân biệt để trả lời cho những thắc mắc đã nêu trên. Lý giải cặn kẽ vấn
đề này sẽ có cơ sở để đưa ra những tiêu chí, căn cứ giải quyết vấn đề khi nào
thì quyết định hình phạt nhẹ hơn (và phải cùng loại hình phạt), khi nào được


10
chuyển sang một loại hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Ví dụ bị cáo Phạm
Văn Thê và Phạm Thị Kim bị xét xử về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà
nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" theo khoản 1 điều 165
BLHS năm 1999, Toà án đã tuyên phạt Thê 9 tháng tù, Kim 6 tháng tù và
khẳng định đây là áp dụng điều 47 BLHS 1999 để quyết định hình phạt dưới
mức khởi điểm của khung hình phạt. Vậy trường hợp này áp dụng điều luật
và cho rằng đã quyết định hình phạt dưới mức khởi điểm của khung hình phạt
đã đúng chưa? Mức khởi điểm của khung 1 điều 165 là như thế nào, hình phạt
cải tạo không giam giữ hay hình phạt tù, hoặc mức thấp nhất của mỗi loại
hình phạt đều là mức khởi điểm của khung Cả Điều 38 khoản 3 BLHS 1985,
Điều 47 BLHS 1999 cũng như các định nghĩa nêu trên đều chưa làm rõ được
vấn đề này, vì thế cần thiết phải nghiên cứu kỹ lưỡng nhằm đưa ra định nghĩa
đúng đắn, bao quát mọi trường hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định.

* Căn cứ quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự cho thấy quyết định
hình phạt nhẹ hơn luật định là việc Toà án có thể đưa ra một hình phạt dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định (nhưng phải

trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật nếu điều luật có từ hai
khung trở lên) hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Hiện
nay có quan điểm cho rằng khi Toà án áp dụng một mức hình phạt dưới mức
thấp nhất của khung hình phạt đối với riêng loại hình phạt đó là đã quyết định
một hình phạt nhẹ hơn luật định. Ví dụ khung có hai loại hình phạt là tù từ
một năm đến năm năm và cải tạo không giam giữ đến ba năm, nếu Toà án
quyết định mức hình phạt sáu tháng tù giam tức là bị cáo đã được vận dụng
điều 47 Bộ luật hình sự để được hưởng quy định quyết định hình phạt nhẹ hơn
luật định. Theo tôi quan điểm trên chưa thuyết phục bởi vì điều 47 BLHS quy
định: "thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung" tức là phải dưới tất cả các loại hình phạt thấp nhất được quy định


11
trong khung đó. Như ví dụ trên mức hình phạt sáu tháng tù giam chưa phải là
được áp dụng điều 47 BLHS, vậy xếp nó vào loại nào? Có thể quy định như
hiện nay đã gây khó khăn cho việc hiểu và vận dụng điều luật trên thực tế,
còn gây tranh cãi và áp dụng khác nhau giữa các địa phương. Nếu điều luật
nói rõ là quyết định một hình phạt cùng loại dưới mức thấp nhất của khung
(tôi xin nhấn mạnh là cùng loại) thì những khái niệm trên là đúng, còn nói
chung một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung thì theo cách hiểu phổ
thông nhất tức là phải bao gồm dưới "trọn gói", dưới toàn bộ tất cả các loại
hình phạt có trong khung đó. Tuy nhiên hiện thời để có căn cứ pháp lý cho
việc quyết định một mức hình phạt dưới khung, cùng loại thì nên theo các
khái niệm hiện nay. Một vấn đề là quy định như thế nào thì có lợi cho bị cáo,
đồng thời thể hiện sự minh bạch, rõ ràng của pháp luật, theo tôi việc quyết
định một hình phạt cùng loại dưới mức thấp nhất của khung nên có quy định
riêng cho cụ thể hơn, và khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định có
thể hiểu là: "Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định là việc Toà án áp
dụng một mức hình phạt, theo cùng một loại hình phạt nhẹ hơn hoặc

chuyển sang một loại hình phạt khác nhẹ hơn khung hình phạt đối với
một tội phạm cụ thể được quy định trong Phần các tội phạm của Bộ luật
hình sự mà bị cáo bị Toà án đưa ra xét xử".

