Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Ly thuyet PP ban tay nan bot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.22 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TRIỂN KHAI PP BÀN TAY NẶN BỘT</b>
<b>PHẦN LÝ THUYẾT</b>


<b>A. Giới thiệu mục tiêu của phần lý thuyết: Hiểu biết cơ bản về PPBTNB; Mục</b>
tiêu của đề án; Khái niệm về PPBTNB, mục tiêu, ý nghĩa của PP; Tiến trình của
PPBTNB; VD minh hoạ....


<b>B. Nội dung cụ thể: </b>


“Bàn tay nặn bột” - một trong những phương pháp dạy học mới đang được áp
dụng rộng rãi ở Pháp và nhiều nước trên thế giới, là nhân tố quan trọng của việc
cải tiến dạy học về kiến thức khoa học tự nhiên (KHTN) ở các bậc tiểu học, THCS.
Nhận thức được hiệu quả của PP BTNB trong dạy học ở các trường phổ
thông, kể từ năm học 2011- 2012, BGD&ĐT đã có chủ trương triển khai thí điểm
PPBTNB trong dạy học các môn khoa học ở trường phổ thông. Để việc triển khai
PPBTNB trong dạy học ở các trường phổ thông được thuận lợi và đạt hiệu quả,
BGD&ĐT xây dựng đề án: Triển khai PP " BTNB" vào dạy học ở trường phổ
thông.


<b>I. Mục tiêu đề án triển khai Bàn tay nặn bột</b>
<b>1. Mục tiêu tổng quát:</b>


Đề án triển khai PP" BTNB" vào dạy học ở trường phổ thông giai đoạn
2011- 2015 nhằm:


- Nghiên cứu và triển khai vận dụng PP" BTNB" vào dạy học các môn khoa học,
công nghệ phù hợp với thực tiến các trường phổ thơng của Việt Nam.


- Góp phần đổi mới PPDH và nâng cao chất lượng dạy học các môn khoa học,
cơng nghệ.



- Góp phần chuẩn bị cơ sở lý luận và thực tiễn về PPDH cho việc đổi mới chương
trình và SGK sau năm 2015.


<b>2. Mục tiêu cụ thể của đề án:</b>


2.1: Vận dụng PP" BTNB" vào dạy học ở trường phổ thông, với cấp tiểu học: Tự
nhiên và XH, khoa học; với cấp THCS: Vật lý, hoá học, sinh học.


2.2. Biên soạn tài liệu về PP " BTNB", tài liệu tập huấn, tài liệu giáo viên hướng
dẫn GV vận dụng PP BTNB vào dạy các môn học ở TH và THCS.


2.3. Tổ chức thử nghiệm, rút kinh nghiệm, tổng kết các lý luận về dạy học theo PP
BTNB để có thể triển khai rộng hơn, góp phần về mặt cơ sở thực tiến trong việc
đổi mới CT và SGK sau năm 2015.


2.4. Triển khai PPBTNB trong hoạt động đào tạo GV của các trường, khoa sư
phạm.


2.5. Phối hợp với Hội Gặp gỡ Việt Nam tổ chức hội thảo quốc tế để trao đổi, chia
sẻ kinh nghiệm để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm vềPPBTNB


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Phương pháp này chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho HS thơng qua
nghiên cứu để chính các em tự trả lời câu hỏi cho các vấn đề được đặt ra trong
cuộc sống bằng việc tiến hành thí nghiệm, quan sát nghiên cứu thí nghiệm hay điều
tra. Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, “Bàn tay nặn bột” ln coi
HS là trung tâm của q trình nhận thức. Chính các em là người tìm ra câu trả lời
và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên.


