Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

LÝ LUẬN CHUNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁCLÊ NIN VỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.52 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN CHUNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN
VỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Giáo viên hướng dẫn: Bùi Xuân Dũng
Sinh viên thực hiện: (Nhóm 3)
1. Nguyễn Thị Khánh Nhi 20124297
2. Nguyễn Nghị Nhân 20124293
3. Nguyễn Phước Hiếu 20124251
4. Huỳnh Thị Như Quỳnh 20124018
Mã lớp học: 88CLC
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 05 năm 2021.
1


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….


…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….

Điểm: …………………………
KÝ TÊN

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chúng ta biết rằng Hồ Chí Minh rất đề cao vai trị nhân dân, giác ngộ và dựa vào dân, tin dân,
trọng dân, đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh vĩ đại của nhân dân, hiểu dân, phục vụ nhân
dân, quan tâm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tư tưởng nhân dân này cũng
là tư tưởng dân chủ. Bao nhiêu lực lượng, bao nhiêu lợi ích đều ở nơi dân, khó bao nhiêu lần dân
liệu cũng xong. Kháng chiến và kiến quốc đều nhờ nhân dân: dân lực, dân tâm, dân khí, dân trí,
dân quyền, dân sinh. Trong hoạt động thực tiễn hay trong tư tưởng lý luận, trong quan điểm
đường lối, trong chính sách phát triển, Hồ Chí Minh ln ln có ý thức sử dụng phạm trù DÂN
CHỦ gắn liền với các nhiệm vụ và mô hình, thể chế phát triển, thể hiện tinh thần dân chủ pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, trong những giai đoạn và hình thức phù hợp . Tư tưởng đó thể hiện ở
chỗ: cách mang dân chủ nhân dân, chế độ dân chủ nhân dân, nhà nước ta là một nhà nước dân
chủ, nhà nước dân chủ của dân, do dân và vì dân, Dân chủ là mục tiêu và động lực cũng như bản
chất của chế độ mới xã hội chủ nghĩa. Vấn đề dân chủ cũng nhạy cảm, hệ trọng như vấn đề đoàn
kết dân tộc, đoàn kết trong đảng. Chính vì vậy, trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã rất quan tâm phải
thực hành dân chủ rộng rãi, trước hết trong Đảng. Người có nói rằng phải thật thà đồn kết thì
cũng có thể nói phải thật thà dân chủ, dân chủ thật sự. Người nhắc nhở, căn dặn, “Trong đảng
thực hành dân chủ rộng rãi”. Đó là vấn đề gắn liền với chỉnh đốn đảng. Nhưng điều đó có nghĩa

là gì, có phải cần đổi mới hay cải cách về mặt đảng hay khơng, và bằng hình thức nào, quy trình
nào, điều kiện cần và đủ nào để có dân chủ rộng rãi, hiện nay thật sự rộng rãi chưa, mở rộng và
thực chất chưa? Đã bao giờ chúng ta thực sự thảo luận, nghiên cứu, tìm kiếm thật sự hệ thống và
nghiêm túc, khoa học về điều này này chưa? Chúng ta cùng nhau đi sâu vào tìm hiểu chủ đề: “
Lý luận chung của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa ” để cùng nhau hiểu
thêm về vấn đề này.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Triết học Mác-Lênin có vai trị đặc biệt quan trọng. Trong điều kiện hiện nay, triết học MácLênin vẫn giữ được tính khoa học đúng đắn, vẫn giữ nguyên giá trị định hướng. Lập trường thế
giới quan và phương pháp luận Mác-Lênin đã góp phần quan trọng để cho Đảng Cộng Sản Việt
Nam, dân tộc Việt Nam nhận thức đúng đắn về các vấn đề thời đại và quan hệ chặt chẽ đến đổi
mới tư duy lý luận. Vì những vấn đề ở trên, nhóm em đã chọn đề tài làm tiểu luận là: “Lý luận
chung của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Nhằm mục đích có để tìm
hiểu thêm về vai trị và ảnh hưởng của triết học đến thực tiễn và gần nhất là trong sự nghiệp phát
triển và đổi mới ở Việt Nam hiện nay.Vận dụng, nắm vững triết học Mác-Lênin giúp chúng ta
trau dồi các quan điểm, các phẩm chất chính trị, đạo đức, tư duy sáng tạo của mình và phải biết
nhận thức né tránh những sai lầm của chủ nghĩa duy tân và phương pháp tư duy siêu hình.Và
phải biết trau dồi tri thức để giải quyết những vấn đề thực tiễn.
3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA
1.1.Dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Dân chủ và sự ra đời, phát triển của dân chủ
1.1.1.1. Quan điểm về dân chủ
Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng TK VII – VI TCN, các nhà tưởng Hy Lạp cổ đại đã sử
dụng cụm từ “demokratos” để nói đến dân chủ, trong đó Demos: nhân dân (danh từ) và Kratos:
cai trị (động từ). Theo đó, dân chủ được hiểu là nhân dân cai trị và sau này được các nhà chính
trị gọi giản lược là quyền lực của nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân. Nội dung trên của

khái niệm dân chủ về cơ bản vẫn giữ nguyên cho đến ngày nay. Điểm khác biệt cơ bản giữa cách
hiểu về dân chủ thời cổ đại và hiện nay là ở tính chất trực tiếp của mối quan hệ sở hữu quyền lực
công cộng và cách hiểu về nội hàm của khái niệm nhân dân.
Từ việc nghiên cứu các chế độ dân chủ trong lịch sử và thực tiễn lãnh đạo cách mạng xã hội
chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác -Lênin cho rằng, dân chủ là sản phẩm và là thành quả
của quá trình đấu tranh giai cấp cho những giá trị tiến bộ của nhân loại, là một hình thức tổ
chức nhà nước của giai cấp cầm quyền, là một trong những nguyên tắc hoạt động của các tổ
chức chính trị-xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin dân chủ có một số nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về phương diện quyền lực, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân
là chủ nhân của nhà nước. Dân chủ là quyền lợi của nhân dân -quyền dân chủ được hiểu theo
nghĩa rộng. Quyền lợi căn bản nhất của nhân dân chính là quyền lực nhà nước thuộc sở hữu của
nhân dân, của xã hội; bộ máy nhà nước phải vì nhân dân, vì xã hội mà phục vụ. Và do vậy,
chỉ khi mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì khi đó, mới có thể đảm bảo về căn bản
việc nhân dân được hưởng quyền làm chủ với tư cách một quyền lợi
Thứ hai, trên phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vực chính trị, dân chủ là một hình thức
hay hình thái nhà nước, là chính thể dân chủ hay chế độ dân chủ.
Thứ ba, trên phương diện tổ chức và quản lý xã hội, dân chủ là một nguyên tắc-nguyên tắc
dân chủ. Nguyên tắc này kết hợp với nguyên tắc tập trung để hình thành nguyên tắc tập trung
dân chủ trong tổ chức và quản lý xã hội
Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác –Lênin và điều kiện cụ thểcủa Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã phát triển dân chủ theo hướng (1) Dân chủ trước hết là một giá trị nhân loại chung. Và,
4