1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của quyết định hình phạt nhẹ hơn luật
định:
* Mang đặc điểm của hoạt động quyết định hình phạt nói chung:
- Chỉ có thể do một cơ quan tư pháp duy nhất thực hiện, đó là Toà án.
Điều 127 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định: "Toà án nhân dân Tối cao,
các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do
luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam". Như vậy đây là quy định xuất phát từ đạo luật gốc - Hiến pháp, có giá


12
trị pháp lý cao nhất, không cơ quan nào có thể làm thay Toà án trong hoạt
động xét xử. Cụ thể hoá điều này, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002
ngay tại Điều 1 đã nhắc lại quy định này và khẳng định: "Toà án xét xử những
vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và
giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật". Điều 72 Hiến pháp
năm 1992 (sửa đổi) quy định: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt
khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật", quy định này
cũng được nhắc lại tại Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự. Chỉ có Toà án mới có
thẩm quyền quyết định một hình phạt đối với một người (bị kết tội) - Điều 26
Bộ luật hình sự quy định: "Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và
do Toà án quyết định". Các cơ quan hành chính chỉ có thể ra quyết định xử lý
vi phạm hành chính, quyết định kỷ luật mà không bao giờ được áp dụng hình
phạt với bất cứ cá nhân nào. Tóm lại, Toà án là cơ quan duy nhất được Hiến
pháp quy định chức năng xét xử các vụ án hình sự và quyết định áp dụng hình
phạt đối với một cá nhân bị kết án.

- Việc quyết định hình phạt chỉ có thể được thực hiện thông qua bản
án kết tội và Toà án quyết định áp dụng hình phạt đối với người bị kết án:
Theo Điều 72 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Điều 9 Bộ luật tố tụng hình
sự thì một người chỉ phải chịu hình phạt khi có bản án kết tội (có hiệu lực
pháp luật). Như vậy một bản án không kết tội thì không thể có một hình phạt
nào được đưa ra, nếu Toà án miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt
thì cũng không có hình phạt xuất hiện.
* Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định là việc Toà án căn cứ vào
các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đưa ra một hình phạt (mức
hoặc loại) thấp hơn (các) hình phạt có trong khung, điều quy định về một tội
phạm được áp dụng để xét xử người phạm tội khi không có các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự đó. Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Toà
án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát


13
truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử. Toà án có thể xét xử bị cáo theo
khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật
hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố".
Việc áp dụng một hình phạt nhẹ hơn luật định không thể căn cứ vào khung,
điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố để đánh giá nhẹ hay nặng hơn, vì ngay
trong Điều 196 vừa nêu đã cho phép Toà án xét xử bị cáo với khung, điều luật
nhẹ hơn, điều này căn cứ vào việc đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên toà xét xử công khai. Theo nguyên tắc
có lợi cho bị cáo, luật đã đưa ra quy định như tại điều 196 Bộ luật tố tụng hình
sự. Cho nên đánh giá một quyết định hình phạt nhẹ hơn phải đối chiếu với
trường hợp áp dụng hình phạt đối với những hành vi cùng tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội tương tự như nhau trong điều kiện không có các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.


* Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định cũng là thể hiện nguyên tắc
nhân đạo trong pháp luật hình sự. Điều 3 Bộ luật hình sự quy định nguyên
tắc xử lý là:
"2….
Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người
đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại gây ra.
3. Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có
thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc
gia đình giám sát, giáo dục".
Khoản 2 Điều 3 đã được quy định cụ thể thành các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự tại Điều 46 Bộ luật hình sự. Tinh thần của khoản 3 Điều
3 cũng được ghi nhận tại một phần của Điều 47 Bộ luật hình sự.


