Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Tài liệu Mở rộng lãnh thổ về phương Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.88 KB, 7 trang )

Mở rộng lãnh thổ về phương Nam( Nam tiến )
Nam tiến (chữ Hán: 南南) chỉ sự phát triển lãnh thổ của người Việt về
phương nam trong lịch sử Việt Nam.
Lãnh thổ Việt Nam đã được mở rộng từ Bắc vào Nam qua từng thời kỳ
trong lịch sử. Thời kỳ đầu, lãnh thổ Việt Nam bao gồm khu vực châu thổ
sông Hồng (Đồng bằng Bắc bộ hiện nay). Do đặc điểm địa-chiến lược,
trong tiến trình lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam mở rộng lãnh
thổ sang phía Đông thì gặp biển, phía Tây thì bị các dãy núi hiểm trở của
dãy Trường Sơn ngăn cản, phía Bắc là lãnh thổ của người khổng lồ Hán,
nên chỉ có thể lần lượt chinh phục và khai phá về phương Nam. Hành
trình Nam tiến kéo dài gần 700 năm, nâng diện tích lãnh thổ từ ban đầu
độc lập đến khi hoàn thành lên 3 lần, từ thế kỷ 11 đến giữa thế kỷ 18 lãnh
thổ Việt Nam về cơ bản được hình thành và tồn tại như hiện nay.
Sát nhập Chiêm Thành
Nhà Lý-Trần-Hồ
Đây là thời kỳ thường xuyên có các cuộc giao tranh giữa Đại Việt với
Chiêm Thành ở phía nam. Phần thắng thường thuộc về Đại Việt, vốn là
nước mạnh hơn.
Năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân chinh mang 10 vạn quân vào đánh
Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm Thành bấy giờ là Chế Củ (Jaya
Rudravarman). Chế Củ buộc phải dâng đất của ba châu Bố Chính, Địa Lý
và Ma Linh cầu hòa. Vua Lý Thánh Tông đặt tên cho vùng đất mới này là
trại Tân Bình, lãnh thổ Đại Việt thêm vùng đất này, nay là Quảng Bình và
bắc Quảng Trị.
Năm 1306, thuộc vào một giai đoạn Chiêm Thành và Đại Việt có mối
giao hảo tốt đẹp, nhà Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm
Thành bấy giờ là Chế Mân (Jaya Simhavarman) . Đổi lại Chế Mân dâng
đất cho Đại Việt gồm Châu Ô và Châu Rí. Các vùng đất này được vua
Trần Anh Tông đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu, nay thuộc vùng nam
Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế, lãnh thổ Đại Việt phía nam tới đèo Hải
Vân


Những năm đầu thời kỳ nhà Hồ, từ 1400 đến 1403, nhà Hồ liên tục đem
quân tấn công Chiêm Thành và đã mở mang được lãnh thổ từ Đà Nẵng
tới Quảng Ngãi ngày nay. Tuy nhiên phần lãnh thổ này bị Chiêm Thành
lấy lại sau khi nhà Hồ sụp đổ (1407)
Nhà Hậu Lê
Trong thời kỳ đầu nhà Hậu Lê, Chiêm Thành và Đại Việt quan hệ tương
đối giao hảo.
Đến năm 1470 quan hệ giữa Đại Việt và Chiêm Thành căng thẳng, vua Lê
Thánh Tông thân chinh cầm 20 vạn quân đánh Chiêm Thành. Năm 1471,
quân Đại Việt phá tan kinh đô Vijaya (thuộc Bình Định ngày nay), vua
Trà Toàn (Pau Kubah) bị bắt và chết trên đường về Thăng Long. Lê
Thánh Tông đã sát nhập miền bắc Chiêm Thành, từ đèo Hải Vân đến đèo
Cù Mông vào Đại Việt, đặt tên vùng đất mới là thừa tuyên Quảng Nam.
Quân đội nhà Lê còn tiến tới phía nam vùng đất Phú Yên ngày nay, Lê
Thánh Tông đã cho khắc chữ vào vách đá trên đỉnh núi Thạch Bi, ghi
công mở đất và phân định ranh giới. Chữ ấy nay vẫn còn, nhưng nét chữ
lờ mờ sứt mẻ, không thể trông rõ được.
Chúa Nguyễn (Đàng Trong)
Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, do áp lực từ các cuộc tấn công của chúa
Trịnh từ phương bắc và nhu cầu mở rộng đất đai về phương nam, các
chúa Nguyễn đã bắt đầu một công cuộc mở mang bờ cõi Việt Nam về
phía nam chưa từng thấy trong lịch sử.
Năm 1611, vua Po Nit tiến đánh Quảng Nam, trước hành động này chúa
Nguyễn Hoàng cử Lương Văn Chánh đem quân vào đánh nước Chiêm
Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và
Tuy Hòa, nay thuộc Phú Yên.
Năm 1653 vua nước Chiêm Thành là Bà Tấm (Po Nraop) nhằm đòi lại
đất Phú Yên đã đưa quân sang đánh chiếm. Chúa Nguyễn Phúc Tần sai
quan cai cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà Tấm xin hàng, chúa Nguyễn để từ
sông Phan Lang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan Lang trở ra lấy