khi coi dân chủlà một giá trị xã hội mang tính tồn nhân loại, Người đã khẳng định: Dân chủ là
dân là chủ và dân làm chủ. Người nói: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân
là chủ”. (2) Khi coi dân chủ là một thể chế chính trị, một chế độ xã hội, Người khẳng định:
“Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đầy tớ trung
thành của nhân dân”. Rằng, “chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do người dân làm

chủ”; và một khi nước ta đã trở thành một nước dân chủ, “chúng ta là dân chủ” thì dân chủ là
“dân làm chủ” và “dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác... làm đầy
tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là quan cách mạng”.
Dân chủ có nghĩa là mọi quyền hạn đều thuộc về nhân dân. Dân phải thực sự là chủ thể của xã
hội và hơn nữa, dân phải được làm chủ một cách toàn diện: Làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội
và làm chủ chính bản thân mình, làm chủ và sở hữu mọi năng lực sáng tạo của mình với
tư cách chủ thể đích thực của xã hội. Mặt khác, dân chủ phải bao quát tất cả các lĩnh vực
của đời sống kinh tế-xã hội, từ dân chủ trong kinh tế, dân chủ trong chính trị đến dân chủ
trong xã hội và dân chủ trong đời sống văn hóa -tinh thần, tư tưởng, trong đó hai lĩnh vực quan
trọng hàng đầu và nổi bật nhất là dân chủ trong kinh tế và dân chủ trong chính trị. Dân chủ trong
hai lĩnh vực này quy định và quyết định dân chủ trong xã hội và dân chủ trong đời sống văn hóa
–tinh thần, tư tưởng. Khơng chỉ thế, dân chủ trong kinh tế và dân chủ trong chính trị cịn thể hiện
trực tiếp quyền con người (nhân quyền) và quyền công dân (dân quyền) của người dân,
khi dân thực sự là chủ thể xã hội và làm chủ xã hội một cách đích thực.Trên cơ sở những quan
niệm dân chủ nêu trên, nhất là tư tưởng vì dân của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam
chủ trương xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khi nhấn mạnh
phát huy dân chủ để tạo ra một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước, Đảng ta đã khẳng
định, “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”,
xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”. Nhất là trong thời kỳ đổi mới,
nhận thức về dân chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam có những bước phát triển mới: “Toàn bộ
tổchức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng
và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua hoạt động của nhà nước do nhân
dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương,
phải được thể chế hóa bằng pháp luật và pháp luật bảo đảm”
Từ những cách tiếp cận trên, dân chủ có thể hiểu Dân chủl à một giá trị xã hội phản ánh
những quyền cơ bản của con người; là một phạm trù chính trị gắn với các hình thức tổ chức nhà
nước của giai cấp cầm quyền; là một phạm trù lịch sử gắn với quá trình ra đời, phát triển của lịch

sử xã hội nhân loại.
1.1.1.2 Sự ra đời, phát triển của dân chủ
Nhu cầu về dân chủ xuất hiện từ rất sớm trong xã hội tự quản của cộng đồng thị tộc, bộ lạc.
Trong chế độ cộng sản nguyên thủy đã xuất hiện hình thức manh nha của dân chủ mà
Ph.Ăngghen gọi là “dân chủ nguyên thủy” hay còn gọi là “dân chủ quân sự”. Đặc trưng cơ bản
của hình thức dân chủ này là nhân dân bầu ra thủ lĩnh quân sự hông qua “Đại hội nhân dân”.
Trong “Đại hội nhân dân”, mọi người đều có quyền phát biểu và tham gia quyết định bằng
cách giơ tay hoặc hoan hơ, ở đó “Đại hội nhân dân” và nhân dân có quyền lực thật sự(nghĩa là có
dân chủ), mặc dù trình độ sản xuất cịn kém phát triển.Khi trình độ của lực lượng sản xuất phát
5


triển dẫn tới sự ra đời của chế độ tư hữu và sau đó là giai cấp đã làm cho hình thức “dân chủ
nguyên thủy” tan rã, nền dân chủ chủ nô ra đời. Nền dân chủ chủ nô được tổ chức thành nhà
nước với đặc trưng là dân tham gia bầu ra Nhà nước.Tuy nhiên, “Dân là ai?”, theo quy định
của giai cấp cầm quyền chỉ gồm giai cấp chủ nô và phần nào thuộc về các công dân tự
do (tăng lữ, thương gia và một số trí thức). Đa sốcịn lại khơng phải là “dân” mà là “nơ lệ”.
Họ không được tham gia vào công việc nhà nước. Như vậy, về thực chất, dân chủ chủ nô cũng
chỉ thực hiện dân chủ cho thiểu số, quyền lực của dân đã bó hẹp nhằm duy trì, bảo vệ, thực
hiện lợi ích của “dân” mà thơi.Cùng với sự tan rã của chế độchiếm hữu nơ lệ, lịch sử xã
hội lồi người bước vào thời kỳ đen tối với sự thống trị của nhà nước chuyên chế phong kiến,
chế độ dân chủ chủ nơ đã bị xóa bỏ và thay vào đó là chế độ độc tài chuyên chế phong kiến. Sự
thống trị của giai cấp trong thời kỳ này được khốc lên chiếc áo thần bí của thế lực siêu
nhiên. Họ xem việc tuân theo ý chí của giai cấp thống trị là bổn phận của mình trước
sức mạnh của đấng tối cao. Do đó, ý thức về dân chủ và đấu tranh để thực hiện quyền làm chủ
của người dân đã khơng có bước tiến đáng kể nào. Cuối thế kỷ XIV -đầu XV, giai cấp tư sản với
những tư tưởng tiến bộ về tự do, công bằng, dân chủ đã mở đường cho sự ra đời của nền dân
chủ tư sản. Chủ nghĩa Mác –Lênin chỉ rõ: Dân chủ tư sản ra đời là một bước tiến lớn của
nhân loại với những giá trị nổi bật về quyền tự do, bình đẳng,dân chủ. Tuy nhiên, do được xây
dựng trên nền tảng kinh tế là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nên trên thực tế, nền dân chủ tư