14
Theo quy định của Bộ luật hình sự, nếu người lần đầu phạm tội ít
nghiêm trọng, đã hối cải, thì Toà án có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục. Hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù bao gồm các hình phạt như: cảnh cáo, phạt tiền, cải
tạo không giam giữ. Ngoài ra, việc Toà án cho người phạm tội được hưởng án
treo cũng được coi là nhẹ hơn hình phạt tù. Nguyên tắc không áp dụng hình
phạt tù đối với người phạm tội là cơ sở quy định các chế định, các quy định
khác về quyết định hình phạt như: căn cứ quyết định hình phạt (Điều 45);
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự (Điều 47); án treo
(Điều 60) [26].
* Tuy nhiên, người bị kết án vẫn phải chịu án tích. Khi được áp dụng
hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật thì người bị kết án phải chịu một
trong sáu loại hình phạt chính được quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật hình
sự (trừ hình phạt tử hình), không phải trường hợp được miễn hình phạt cho

nên không thuộc trường hợp đương nhiên xoá án tích. Với một bản án kết tội
và một hình phạt nhất định thì người bị kết án phải có một khoảng thời gian
nhất định mới được xoá án tích, và phải chịu hậu quả pháp lý của việc mang
án tích như có thể bị xác định là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm khi phạm
tội mới

* Hình phạt do Toà án quyết định đối với người bị kết án luôn luôn
không nằm trong khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố và Toà án đã
quyết định đưa ra xét xử, nó nằm ở khung hình phạt nhẹ hơn. Theo quy định
tại Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 thì nó nằm ở khung hình phạt liền kề
nhẹ hơn. Hiện nay có một số quan điểm tranh luận về khung liền kề nhẹ hơn
là như thế nào, và một số vướng mắc khi áp dụng Điều 47:
- Thạc sỹ Lê Đăng Doanh đã viết trong bài: "Quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của BLHS" cụ thể về tội "Hiếp dâm trẻ em" [28]. Đó là theo


15
quy định của Điều 112 BLHS 1999 sẽ nảy sinh vấn đề bất cập khi vận dụng
Điều 47 với trường hợp sau đây: H đủ 18 tuổi, chưa có tiền án, tiền sự đã
thực hiện hành vi hiếp dâm cháu C mới 12 tuổi 6 tháng (thuộc khoản 4 Điều
112). Nhưng H có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 46
BLHS như: tự thú, thật thà khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường
thiệt hại 10 triệu đồng theo yêu cầu của người bị hại để khắc phục hậu quả
(điểm b, o, p khoản 1 Điều 46). Không có các tình tiết tăng nặng đáng kể, gia
đình phía bị hại có đơn xin giảm nhẹ cho bị cáo. Vậy trường hợp này, vận
dụng quy định của Điều 47 BLHS để quyết định hình phạt dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt được áp dụng như thế nào?
Thứ nhất: nếu phạt H dưới 12 năm thì giới hạn thấp nhất là bao nhiêu
và nằm trong khung hình phạt nào? Bởi nếu khung hình phạt liền kề khoản 4
là khoản 3 thì khoản 3 Điều 112 có mức phạt 20 năm, tù chung thân hoặc tử

hình. Đây là khung hình phạt liền kề nặng hơn. Còn khoản 2 có mức phạt tù
từ 12 năm đến 20 năm là khung hình phạt nhẹ hơn nhưng nếu vận dụng dưới
mức thấp nhất của khoản 4 là dưới 12 năm và phải nằm trong khung hình phạt
nhẹ hơn là khoản 2 (mức 12 đến 20 năm tù) thì mức hình phạt lại không thể
thấp hơn 12 năm được. Vì vậy không thể áp dụng khoản 2 để xử lý H được.
Vậy chỉ còn khoản 1 Điều 112 với mức phạt tù từ 7 đến 15 năm có thể được
gọi là khung hình phạt nhẹ hơn và mức hình phạt dưới 12 năm nhưng phải
nằm trong phạm vi từ 7 đến 15 năm (tức không được thấp hơn 7 năm). Nhưng
khoản 1 có được coi là khung hình phạt liền kề nhẹ hơn không? Và điều quan
trọng là khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 112 chỉ áp dụng với người phạm tội
mà nạn nhân là trẻ em nữ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Còn khoản 4 thì áp
dụng với người phạm tội hiếp dâm trẻ em mà nạn nhân là trẻ em nữ dưới 13
tuổi. Do vậy, khi H phạm tội thuộc khoản 4 Điều 112 thì không có khung
hình phạt liền kề nhẹ hơn, do đó giới hạn mức thấp nhất của hình phạt không
xác định được.