làm phủ Thái Ninh, sau đổi làm phủ Diên Khánh, nay thuộc Khánh Hòa.
Tại đây đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm thái thú.
Năm 1693 với lý do vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh (Po Saot) bỏ
không tiến cống, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là
Nguyễn Hữu Cảnh đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh cùng thân thuộc
về Phú Xuân (Huế). Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm Thành làm Thuận Phủ,
nay thuộc Bình Thuận. Đất này cho con cháu của Bà Tranh làm đề đốc
trấn giữ, bắt đổi y phục như người Việt Nam để phủ dụ dân Chiêm
Thành.
Tuy nhiên, do sự kháng cự của người Champa và cũng cần tập trung cho
việc khai phá đất Nam bộ của Chân Lạp nên qua năm 1697, chúa Nguyễn
đổi Thuận Phủ ra làm Thuận Thành Trấn, dành cho người Chăm cơ chế tự
trị nhưng vẫn thuộc sự bảo hộ của chúa Nguyễn. Đến năm 1832, vua
Minh Mạng xóa bỏ cơ chế tự trị trên và lập thành tỉnh Bình Thuận.
Xâm chiếm Chân Lạp
Chúa Nguyễn
Việt Nam thời Trịnh - Nguyễn phân tranh năm 1650
Trong thời kỳ này, nhiều dân Việt ở Đàng Trong bỏ dải đất miền Trung
khắc nghiệt, vào khai khẩn đất làm ruộng ở Bà Rịa, Đồng Nai, Sài Gòn
vốn là đất của Chân Lạp, nhưng không gặp phản kháng gì đặc biệt.
Năm 1623 chúa Nguyễn Phúc Nguyên nhân quan hệ hữu hảo với vua
Chân Lạp Chey Chetta II (cha vợ - con rể), đã mượn vùng đất Prey Nokor
(Sài Gòn ngày nay) của Chân Lạp đặt trạm và quan chức thu thuế lưu dân
Việt đang sinh sống xung quanh ở Sài Gòn, Đồng Nai, Bà Rịa
Năm 1658, vua nước Chân Lạp mất, nội bộ nước Chân Lạp lục đục vì
tranh giành ngôi. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã giúp một hoàng thân Chân
Lạp là Batom Reachea lên ngôi, đáp lại vị vua mới của Chân Lạp đã ký
hiệp ước triều cống chúa Nguyễn hàng năm và cho phép người Việt được
làm chủ vùng đất đã khai hoang ở Sài Gòn, Đồng Nai, Bà Rịa. Tại khu
vực này lưu dân Việt sinh sống ngày càng đông đúc, chúa Nguyễn đã phải

cử một đội quân mạnh để giữ gìn an ninh cũng như đặt các quan cai trị và
thu thuế.
Năm 1679 có quan nhà Minh gồm Dương Ngạn Địch và phó tướng
Hoàng Tiến là Tổng binh Trấn thủ đất Long môn (Quảng Tây - Trung
Quốc), Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình là tổng binh châu
Cao, Lôi, Liêm (Quảng Đông - Trung Quốc) không chịu làm tôi nhà
Thanh, đem 3000 người cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Đại
Việt. Chúa Nguyễn Phúc Tần nhân muốn khai khẩn đất Chân Lạp, bèn
cho vào ở đất Đông Phố (Gia Định). Những người này cùng với những
lưu dân người Việt định cư trước đó đã chia nhau ở đất Đồng Nai, Biên
Hòa, Mỹ Tho (Tiền Giang), cày ruộng, làm nhà, lập ra phường phố, có
người phương Tây, Nhật Bản, Chà Và đến buôn bán khá đông.
Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh làm kinh lược
đất Chân Lạp. Ông chia đất Đông Phố ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng
Nai làm huyện Phúc Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Ông đặt Trấn
Biên dinh (Biên Hòa), đất Trấn Biên thì lập làm xã Thanh Hà, và Phiên
Trấn dinh (Gia Định), đất Phan Trấn thì lập làm xã Minh Hương, rồi sai
quan vào cai trị. Chúa Nguyễn lại chiêu mộ thêm những người lưu dân từ
Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất, những
người Việt và Tàu ở đây đều thuộc về sổ bộ nước Việt của chúa Nguyễn.
Năm 1699 vua Ang Em của Chân Lạp tổ chức một cuộc phản công nhằm
dành lại nhưng bị thất bại.
Mạc Cửu, một người gốc Quảng Đông, khi nhà Thanh cướp ngôi nhà
Minh đã cùng gia quyến bỏ sang Chân Lạp năm 1680 khai khẩn và cai
quản 7 xã gồm toàn lưu dân, gọi là Hà Tiên, Mạc Cửu mở rộng đất đai
của mình gồm vùng đất Hà Tiên, Rạch Giá, Phú Quốc khi đó đang thuộc
Chân Lạp nhưng Chân Lạp không kiểm soát được.
Năm 1708 để tránh áp lực thường xuyên của Xiêm La sang cướp phá,
Mạc Cửu đã dâng đất khai phá xin nội thuộc về chúa Nguyễn Phúc Chú,
chúa Nguyễn đổi tên thành Trấn Hà Tiên, phong cho Mạc Cửu làm chức

Tổng binh, cai quản đất Hà Tiên. Khi Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ
lại được làm chức đô đốc, tiếp tục cai quản Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đắp
thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và đưa người về dạy Nho học để khai
hóa đất Hà Tiên.

×