sản vẫn là nền dân chủ của thiểu số những người nắm giữ tư liệu sản xuất đối với đại đa số nhân
dân lao động. Khi cách mạng xã hội chủnghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi (1917), một thời đại
mới mở ra –thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động
ởnhiều quốc gia giành được quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, thiết lập Nhà nước công –
nông (nhà nước xã hội chủ nghĩa), thiết lập nền dân chủ vô sản (dân chủ xã hội chủ nghĩa) để
thực hiện quyền lực của đại đa số nhân dân. Đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là thực hiện quyền lực của nhân dân -tức là xây dựng nhà nước dân chủ thực sự, dân
làm chủ nhà nước và xã hội, bảo vệ quyền lợi cho đại đa số nhân dân.Như vậy, với tư cách là
một hình thái nhà nước, một chế độ chính trị thì trong lịch sử nhân loại, cho đến nay có ba nền
(chế độ) dân chủ. Nền dân chủ chủnô, gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ; nền dân chủ tư sản, gắn
với chế độ tư bản chủ nghĩa; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, muốn biết một nhà nước dân chủ có thực sự hay khơng phải xem trong nhà nước ấy dân là
ai và bản chất của chế độ xã hội ấy như thế nào?
1.1.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.1.2.1. Qúa trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã có những luận điểm khái quát
về chủ nghĩa xã hội, về dân chủ xã hội chủ nghĩa và tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, động lực của quá trình phát triển xã hội,
của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là dân chủ. Dân chủ phải được mở rộng để phát huy cao
độ tính tích cực, sáng tạo của nhân dân, để nhân dân tham gia vào công việc quản lý nhà nước,
quản lý và phát triển xã hội. "Với việc phát triển chế độ dân chủ một cách đầy đủ. nghĩa là với
việc làm cho toàn thể quần chúng nhân dân tham gia thực sự bình đẳng và thực sự rộng rãi vào
mọi công việc quản lý nhà nước"1.
Như vậy, thực hiện dân chủ đầy đủ, rộng rãi trở thành một yêu cầu khách quan, một động lực
của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể có được bằng phương pháp
6



thực hành dân chủ một cách rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. "Chủ nghĩa xã hội
không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống... chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng
tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân" 1. Thực hành dân chủ rộng rãi trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội cũng chính là q trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, một nền
dân chủ mới bảo đảm cho sự thành công của chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa bắt nguồn từ bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là quy luật của sự hình thành và tự hồn thiện của hệ thống chun chính vơ sản, hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng là quá trình vận động và thực hành dân chủ; là
quá trình vận động biến dân chủ từ khả năng thành hiện thực trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội; là quá trình đưa các giá trị, chuẩn mực, nguyên tắc của dân chủ vào thực tiễn xây dựng cuộc
sống mới. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự trở thành một cuộc cách mạng của
đông đảo quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng thực hiện chuyển giao quyền lực thực sự về cho nhân
dân với mục đích lơi cuốn nhân dân vào quá trình sáng tạo xã hội mới.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu diễn ra nhằm xây dựng, phát triển
và hoàn thiện dân chủ, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Trước hết, nó trở thành điều kiện, tiền đề
thực hiện quyền lực, quyền làm chủ của nhân dân; là điều kiện cần thiết, tất yếu để mỗi công dân
được sống trong bầu khơng khí thực sự dân chủ.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính là q trình thực hiện dân chủ hóa đời
sống xã hội dưới sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân thơng qua chính đảng của nó, đảng cộng
sản. Đây cũng là nhân tố quan trọng chống lại những biểu hiện của dân chủ cực đoan, vơ chính
phủ, ngăn ngừa mọi hành vi coi thường kỷ cương, pháp luật.
Tóm lại, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, của quá trình vận động biến dân chủ từ khả năng trở thành hiện thực, để
nền dân chủ "ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó, tới con người hiện thực, nhân dân
hiện thực, và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân".
1.1.2.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Bản chất của dân chủ là một chế độ xã hội mà ở đó, dân chủ được hiểu là toàn bộ quyền lực

thuộc về nhân dân. Từ đó trở thành mục tiêu của sự phát triển xã hội, được thực hiện trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Được thiết lập sau khi giai cấp cơng nhân giành được chính quyền về tay của mình và nhân
dân lao động thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân.
Bản chất của dân chủ là mang bản chất giai cấp cơng nhân. Có sự thống nhất giữa tính giai
cấp cơng nhân với tính dân tộc, tính nhân dân, do lợi ích của giai cấp cơng nhân phù hợp với lợi
ích của giai cấp dân tộc, cũng như của đại đa số nhân dân lao động.
Do Đảng công sản lãnh đạo – yếu tố quan trọng bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân
dân. Bởi vì đảng cộng sản đại biểu cho trí tuệ và lợi ích của nhân dân lao động, giai cấp cơng
nhân và tồn dân tộc. Với nghĩa này, dân chủ xã hội chủ nghĩa mang tính nhất nguyên về mặt
chính trị.
7


Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện toàn diện trên các lĩnh vực đời sống xã hội để thể
hiển bản chất của dân chủ:
+Về chính trị
Dưới sự lãnh đạo duy nhất của đảng của giai cấp công nhân – đảng Mác-Lênin mà trên các
lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của nhân dân, thể hiện qua các quyền làm chủ, dân chủ,
quyền con người, thoả mãn ngày càng cao hơn những nhu cầu và lợi ích của nhân dân.
Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị là một trong các bản chất của dân chủ của nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị giai cấp cơng nhân thơng qua đảng của nó đối
với tồn bộ xã hội, nhưng khơng phải chỉ để thực hiện quyền lực, lợi ích riêng cho giai cấp công
nhân. Mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực, lợi ích của tồn thể nhân dân, trong đó có cả giai
cấp cơng nhân.
Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thì bao nhiêu sức mạnh
đều ở nơi dân, bao nhiêu quyền lực đều là của dân, bao nhiêu lợi ích đều là vì dân… Chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa… do đó về thực chất là của nhân dân, do dân
và vì nhân dân. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, khác với những cuộc cách mạng trước đây là