II. Phương pháp Bàn tay năn bột là gì?



<i><b>1. Khái niệm: Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là cách thức giáo viên tổ chức</b></i>
<i><b>cho học sinh tự nghiên cứu để tìm ra cách lý giải thuyết phục cho những kiến</b></i>
<i><b>thức trong chương trình học thơng qua việc đề xuất, thảo luận và thực hiện các</b></i>
<i><b>phương án thí nghiệm </b></i>


<i>Minh hoạ cho khái niệm: Để làm ra cái bánh theo một khuôn mẫu, người ta</i>
phải tự tay pha chế, tự tay nặn bột. Nhưng với học sinh trong phương pháp “Bàn
tay nặn bột”, để làm ra được "cái bánh" thì ngoài việc tự tay nặn bột, các em phải
biết thiết kế nó theo ý nghĩ sáng tạo của mình. Nghĩa là giáo viên cho học sinh các
nguyên vật liệu cần thiết như các dụng cụ thí nghiệm, các đồ dùng dạy học, học
sinh tiến hành phán đoán, vạch kế hoạch và tiến hành thí nghiệm để tìm kiếm tri
thức, chân lý khoa học.


Như vậy, phương pháp “Bàn tay nặn bột” đề cao vai trị chủ thể tích cực,
độc lập, sáng tạo của học sinh, hình thành cho các em phương pháp học tập đúng
đắn. Phương pháp này đặt học sinh vào vị trí của một nhà khoa học, các em có thể
tự mình tìm tịi, khám phá ra kiến thức thông qua việc độc lập tiến hành các thí
nghiệm khoa học, trao đổi, thảo luận trong các nhóm dưới sự giúp đỡ, hướng dẫn
của giáo viên. Học sinh học tập nhờ hành động, cuốn hút mình trong hành động,
học tập tiến bộ dần bằng cách tự nêu những thắc mắc, nghi vấn, hỏi đáp với bạn,
trình bày quan điểm của mình, đối lập với các quan điểm của người khác, tranh
luận, tạo ra môi trường học tập tích cực.


Khi nói về việc dạy học, ngạn ngữ Pháp có câu : “Dạy học khơng phải như
kiểu rót nước cho dầy cái cốc mà phải biết thổi bùng ngọn lửa học tập ở học sinh”.
Vai trò của giáo viên khi dạy học theo phương pháp này cũng vậy, giáo viên không
phải là người trực tiếp truyền thụ kiến thức cho học sinh dưới dạng thuyết trình,
giảng giải mà phải biết kích thích, tạo hứng thú, giúp các em xây dựng kiến thức
bằng cách hành động bên cạnh họ (hành động đối với mỗi cá nhân học sinh, mỗi
nhóm và cả lớp).



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

bước đầu giáo viên chấp nhận ngôn ngữ của học sinh nếu như chỉ gần đúng để khỏi
làm hạn chế ý tưởng của họ, song cần hướng cho các em biết sử dụng ngơn từ
chính xác. Giúp các em loại bỏ những hướng đi nằm ngồi nội dung bài học và có
thể chỉ ra hoặc thông tin thêm cho học sinh nếu thấy cần thiết.


Giáo viên là người trung gian giữa “thế giới” khoa học (các kiến thức và
thực hành) và học sinh, là người đàm với học sinh những thay đổi nhận thức liên
quan với những câu hỏi được xử lý, với các thiết bị thực nghiệm thích đáng, với
các mơ hình giải thích hợp lý, … Mặt khác cũng phải đón trước những khó khăn,
những lệch lạc mà học sinh có thể mắc phải để chủ động điều chỉnh trong hướng đi
của mình và đồng thời giải quyết được những mâu thuẫn, xung đột trong nhận thức
của họ.


Trong quá trình dạy học, giáo viên luôn tỏ thái độ cởi mở, gần gũi, tôn trọng
những hiểu biết cũng như những năng lực khác của học sinh, cho dù những hiểu
biết đó là sai. Biết động viên, khích lệ và làm phong phú các vấn đề để các em thắc
mắc, tranh luận làm cho ngày càng tự tin, mạnh dạn hơn trong hoạt động khám phá
tìm kiếm tri thức của mình.