16
Theo quan điểm của tác giả Lê Đăng Doanh thì khi áp dụng Điều 47
trong trường hợp này phải coi đây là trường hợp phạm tội có một khung hình
phạt. Vì vậy, khi H tập trung nhiều tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 1 Điều 46
BLHS thì Toà án có quyền quyết định hình phạt dưới mức 12 năm, nhưng
giới hạn tối thiểu dưới 12 năm là bao nhiêu? Nếu theo khoản 4 Điều 112 do
luật không quy định rõ ràng, nên giới hạn tối thiểu ở đây được hiểu là không
thấp hơn 3 tháng tù (giới hạn thấp nhất của hình phạt tù). Và như vậy H có thể
được Toà án tuyên hình phạt 3 tháng tù, 6 tháng tù là mức hình phạt dưới 12
năm tù vẫn phải coi là đúng pháp luật. Trường hợp thực tế có thể xảy ra như
nêu trên rõ ràng là giảm nhẹ quá mức cần thiết, do đó để tránh sự lạm dụng
quy định không chặt chẽ của pháp luật và giảm nhẹ quá đáng cho người phạm
tội, cần có sự giải thích chính thức từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền

để thống nhất đường lối xử lý và đảm bảo tính pháp chế.
Tác giả còn đưa ra một số trường hợp vướng mắc tương tự như tại
Điều 84 tội khủng bố, Điều 111 khoản 4 tội hiếp dâm, Điều 113 khoản 3 tội
cưỡng dâm Những trường hợp này luật chỉ dự liệu các trường hợp tăng nặng
trách nhiệm hình sự. Còn trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ và có đủ
điều kiện để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì
chưa được dự liệu cụ thể trong luật, nhất là dưới hạn mức thấp nhất tối thiểu
của hình phạt, vì vậy dễ dẫn đến sự vận dụng pháp luật thiếu thống nhất.
- Tác giả Dương Tuyết Miên cũng đề cập đến tội hiếp dâm trẻ em
khoản 4 Điều 112 với vướng mắc khi áp dụng vào thực tiễn xét xử [23]. Đó là
trường hợp bị cáo được áp dụng điều luật này khi bản thân bị cáo có 3 tình tiết
giảm nhẹ quy định ở Điều 46. Toà án cho bị cáo hưởng hình phạt dưới mức
thấp nhất của khung hình phạt. Mặc dù hình phạt Toà án tuyên cho bị cáo
không thấp hơn nhiều so với mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng hình
phạt này lại không thuộc khung hình phạt nhẹ hơn kế tiếp. Và trường hợp này,
cán bộ xét xử hoàn toàn tuân thủ pháp luật nhưng vô hình trung lại trở thành


17
người vi phạm Điều 47 BLHS. Ví dụ Toà án xử cho bị cáo 10 năm tù là dưới
mức thấp nhất của khoản 4 Điều 112. Tuy nhiên khoản 3 Điều 112 lại quy
định hình phạt là tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Điều đó có nghĩa là
khoản 3 Điều 112 không phải là khung hình phạt nhẹ hơn liền kề. Như vậy,
hình phạt mà Toà án tuyên cho bị cáo thực tế lại tương ứng với khoản 1 Điều
112. Trường hợp này, mặc dù hình phạt mà Toà án tuyên cho bị cáo không
thấp hơn nhiều so với mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng vì điều luật
không quy định khung hình phạt nhẹ hơn liền kề khung hình phạt được áp
dụng nên hình phạt thực tế Toà án tuyên cho bị cáo lại thuộc về một khung
hình phạt khác, cách xa khung hình phạt được áp dụng.
- Ngoài trường hợp vướng mắc ở khoản 4 Điều 112 BLHS nêu trên,