ở chỗ đây là cuộc cách mạng của số đơng, vì lợi ích của số đơng nhân dân.
V.I. Lênin cịn nhấn mạnh: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một chế độ mà nhân dân ngày càng
tham gia nhiều vào các công việc nhà nước. Với ý nghĩa đó, V.I. Lênin đã diễn đạt khá khái quát
về bản chất của dân chủ, mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa: đó là nền dân chủ “gấp triệu lần
dân chủ tư sản”. Do đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất của giai cấp cơng nhân, vừa có
tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc.
+Về kinh tế
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa vào chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của
toàn xã hội nhằm đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở
khoa học – cơng nghệ hiện đại với mục đích thoả mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất,
tinh thần của toàn thể nhân dân lao động
Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ thơng qua một q trình ổn định chính trị và phát
triển sản xuất, nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của đảng Mác-Lênin và quản
lý, giúp đỡ, hướng dẫn… của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Bản chất của dân chủ khi xuất phát từ bản chất kinh tế của nền dân chủ dù khác về bản chất
kinh tế của các chế độ tư hữu, áp bức, bất cơng, bóc lột nhưng cũng như tồn bộ nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa, nó khơng hình thành từ “hư vô” theo mong muốn của bất cứ ai. Kinh tế xã hội
chủ nghĩa là sự kế thừa, phát triển các thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử. Đồng thời lọc
bỏ những nhân tố lạc hậu, kìm hãm, tiêu cực… của các chế độ kinh tế trước đó, nhất là bản chất
tư hữu, áp bức bóc lột và bất công… đối với đa số nhân dân.
+Về tư tưởng – văn hoá
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được lấy hệ tư tưởng Mác-Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân làm nền tảng và chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới
(như văn học nghệ thuật, đạo đức, lối sống, văn hố, giáo dục, xã hội, tơn giáo v.v.) để thể
hiện bản chất của dân chủ.
Đồng thời, dân chủ xã hội chủ nghĩa kế thừa và phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống
các dân tộc; tiếp thu các giá trị tư tưởng – văn hoá, tiến bộ, văn minh xã hội… mà nhân loại đã
tạo ra ở tất cả những quốc gia, dân tộc…Do đó, đời sống tư tưởng – văn hoá của nền dân chủ xã
8



hội chủ nghĩa rất phong phú và đa dạng, toàn diện, ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng
hàng đầu, trở thành mục tiêu và động lực cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Với những bản chất nêu trên, dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết và chủ yếu được thực hiện
bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là kết quả hoạt động tự giác của quần chúng
nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ có được với
điều kiện tiên quyết là bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản. Bởi lẽ, nhờ nắm
vững hệ tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác –Lênin và đưa nó vào quần
chúng, Đảng mang lại cho phong trào quần chúng tính tự giác cao trong q trình xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục của mình, Đảng nâng
cao trình độ giác ngộ chính trị, trình độ văn hóa dân chủ của nhân dân để họ có khả năng thực
hiện hữu hiệu những yêu cầu dân chủ phản ánh đúng quy luật phát triển xã hội. Chỉ dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân mới đấu tranh có hiệu quả chống lại mọi mưu đồ lợi
dụng dân chủ vì những động cơ đi ngược lại lợi ích của nhân dân.Với những ý nghĩa như vậy,
dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhất ngun về chính trị, bảo đảm vai trị lãnh đạo duy nhất của
Đảng Cộng sản không loại trừ nhau mà ngược lại, chính sự lãnh đạo của Đảng là điều
kiện cho dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời, tồn tại và phát triển. Với tất cả những đặc trưng đó,
dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản,là nền
dân chủ mà ởđó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và
pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
1.2. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Sự ra đời, bản chất, đặc trưng và chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.2.1.1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cách mạng do giai cấp vô sản và nhân
dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhưng cách mạng của mỗi nước có
những điều kiện và hồn cảnh khác nhau, cho nên sự ra đời của các nhà nước xã hội chủ nghĩa
cũng như việc tổ chức chính quyền sau khi cách mạng thành cơng cũng có những đặc điểm đặc
thù riêng. Mỗi nước sẽ chọn cho mình những phương pháp và hình thức phù hợp. Nhưng đã ra
đời trong điều kiện và hồn cảnh nào thì nhà nước xã hội chủ nghĩa đều là nhà nước có chung

một bản chất. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử đã diễn ra ở những thời
điểm quan trọng và được thể hiện dưới các hình thức sau:
Công xã Paris ra đời trong cuộc khởi nghĩa vũ trang của công nhân Paris năm 1871;
Nhà nước Xô viết, ra đời sau Cách mạng tháng Mười (1917) vĩ đại;Nhà nước dân chủ nhân
dân ra đời do kết quả của cuộc đấu tranh giải phóng và các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân sau chiến tranh thế giới thứ hai ở Châu Âu;
Nhà nước Cộng hòa Cu-ba.
Ở Việt Nam, tháng Tám năm 1945, nắm vững thời cơ khi phát xít Nhật đầu hàng đồng minh,
Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã phát động nhân dân ta vùng dậy làm cách mạng
tháng Tám thành cơng, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hịa - Nhà nước công nông đầu tiên ở
Đông nam châu á. Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước cộng hịa non trẻ đã phải tiến hành cuộc
kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp, năm 1954 miền Bắc được giải phóng, miền Nam
vẫn tiếp tục cuộc kháng chiến chống xâm lược và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước. Trong điều kiện đó chính quyền dân chủ nhân dân ở nước ta đã làm nhiệm vụ lịch sử
của chun chính vơ sản.
9