Như vậy, qua phân tích trên, vai trị của giáo viên được đề cao. Giáo viên ở
đây khơng chỉ là người có vốn tri thức khoa học mà cịn có khả năng tổ chức, điều
khiển và tinh tế trong nghệ thuật sư phạm để cho hoạt động nhận thức của học sinh
diễn ra một cách tích cực, nhẹ nhàng nhưng hiệu quả.


Trong phương pháp “Bàn tay nặn bột”, học sinh hoàn toàn được chủ động
trong học tập. Họ tự nghiên cứu, hoạt động theo cách thức tranh luận và trao đổi
với nhau. Các em xây dựng các bài thực hành với tư cách là chủ thể của những
hoạt động khoa học đó. Giáo viên cho các em quan sát một sự vật hay hiện tượng
của thế giới thực tại, gần gũi với chúng, từ đó hình thành những nghi vấn, tìm tịi,


suy nghĩ và tìm ra hướng giải quyết thuyết phục để trả lời cho những nghi vấn của
mình. Trong quá trình hoạt động, học sinh trao đổi, lập luận, chia sẻ những ý tưởng
của mình, làm cho họ hiểu lẫn nhau, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người
khác. Đồng thời biết cách bảo vệ ý kiến của mình.


<i>Tóm lại : Phương pháp “Bàn tay nặn bột” chính là học trị tự phát hiện ra</i>
kiến thức bằng những hành động, những việc làm của chính mình. Giáo viên là
người tổ chức, lãnh đạo, là người đi bên cạnh học sinh.


<b>2. Mục tiêu, ý nghĩa của PP BTNB</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

- Dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” nhằm tạo nên tính tò
mò, ham muốn khám phá, say mê khoa học của học sinh.


- Giúp học sinh rèn luyện kỹ năng diễn đạt thơng qua ngơn ngữ nói,
làm việc nhóm, trao đổi và khả năng viết cho học sinh.


- "Bàn tay nặn bột" đặt học sinh làm trung tâm của quá trình nhận
thức, các em tự tìm câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc
sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay
điều tra...


<b>III. Tiến trình Bàn tay nặn bột</b>


<i><b>Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề: </b></i>


Thực chất đây là bước kích thích tính tị mị, thích tìm tịi, nghiên cứu của học sinh.
Vì vậy, tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với học sinh, câu
hỏi nêu vấn đề phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối khơng sử dụng câu hỏi đóng (trả lời
có hoặc khơng). Tình huống xuất phát nhằm lồng ghép câu hỏi vấn đề. Có những


trường hợp khơng nhất thiết phải có tình huống xuất phát mới đề xuất câu hỏi nêu
vấn đề (tuỳ vào từng kiến thức và từng trường hợp cụ thể).


<i><b> Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của HS</b></i>


Bộc lộ quan niệm ban đầu là bước quan trọng, đặc trưng của phương pháp dạy
học BTNB. Bước này khuyến khích học sinh trình bày quan niệm ban đầu, ý kiến
ban đầu của mình về sự vật, hiện tượng trước khi được tìm hiểu về bản chất sự vật,
hiện tượng. Đây là những quan niệm được hình thành trong vốn sống của học sinh,
là các ý tưởng giải thích sự vật, hiện tượng theo suy nghĩ của học sinh. Khi yêu
cầu học sinh trình bày biểu tượng ban đầu, giáo viên có thể u cầu nhiều hình
thức biểu hiện của học sinh, có thể là bằng lời nói (thơng qua phátt biểu cá nhân),
bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ.


Đối với học sinh chúng ta thường mỗi lần phát biểu rất ngại nói vỡ sợ sai và
sợ bị chê cười. Do đó giáo viên cần khuyến khích học sinh trình bày ý kiến của
mình, biết lắng nghe và tôn trọng những quan niệm sai hoặc chưa thực sự chính
xác của học sinh khi trình bày biểu tượng ban đầu.


Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm.
- Đề xuất câu hỏi:


Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của học sinh, GV giúp
học sinh đề xuất các câu hỏi từ những khác biệt đó. Chú ý xoáy sâu vào những sự
khác biệt liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học


Ở bước này GV cần léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp
để giúp học sinh so sánh, từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi liên quan đến nội dung
bài học.



<i>- Đề xuất thí nghiệm nghiên cứu:</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tịi – nghiên cứu.


Từ các phương án thí nghiệm tìm tịi – nghiên cứu mà HS nêu ra , GV khéo léo
nhận xét và lựa chọn thí nghiệm để học sinh tiến hành. Ưu tiên thực hiện thí
nghiệm trực tiếp trên vật thật. Một số trường hợp khơng thể tiến hành thí nghiệm
trên vật thật có thể làm mơ hình, hoặc cho học sinh quan sát tranh vẽ. Đối với
phương pháp quan sát, GV cho học sinh quan sát vật thật trước, sau đó mới cho
học sinh quan sát tranh vẽ khoa học hay mô hình để phóng to những đặc điểm
khơng thể quan sát rõ trên vật thật.


<i><b> Bước 5: Kết luận kiến thức.</b></i>


Sau khi thực hiện thí nghiệm tìm tịi – nghiên cứu , các câu trả lời dần dần được
giải quyết, kiến thức được hình thành tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa
chuẩn xác một cách khoa học. GV có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để
học sinh ghi và vở coi như là kiến thức bài học. Trước khi kết luận chung, GV nên
yêu cầu một vài ý kiến của học sinh cho kết luận sau khi thực hiện thí nghiệm (rút
ra kiến thức bài học). GV khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng cách cho học sinh
nhìn lại, đối chiếu lại với các ý kiến ban đầu (biểu tượng ban đầu) trước khi học
kiến thức. Như vậy những quan niệm ban đầu sai lệch, sau qua trình nghiên cứu –
tìm tịi, chính học sinh tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà khơng phải do GV
nhận xét một cách áp đặt. Chính học sinh tự phát hiện những sai lệch trong nhận
thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những thay đổi này sẽ giúp học
sinh ghi nhớ lâu hơn, khắc sâu kiến thức.


* Kết hợp phân tích lần lượt 5 bước của PPBTNB qua một hoạt động trong bài:
Nước có những tính chất gì? ( Khoa học lớp 4); Bài Lá Cây- THXH lớp 3



<b>( Giáo án có sẵn )</b>


<b>IV. Một số chú ý khi sử dụng PP BTNB ( Sau khi chia sẻ giờ dạy).</b>
1. Dạy học phải tự nhiên như quá trình tìm ra chân lý.


2. Với PPBTNB, kể cả HS đọc sách trước; học thêm trước hoặc biết trước KT thì
chưa chắc HS hiểu tường tận và đề xuất thí nghiệm CM cho phát biểu đúng. HS sẽ
lúng túng khi hỏi lại: Vì sao em biết điều đó? Làm thế nào để em có thể chứng
minh kết luận của em đúng? Nếu dạy trước thì tiết học khơng hấp dẫn.


3. PPBTNB chú trọng đến quan niệm ban đầu của HS về kiến thức mới sẽ học.
4. Sử dụng vở thí nghiệm ( vở nghiên cứu ) như là một phương tiện rèn ngôn ngữ,
tập ghi chép nghiên cứu khoa học.


5. Sử dụng PPBTNB không được nhận xét quan điểm của ai đúng, sai. Thơng qua
thí nghiệm, chính HS sẽ tự đánh giá đúng hay sai.


6. PPBTNB áp dụng chủ yếu cho dạy khoa học tự nhiên, công nghệ, khoa học tự
nhiên, các chủ đề gắn với đời sống thực tế của HS.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×