tác giả Đỗ Văn Chỉnh còn đưa ra hai tình huống khác [20]. Đó là: 1. Người
phạm tội đã tự thú về hành vi phạm tội trước đó, mà việc tự thú này lại làm
xấu đi tình trạng của bị can, bị cáo. Ví dụ một người có hành vi bán hêrôin bị
bắt quả tang. Sau đó người này tự thú là: trước khi bị bắt quả tang, anh ta đã
có một lần bán hêrôin. Lời thú tội này được xác minh là đúng, vậy nên bị cáo
đã vi phạm khoản 2 Điều 194 BLHS với tình tiết phạm tội nhiều lần. (Nếu
người phạm tội không tự thú về hành vi phạm tội trước đó thì người này chỉ
vi phạm vào khoản 1 Điều 194 BLHS). Vì chỉ có một tình tiết giảm nhẹ là tự
thú nên Toà án không thể xử phạt họ dưới 7 năm tù được. 2. Bị cáo chỉ có một
tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS nhưng có hai hoặc ba
tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS.
Tác giả có ý kiến như sau:
+ Đối với người phạm tội hiếp dâm mà người bị hại chưa đủ 13 tuổi,
người phạm tội lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 1 Điều 46; nhưng
lại không thể xử phạt dưới mức thấp nhất quy định tại khoản 4 Điều 112
được. (Vì khung hình phạt liền kề lại có mức phạt cao hơn). Căn cứ vào quy
định tại Điều 112 BLHS thì: Điều 112 quy định về tội hiếp dâm trẻ em. Trong


18
điều luật này chia làm hai loại tuổi trẻ em là người bị hại. Khoản 1, khoản 2
và khoản 3 điều luật này để trừng trị người hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi. Còn khoản 4 là để trừng trị người hiếp dâm trẻ em chưa đủ 13
tuổi. Mức phạt quy định tại khoản 4 là mức phạt quy định chung cho người
phạm tội từ đủ 14 tuổi trở lên. Quy định mức phạt thấp nhất tại khoản 4 Điều
112 là đúng với khoản 2 Điều 12 và khoản 2 Điều 74 BLHS và sát với thực tế
cuộc sống. Vì có trẻ em chưa đủ 16 tuổi đã hiếp dâm trẻ em chưa đủ 13 tuổi
và còn có tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần. Việc áp dụng pháp luật sẽ
là: Người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi mà hiếp dâm trẻ em
chưa đủ 13 tuổi thì áp dụng khoản 4 Điều 112 để định tội danh, áp dụng

khoản 2 Điều 12 và khoản 2 Điều 74 BLHS để xác định mức phạt tù. Khoản 2
Điều 74 có quy định là: "Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi
phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc
tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm
tù ". Đây là mức phạt đặc biệt để áp dụng đối với người phạm tội từ đủ 14
tuổi đến chưa đủ 16 tuổi mà không phụ thuộc vào Điều 47 BLHS. Vì trong
khoản 2 Điều 74 BLHS có quy định là: " mức hình phạt cao nhất được áp
dụng không quá mười hai năm tù" quy định này còn được hiểu là có thể có
người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi không phải chịu mức hình
phạt cao nhất là mười hai năm tù, mà có thể là dưới mười hai năm tù.
Do pháp luật chỉ quy định có một khung hình phạt đối với người phạm
tội hiếp dâm trẻ em mà người bị hại chưa đủ 13 tuổi nên việc so sánh mức
phạt quy định tại khoản 4 Điều 112 BLHS với mức phạt quy định tại khoản 3
Điều 112 BLHS là mức phạt cao nhất áp dụng đối với người phạm tội hiếp
dâm trẻ em mà người bị hại từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi là không thích
hợp. (Vì đây là hai trường hợp phạm tội khác nhau).
Đối với người thành niên phạm tội hiếp dâm trẻ em mà người bị hại
chưa đủ 13 tuổi, tội phạm đã hoàn thành và đạt được mục đích của người