Tháng 04/1975 đất nước hồn tồn giải phóng, Việt Nam bước sang một giai đoạn phát triển
mới - giai đoạn cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, trước những thử thách lớn lao
của thời đại, với đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề ra và được thể chế hóa trong Hiến
pháp năm 2013, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang từng bước đổi mới,
vượt qua khủng hoảng, vững chắc đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giầu,
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
1.2.1.2. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn đã cho thấy rõ, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước
kiểu mới có bản chất khác với bản chất của các kiểu nhà nước bóc lột. Bản chất đó do cơ sở kinh
tế xã hội chủ nghĩa và đặc điểm của quyền lực chính trị trong chủ nghĩa xã hội quy định.
Trong chủ nghĩa xã hội, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được thiết lập và củng cố dựa trên
cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất - đó là kiểu quan hệ sản xuất thể hiện sự hợp tác,

tương trợ khơng có áp bức bóc lột. Giai cấp vơ sản là người giữ địa vị thống trị về chính trị.
Nhưng sự thống trị về chính trị của giai cấp vơ sản đã thể hiện bản chất và mục đích khác hẳn
với sự thống trị về chính trị của các giai cấp bóc lột. Sự thống trị của giai cấp bóc lột là sự thống
trị của thiểu số đối với tất cả các giai cấp bị áp bức, bóc lột, để bảo vệ lợi ích của chúng. Cịn sự
thống trị về chính trị của giai cấp vơ sản là sự thống trị của đa số đối với giai cấp bóc lột, chỉ là
thiểu số trong dân cư, nhằm mục đích giải phóng giai cấp mình và tất cả người lao động. Mặt cơ
bản nhất trong sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản là sự lãnh đạo của giai cấp vơ sản đối
với tồn xã hội trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, là
công cụ để thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp vơ sản. Bản chất và mục đích của nhà nước
xã hội chủ nghĩa thể hiện ở những đặc điểm cơ bản sau đây:
(i) Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là một bộ máy chính trị - hành chính, một cơ quan cưỡng
chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế xã hội của nhân dân lao động, nó khơng còn là nhà nước
theo đúng nghĩa mà chỉ là 'nửa nhà nước'.
Tất cả các nhà nước bóc lột đều là nhà nước theo đúng nghĩa của nó, nghĩa là bộ máy của
thiểu số những kẻ bóc lột để trấn áp đa số nhân dân lao động bị áp bức bóc lột … Phù hợp với
bản chất đó, các nhà nước bóc lột đều là bộ máy hành chính - qn sự quan liêu, một bộ máy bạo
lực để thực hiện sự đàn áp nhân dân lao động, bảo vệ sự thống trị của giai cấp bóc lột.
Khác với các nhà nước bóc lột, nhà nước xã hội chủ nghĩa khơng đơn thuần chỉ là bộ máy
hành chính - cưỡng chế mà nó cịn là một tổ chức quản lý kinh tế xã hội. Hơn thế, bộ máy hành
chính cưỡng chế của nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng đã có bản chất và đặc điểm khác: Đó là bộ
máy do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tổ chức ra để trấn áp giai cấp bóc lột đã bị lật
đổ và những phần tử phản động để bảo vệ thành quả cách mạng, giữvững an ninh chính trị, tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế xã hội. Cho nên, mặc dù trong thời kỳ quá độ sự
trấn áp vẫn còn là tất yếu, nhưng nó đã là sự trấn áp của đa số nhân dân lao động đối với thiểu số
bóc lột. "Cơ quan đặc biệt, bộ máy trấn áp đặc biệt là 'nhà nước' vẫn còn cần thiết, nhưng nó đã
là nhà nước q đợ, mà khơng cịn là nhà nước theo đúng nghĩa nữa. Sự trấn áp ấy có thể dung
hợp với việc mở rộng chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân, khiến cho sự cần thiết phải
có một bộ máy trấn áp đặc biệt cũng bắt đầu mất dần".

Tuy nhiên, do tính chất gay gắt của cuộc đấu tranh giai cấp việc củng cố và tăng cường sức
mạnh của bộ máy hành chính - cưỡng chế của nhà nước xã hội chủ nghĩa là vấn đề quan trọng
không thể coi nhẹ, nhất là trong giai đoạn đầu sau khi cách mạng thành công, cũng như trong
10


thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình vận động và phát triển, cùng với những
thắng lợi trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, vai trò làm chủ của nhân dân lao động ngày
càng được phát huy, các phần tử bóc lột và phản cách mạng được cải tạo trở thành những người
lao động chân chính… thì bộ máy hành chính cưỡng chế của nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ ngày
càng được xây dựng một cách tinh giản hơn và việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế sẽ được
thực hiện trên cơ sở kết hợp cùng với các biện pháp giáo dục, thuyết phục và các biện pháp kinh
tế. Mặt khác, để thực hiện thắng lợi chun chính vơ sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
lao động, bảo đảm thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa bên cạnh việc xây
dựng và củng cố bộ máy hành chính cưỡng chế đặc biệt phải chú ý củng cố và tăng cường bộ
máy quản lý kinh tế - xã hội. Bởi vì theo V.I. Lênin “chun chính vơ sản khơng phải chỉ là bạo
lực đới với bọn bóc lột và cũng không phải chủ yếu là bạo lực. Cơ sở kinh tế của bạo lực cách
mạng đó, cái bảo đảm sức sống và thắng lợi của nó là giai cấp vô sản đưa ra và thực hiện được
kiểu tổ chức lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư bản; đây là thực chất của vấn đề. Đấy là
nguồn sức mạnh, là điều bảo đảm cho thắng lợi hoàn toàn và tất nhiên của chủ nghĩa cộng sản".
Cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới là nội dung chủ yếu và mục đích cuối cùng
của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là một sự nghiệp vĩ đại nhưng đồng thời cũng là cơng việc
cực kỳ khó khăn và phức tạp. Nó địi hỏi nhà nước phải là một bộ máy có đầy đủ sức mạnh để
trấn áp kẻ thù và những phần tử chống đối cách mạng, đồng thời nhà nước phải là một tổ chức
có đủ năng lực để quản lý và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa trong đó việc tổ chức quản lý
kinh tế là quan trọng, khó khăn và phức tạp nhất. Nước ta từ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp, đồng thời
lại phải trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, những tàn dư thực dân,
phong kiến còn nhiều, các thế lực thù địch thường xuyên tìm mọi cách phá hoại chế độ xã hội
chủ nghĩa và nền độc lập của nhân dân ta. Vì vậy, việc cải tạo và xây dựng đất nước đi lên chủ