19
phạm tội, tuy người phạm tội có hai hay ba tình tiết giảm nhẹ quy định tại
khoản 1 Điều 46 BLHS thì việc áp dụng Điều 47 BLHS cần có sự cân nhắc
kỹ lưỡng để không phạm thiếu sót. Vì trẻ em chưa đủ 13 tuổi là đối tượng mà
toàn xã hội cần có sự bảo vệ, chăm sóc đặc biệt. Mặt khác, trong Điều 47
BLHS quy định là: "Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1
Điều 46 Bộ luật này, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt ". Ở đây, điều luật quy định là "có thể" chứ không
phải là được quyết định. Trong khi đó, tội hiếp dâm trẻ em mà người bị hại
chưa đủ 13 tuổi lại chỉ có một khung hình phạt, và loại tội phạm này chưa

giảm.
+ Đối với người mua bán hêrôin bị bắt quả tang đã tự thú về hành vi
mua bán trái phép trước đó, nếu không tự thú thì họ chỉ bị xử phạt theo khoản
1 Điều 194 BLHS, còn tự thú lại bị xử phạt theo khoản 2 Điều 194 BLHS. Do
có một tình tiết giảm nhẹ là tự thú nên Toà án không thể xử phạt họ dưới 7
năm tù được. Tác giả cho rằng có thể Hội đồng xét xử đánh giá chưa thật đầy
đủ về các lời khai của người phạm tội. Thực tế công tác xét xử cho thấy,
người đã tự thú về hành vi phạm tội mà hành vi này không có ai biết, thì
thông thường người này cũng thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội đã bị
phát hiện hoặc tại phiên toà những người này thường tỏ rõ sự ăn năn hối cải.
Như vậy, người phạm tội sẽ có hai tình tiết giảm nhẹ là: tự thú và ăn năn hối
cải. Vấn đề là Hội đồng xét xử đã đánh giá đầy đủ tình tiết giảm nhẹ chưa.
Tuy Toà án áp dụng khoản 2 Điều 194 BLHS để xử phạt nhưng bị cáo
có hai tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 1 Điều 46 BLHS nên áp dụng Điều 47
BLHS để xử phạt dưới 7 năm tù, có như vậy mới khuyến khích người phạm
tội tự thú.
+ Đối với trường hợp bị cáo chỉ có một tình tiết giảm nhẹ quy định tại
khoản 1 Điều 46 BLHS và có nhiều tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 2 Điều 46
BLHS mà không thể áp dụng Điều 47 BLHS được. Để giải quyết vấn đề này


20
cần phải tổng kết việc áp dụng Điều 47 BLHS và phải do cơ quan có thẩm
quyền quyết định có nên cho quy đổi hai hoặc ba tình tiết giảm nhẹ thuộc
khoản 2 Điều 46 BLHS thành một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1
Điều 46 BLHS hoặc tăng thêm tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 Điều 46 BLHS
hay không. Còn hiện nay vẫn phải tuân theo quy định tại Điều 47 BLHS năm
1999 mà không thể làm khác được.



1.2. Các nguyên tắc và căn cứ quyết định hình phạt nhẹ hơn luật
định:

1.2.1. Vài nét về các nguyên tắc quyết định hình phạt (nói chung):
Nguyên tắc của luật hình sự là một trong những nội dung hợp thành
quan trọng của luật hình sự. Để hiểu được các nguyên tắc của luật hình sự,
cần có hiểu biết chung về nguyên tắc của pháp luật. Nguyên tắc theo cách
hiểu của triết học, đó là "những tư tưởng xuất phát điểm, có tính chủ đạo, định
hướng, là quy tắc cơ bản của hành động".
Pháp luật hình sự quy định những phạm vi chung đối với những người
không giống nhau trong thực tế, vì vậy trong những phạm vi chung đó làm thế
nào để đưa ra được một quyết định công bằng, hợp lý là nhiệm vụ rất quan
trọng và đầy trách nhiệm của những cơ quan và những người áp dụng pháp
luật.
Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong
những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Giai đoạn này chiếm
một vị trí đặc biệt trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Điều đó thể hiện
trước hết ở chỗ chỉ Toà án mới có quyền quyết định hình phạt, như phân tích
ở trên (Điều 127 Hiến pháp, Điều 1 Luật tổ chức Toà án nhân dân, Điều 26
BLHS). Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước được Nhà nước giao cho
Toà án, nhân danh Nhà nước quyết định áp dụng với người phạm tội. Toà án


21
tuyên bố áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, thể hiện sự lên án của nhà
nước đối với họ về việc thực hiện tội phạm là sự trừng trị người phạm tội.
Quyết định hình phạt còn là một hoạt động pháp lý tố tụng hình sự,
hay nói cách khác là một dạng hoạt động của việc áp dụng pháp luật hình sự
do Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân tiến hành đối với người thực hiện tội
phạm theo một trật tự pháp lý nhất định.

Các nguyên tắc quyết định hình phạt là một trong những vấn đề quan
trọng của chế định quyết định hình phạt, bởi vì việc quyết định hình phạt
đúng pháp luật, công bằng và hợp lý hay không tuỳ thuộc rất nhiều vào việc
nhận thức và áp dụng các nguyên tắc đó trong thực tiễn xét xử. Đây là vấn đề
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn. Ý nghĩa lý luận của chúng thể hiện ở
chỗ: việc làm sáng tỏ các nguyên tắc đó góp phần vào việc nhận thức được
bản chất, nội dung, nguồn gốc, ý nghĩa của chế định quyết định hình phạt,
phân biệt chúng với các căn cứ quyết định hình phạt, đưa ra những phương án
tối ưu của việc thể hiện chúng trong các quy phạm của luật hình sự. Còn về
mặt thực tiễn, các nguyên tắc đó là những tư tưởng chỉ đạo, là kim chỉ nam
cho hoạt động của Toà án khi chọn và quyết định loại và mức hình phạt đối
với từng bị cáo trong từng vụ án cụ thể.
Các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tư tưởng xuất phát, tư
tưởng chỉ đạo được quy định trong pháp luật hình sự và do giải thích mà có,
xác định và định hướng hoạt động của Toà án khi áp dụng các chế tài luật
hình sự đối với người phạm tội.

Quyết định hình phạt cần dựa vào những nguyên tắc sau đây:
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa;
- Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa;
- Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt;
- Nguyên tắc công bằng (công minh).


22

Quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định cần tuân thủ những nguyên
tắc cụ thể nêu trên, cụ thể như sau:

* Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa:

Trong các nhà nước bóc lột, pháp luật nói chung và nhất là pháp luật
hình sự luôn luôn là công cụ để đàn áp giai cấp. Vì vậy, nói đến luật hình sự
lúc đó là nói đến những hình phạt nặng nề, hà khắc. Pháp luật không chỉ trừng
trị hành vi mà còn trừng trị cả quan điểm, cả suy nghĩ, "những ý nghĩ tội lỗi".
Hình phạt không chỉ áp dụng đối với người có hành vi mà cả đối với gia đình
họ, thân tộc của họ (tru di tam tộc). Một hành vi phạm tội có thể bị xử nhiều
lần và chịu nhiều hình phạt khác nhau. Sự man rợ đó được thực hiện bằng sự
hợp thức hoá trong luật và cả ngoài luật.
Nguyên tắc pháp chế có những nội dung sau:
Thứ nhất: những gì có thể là cơ sở của trách nhiệm hình sự, của việc
áp dụng hình phạt hoặc miễn hình phạt cũng như của việc áp dụng các hình
thức trách nhiệm hình sự với tính cách là hậu quả pháp lý của hành vi phạm
tội đều phải do pháp luật hình sự quy định.
Điều 2 Bộ luật hình sự quy định: "Chỉ người nào phạm một tội đã
được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự". Điều 8
quy định: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật hình sự ". Nguyên tắc này đã được đề xướng trong các học thuyết pháp
lý cổ điển trước đây với những nội dung rất rõ ràng "Không có tội phạm nếu
luật không quy định". Luật được coi là nguồn duy nhất quy định tội phạm.
Chỉ có luật mới có thể quy định tội phạm và hình phạt - nội dung này còn có
thể được hiểu là sự đòi hỏi phải điều chỉnh tối đa và đầy đủ trong luật hình
sự. Thứ hai: nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự đòi hỏi ranh giới giữa tội