nghĩa xã hội lại càng khó khăn phức tạp hơn.Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã nhấn mạnh
phải xây dựng nhà nước vững mạnh: "Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ
nghiêm kỷ cương xã hợi, chun chính với mọi hành đợng xâm phạm lợi ích của Tở q́c và của
nhân dân”.
(ii) Dân chủ xã hội chủ nghĩa là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa:Các nhà nước bóc
lột được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, nhằm duy trì sự áp
bức, bóc lột và thống trị giai cấp. Vì vậy, trong các nhà nước bóc lột khơng thể có chế độ dân
chủ thực sự được. Chỉ trong chủ nghĩa xã hội mới có cơ sở để đảm bảo cho nền dân chủ thực sự
được phát triển. Nhà nước chính là cơng cụ để thực hiện nền dân chủ đó. Trong chủ nghĩa xã hội,
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, là người sáng lập ra nhà nước và mọi
hoạt động của nhà nước đều nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân lao động. Với ý nghĩa đó, nhà
nước xã hội chủ nghĩa chính là nhà nước của dân, do dân và vì dân (nhân dân lao động) và chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là thuộc tính gắn liền với bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Đại hội lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Nhà nước ta là "Nhà nước xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và
tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ
của nhân dân".
Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng, dân chủ xã hội chủ nghĩa là một chế độ nhà nước chứ khơng
phải là vơ chính phủ. V.I.Lênin đã chỉ rõ: "Cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi
hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta. Nhưng mặt khác, chế đợ dân chủ có
nghĩa là chính thức thừa nhận quyền bình đẳng giữa những công dân, thừa nhận cho mọi người
11


có quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu của nhà nước và quản lý nhà nước". Trên cơ sở
vận dụng sáng tạo nguyên lý về dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện Việt Nam, nhiều văn
kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định: Thực hiện quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động thực chất là tôn trọng con người, phát huy sức sáng tạo của tầng. lớp nhân
dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước phải bảo đảm
cho nhân dân thực sự tham gia vào quản lý nhà nước, thực sự có quyền lựa chọn những người

đại biểu xứng đáng của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước, có quyền, có khả năng và
điều kiện thực tế để thực hiện việc kiểm tra, giám sát, phê bình các cán bộ và cơ quan nhà nước,
bãi miễn những đại biểu do mình bầu ra nhưng khơng cịn xứng đáng nữa. Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra đó là phương châm mở rộng dân chủ tạo điều kiện cho nhân dân tham gia
đông đảo vào việc quản lý nhà nước của mình. Nhà nước phải thi hành các biện pháp kiên quyết
để xóa bỏ tệ quan liêu, cửa quyền, nghiêm trị những phần tử phạm pháp, thực hiện dân chủ hóa
và bảo đảm cơng bằng xã hội.
(iii) Nhà nước xã hội chủ nghĩa ln giữ vai trị tích cực và sáng tạo, là công cụ để xây dựng
một xã hội nhân đạo, cơng bằng và bình đẳng:Khác với các giai cấp trước kia, giai cấp vô sản
sau khi trở thành giai cấp thống trị, nắm trong tay quyền lực nhà nước, khơng có mục đích dùng
nhà nước đề duy trì mãi địa vị thống trị của mình, mà là để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới, xóa bỏ mọi sự áp bức bóc lột và mọi sự thống trị giai cấp. Vì vậy, trong quá trình tổ chức và
thực thi quyền lực giai cấp vô sản thực hiện sự liên minh với mọi lực lượng lao động của xã hội
để thiết lập những nguyên tắc và cơ chế vận hành quyền lực nhà nước dựa trên cơ sở quyền lực
nhân dân, không ngừng mở rộng dân chủ và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
Xuất phát từ mục đích và cách tổ chức quyền lực như vậy, quá trình tồn tại và phát triển của
nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ luôn phù hợp với các quy luật vận động khách quan của xã hội, và
vì vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ ln giữ vai trị chủ động sáng tạo, là cơng cụ để thúc đẩy
sự phát triển của xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa càng phát triển cao thì tính chất xã hội của nó càng mở rộng. Đến
một giai đoạn nhất định của lịch sử, khi những điều kiện xã hội đã thay đổi, cơ sở tồn tại của nhà
nước khơng cịn nữa thì nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ "tự tiêu vong", nhường chỗ cho sự phát
triển của một tổ chức tự quản mạnh mẽ, dựa hoàn toàn trên cơ sở của quyền lực nhân dân rộng
rãi và hòa nhập với xã hội.
1.2.1.3. Đặc trưng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Dựa vào cơ sở lý luận khoa học của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể nêu ra những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã
hội như sau
Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin:

CNXH là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nó có sự khác
nhau về chất và nguyên tắc xây dựng so với Chủ nghĩa tư bản. Dựa vào cơ sở lý luận khoa học
của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng
ta có thể nêu ra những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau:
- Đặc trưng thứ nhất: cơ sở vật chất – kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất cơng
nghiệp hiện đại.Chỉ có nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa năng suất lao động lên cao,
tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu về vật chất
và văn hóa của nhân dân, khơng ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân. Nền cơng nghiệp
hiện đại đó được phát triển dựa trên lực lượng sản xuất đã phát triển cao. Ở những nước thực
12


hiện sự quá độ “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội”, trong đó có Việt Nam thì
đương nhiên phải có q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa để từng bước xây dựng cơ sở vật
chất – kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa xã hội.
- Đặc trưng thứ hai: Chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế
độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất,
tổng quát nhất về thực chất của công cuộc cải tạo xã hội theo lập trường của giai cấp cơng nhân.
Tuy nhiên, khơng phải xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ sở hữu này được
củng cố, hồn thiện, bảo đảm thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, xóa bỏ dần những mâu thuẫn đối kháng trong
xã hội, làm cho mọi thành viên trong xã hội ngày càng gắn bó với nhau vì những lợi ích căn bản.
- Đặc trưng thứ ba: Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một quá trình hoạt
động tự giác của đại đa số nhân dân lao động, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính bản chất và
mục đích đó, cần phải tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới phù hợp với địa vị làm chủ của
người lao động, đồng thời khắc phục những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã

hội cũ.
- Đặc trưng thứ tư: Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động – nguyên
tắc phân phối cơ bản nhất.Chủ nghĩa xã hội bảo đảm cho mọi người có quyển bình đẳng trong
lao động sáng tạo và hưởng thụ. Mọi người có sức lao động đều có việc làm và được hưởng thù
lao theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Đó là một trong những cơ sở của
cơng bằng xã hội ở giai đoạn này.
- Đặc trưng thứ năm: Chủ nghĩa xã hội có Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới,
nhà nước mang bản chất giai cấp cơng nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực
hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thông qua nhà nước, Đảng lãnh đạo
toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi
mặt của xã hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Đây là một “nhà
nước nửa nhà nước”, với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ,
làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn.
- Đặc trưng thứ sáu: CNXH đã giải phóng con người thốt khỏi áp bức bóc lột, thực hiện cơng
bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức về kinh
tế và nô dịch về tinh thần, bảo đảm sự phát triển tồn diện cá nhân, hình thành và phát triển lối
sống xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi người phát huy tính tích cực của mình trong cơng cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Nhờ xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa mà xóa bỏ sự đối
kháng giai cấp, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người, tình trạng nơ dịch và áp bức dân tộc, thực
hiện được sự cơng bằng, bình đẳng xã hội.
Những đặc trưng trên phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội, nói lên tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội. Và do đó, chủ nghĩa xã hội là một xã hội tốt đẹp, lý tưởng, ước mơ của tồn thể
nhân loại. Những đặc trưng đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do đó, trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội cần phải quan tâm đầy đủ tất cả các đặc trưng này.
1.2.1.4. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
13



Theo quan niệm chung, chức năng giai cấp là cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước bao giờ cũng là
công cụ chuyên chính của một giai cấp nhất định. Mọi nhà nước đều sẵn sàng sử dụng bất cứ
công cụ, biện pháp nào có thể có để bảo vệ sự thống trị của giai cấp mình. Cịn chức năng xã hội
của nhà nước là cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước đều phải thực hiện việc quản lý những hoạt động
chung vì sự tồn tại của xã hội, đồng thời phải chăm lo một số cơng việc chung của tồn xã hội.
Trong một giới hạn xác định, nhà nước phải hoạt động để thoả mãn những nhu cầu chung của
cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nó. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng trước đây,
để giữ nhà nước trong tay mình, giai cấp thống trị nào cũng buộc phải nhân danh xã hội mà quản
lý những cơng việc chung. Việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề chung của xã hội sẽ tạo
điều kiện để duy trì xã hội trong vịng trật tự theo quan điểm và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Như vậy, việc thực hiện chức năng xã hội theo quan điểm và giới hạn của giai cấp cầm quyền là
phương thức, là điều kiện để nhà nước đó thực hiện vai trị thống trị giai cấp của nó. Nói về mối
quan hệ biện chứng giữa hai chức năng này, Ph.Ăngghen viết: “Ở khắp nơi, chức năng xã hội là
cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó cịn thực
hiện chức năng xã hội của nó”(1).
Đề cập đến chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong khi chú trọng đến chức năng giai
cấp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn coi chức năng xã hội là thuộc tính cơ bản
nhất và quan trọng nhất của nó. Nói về vấn đề này, V.I.Lênin cho rằng, chun chính vơ sản
khơng phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột và cũng khơng phải chủ yếu là bạo lực, mà mặt cơ
bản của nó là không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân cùng với việc tổ chức, xây dựng toàn
diện xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Ơng viết: “Lần đầu tiên chun
chính vơ sản, tức là thời kỳ quá độ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, sẽ đem lại một chế độ dân chủ
cho nhân dân, cho số đông, đi đôi với sự trấn áp tất yếu đối với số ít, đối với bọn bóc lột”(2).
Như vậy, có thể nói, bản thân chuyên chính vơ sản, theo quan điểm mácxít, tự nó đã thể hiện sự
thống nhất giữa chức năng giai cấp và chức năng xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, về thực chất, là chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân và vì thế, trong nhà nước này, nền dân chủ phải là nền dân chủ đầy đủ nhất, rộng rãi nhất và
thực chất nhất – đó là nền dân chủ bao quát toàn diện mọi lĩnh vực đời sống xã hội và lấy dân
chủ trong lĩnh vực kinh tế làm nền tảng. Chủ nghĩa xã hội sẽ không thể tồn tại và phát triển được
nếu thiếu dân chủ, thiếu sự thực hiện một cách đầy đủ và không ngừng mở rộng dân chủ. “Phát

triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình
thức ấy trong thực tiễn…”(3) đã được V.I.Lênin coi là một trong những nhiệm vụ cấu thành cách
mạng xã hội chủ nghĩa, là một vấn đề có tính quy luật của sự phát triển và hoàn thiện nhà nước
xã hội chủ nghĩa.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa – xã hội khơng cịn các giai cấp đối kháng, nhà nước xã hội chủ
nghĩa vẫn thực hiện hai chức năng cơ bản, nhưng cơ chế và mục đích thực hiện hai chức năng đó
đã có sự thay đổi căn bản. Cũng như mọi nhà nước khác đã từng tồn tại trong lịch sử, nhà nước
xã hội chủ nghĩa muốn thực hiện được chức năng giai cấp của mình, trước hết phải làm tốt chức
năng xã hội, đặc biệt là việc không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân, sử dụng sức mạnh, lực
lượng của mình để bảo vệ và bảo đảm tuyệt đối các quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Thực
hiện tốt chức năng xã hội là cơ sở, là điều kiện tiên quyết để nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo
và giữ vững địa vị thống trị xã hội về mặt chính trị, nghĩa là có đầy đủ khả năng để trấn áp sự
phản kháng của các giai cấp bóc lột và các thế lực thù địch. Điều này có nghĩa là, chức năng giai
cấp và chức năng xã hội luôn có mối quan hệ biện chứng, cái nọ làm tiền đề và là cơ sở cho cái
kia. Tuy nhiên, trong điều kiện giai cấp vơ sản đã giành được chính quyền và thiết lập được nhà
14