23
phạm và không phải là tội phạm trong những hành vi mà điều luật mô tả cần
phải được làm rõ.
Thứ ba: nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự là việc từ bỏ áp dụng
pháp luật tương tự. Chỉ có luật mới có thể quy định tội phạm và hình phạt -
điều đó có nghĩa là không thể áp dụng tương tự về tội phạm và tương tự về

hình phạt như trước năm 1985 khi chưa có Bộ luật hình sự. Nhưng trong luật
hình sự Việt Nam chúng ta có thể thấy một điểm nổi bật đáng chú ý, đó là: chỉ
có Bộ luật hình sự mới quy định tội phạm và hình phạt. Điều 8 Bộ luật hình
sự Việt Nam quy định: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong Bộ luật hình sự "

* Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa:
Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được sửa đổi, bổ sung ngày 25 tháng 12 năm 2001, tại Điều 2 khẳng định:
"Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". "Nhà nước bảo đảm
và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân
dân" - Điều 3.
Nội dung chính của nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự là:
- Một là, đối với người phạm tội, việc áp dụng hình phạt, chỉ cần thiết
đến mức cần và đủ cho việc đạt được mục đích cải tạo, giáo dục, phòng ngừa.
- Hai là, hình phạt và các biện pháp khác của trách nhiệm hình sự
không nhằm mục đích gây đau đớn về thể xác và hạ thấp phẩm giá con người.


24
Để thực hiện nguyên tắc nhân đạo, Bộ luật hình sự Việt Nam quy định
một loạt các chế định làm cơ sở pháp lý cho sự vận dụng của các cơ quan truy
tố và xét xử. Có thể liệt kê một số quy định và chế định như sau:
- Quy định áp dụng hiệu lực trở về trước đối với những điều luật quy
định xoá bỏ một tội phạm ; không áp dụng hiệu lực trở về trước đối với
những điều luật quy định một tội phạm mới

- Quy định một loạt các hình phạt nhẹ bên cạnh các hình phạt như tù
có thời hạn, tù chung thân, tử hình.
- Quy định các tình tiết giảm nhẹ và khả năng bổ sung của Toà án
cũng như khả năng xử phạt dưới mức thấp nhất của chế tài của Điều luật và
khả năng chuyển sang một loại hình phạt khác nhẹ hơn.
- Các chế định án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt

* Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt:
Tại Điều 1 BLHS năm 1999 quy định: " Bộ luật quy định tội phạm
và hình phạt đối với người phạm tội". Điều 2 khẳng định: "Chỉ người nào
phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm
hình sự". Điều 6 khi quy định hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những
hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đều xác định rõ các quy định đó áp dụng đối với công dân Việt Nam hoặc
người nước ngoài. Điều 8 quy định: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện ".
Như vậy, theo luật hình sự Việt Nam tội phạm chỉ có thể là hành vi
của cá nhân mà không thể của tập thể. Nguyên tắc đó có thể diễn đạt như sau:
"Người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự bởi những gì do tự người đó
gây ra". Nội dung của nguyên tắc này có ba yếu tố cơ bản là:

×