nước của mình, thì chức năng giai cấp là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; còn chức năng xã hội
(mà trong đó, việc tổ chức xây dựng xã hội mới là chủ yếu) là nhiệm vụ cơ bản, quyết định trực
tiếp sự thắng lợi hay thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự khác nhau căn bản
giữa việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước tư bản chủ
nghĩa là ở chỗ, nhà nước tư bản chủ nghĩa thực hiện chức năng xã hội không phải với tư cách là
mục đích, mà là phương tiện để củng cố, đảm bảo sự thống trị chính trị và kinh tế của thiểu số
trong xã hội là giai cấp tư sản đối với đa số là giai cấp công nhân và những người lao động khác.
Theo đó, việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước tư bản chủ nghĩa luôn bị giới hạn trong
một phạm vi chật hẹp và bị chi phối bởi quan điểm của giai cấp tư sản, xuất phát từ những lợi
ích kinh tế và chính trị ích kỷ của một thiểu số dân cư trong xã hội. Ngược lại, việc thực hiện
chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa được xác định là mục đích chứ khơng phải là
phương tiện để nhà nước ấy đảm bảo sự thống trị chính trị của nó. Chức năng xã hội của nhà

nước xã hội chủ nghĩa là nhằm đảm bảo quyền dân chủ cho đại đa số những người lao động, xây
dựng những thiết chế, cơ sở để quyền làm chủ đó được thực hiện một cách thực sự trong thực tế.
1.2.2. Mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ
nghĩa
Một là: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng và hoạt động của nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Chỉ trong xã hội dân chủ xã hội chủ nghĩa, người dân mới có đầy đủ các
điều kiện cho việc thực hiện ý chí của mình thơng qua việc lựa chọn một cách cơng bằng, bình
đẳng những người đại diện cho quyền lợi chính đáng của mình vào bộ máy nhà nước, tham
gia một cách trực tiếp hoặc giản tiếp vào hoạt động quản lý của nhà nước, khai thác và phát
huy một cách tốt nhất sức mạnh trí tuệ của nhân dân cho hoạt động của nhà nước. Với những
tính ưu việt của mình, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ kiểm sốt một cách có hiệu quả quyền
lực của nhà nước, ngăn chặn được sự tha hóa của quyền lực nhà nước, có thể dễ dàng đưa ra
khỏi cơ quan nhà nước những người thực thi công vụ không còn đáp ứng yêu cầu về phẩm
chất, năng lực, đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu hướng đến lợi ích của người dân. Ngược lại,
nếu các nguyên tắc của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bị vi phạm, thì việc xây dựng nhà
nước xã hội chủ nghĩa cũng sẽ khơng thực hiện được. Khi đó, quyền lực của nhân dân sẽ bị biến
thành quyền lực của một nhóm người, phục vụ cho lợi ích của một nhóm người.
Hai là: Ra đời trên cơ sở nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa trở
thành công cụ quan trọng cho việc thực thi quyền làm chủ của người dân. Bằng việc thể
chế hóa ý chí của nhân dân thành các hành lang pháp lý, phân định một cách rõ ràng quyền và
trách nhiệm của mỗi công dân, là cơ sở để người dân thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng
thời là cơng cụ bạo lực để ngăn chặn có hiệu quả các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích
chính đáng của người dân, bảo vệ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm
trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là phương thức thể hiện và thực hiện dân chủ. Theo
V.I.Lênin, con đường vận động và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa là ngày càng
hồn thiện các hình thức đại diện nhân dân thực hiện và mở rộng dân chủ, nhằm lôi cuốn ngày
càng đông đảo nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Thông qua hoạt động quản
lý của nhà nước, các nguồn lực xã hội được tập hợp, tổ chức và phát huy hướng đến lợi ích của
nhân dân. Ngược lại, nếu nhà nước xã hội chủ nghĩa đánh mất bản chất của mình sẽ tác
động tiêu cực đến nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, sẽ dễ dẫn tới vệc xâm phạm quyền làm chủ của

người dân, dẫn tới chuyên chế, độc tài,thủ tiêu nền dân chủ hoặc dân chủ chỉ cịn là hình thức.
Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước là thiết chế có chức năng trực tiếp
nhất trong việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện những yêu cầu dân chủ chân chính của nhân
dân. Nó cũng là cơng cụ sắc bén nhất trong cuộc đấu tranh với mọi mưu đồ đi ngược lại lợi
15


ích của nhân dân; là thiết chế tổ chức có hiệu quả việc xây dựng xã hội mới; là công cụ
hữu hiệu để vai trò lãnh đạo Đảng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội được thực
hiện... Chính vì vậy trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Đảng ta xem Nhà nước là “trụ
cột”, “một công cụ chủ yếu, vững mạnh” của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
1.3. Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin (quan điểm của C. Mác,
Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin) về dân chủ có những giá trị khoa học, cách mạng và thực tiễn
to lớn
Thứ nhất, nhận thức về dân chủ trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tạo ra sự thay đổi có tính cách mạng trong nhận thức và thực hành dân
chủ. “Dân chủ là sản phẩm phản ánh tính chất các mới quan hệ xã hội, trình độ và yêu cầu phát
triển của xã hội, nhất là mối quan hệ, trình độ và yêu cầu phát triển kinh tế”. Từ quan điểm duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm về hình thái kinh tế - xã hội và mối quan hệ giữa cơ
sở hạ tầng - kiến trúc thượng tầng, dân chủ được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin
lý giải một cách khoa học, nhất là về cơ sở, nguồn gốc, bản chất và yếu tố ảnh hưởng của nó.
Bởi vì, “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định,
tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ  - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này
phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn
bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên
đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị” (1). Và “hình thái sản xuất đều sản
sinh ra những quan hệ pháp lý, những hình thức quản lý, v.v., riêng của nó” (2). Dân chủ - quyền
làm chủ của con người trong xã hội - luôn dựa trên những cơ sở hiện thực của nó, nhất là cơ sở
kinh tế. “Quyền khơng bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa

của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định” (3). “Không thể lấy bản thân những quan hệ pháp
quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần
của con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những
quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất” (4). Hơn nữa, “bất cứ nền
dân chủ nào, xét đến cùng, cũng đều phục vụ sản xuất và xét đến cùng, đều do các quan hệ sản
xuất trong một xã hội nhất định quyết định”(5).
Bản chất của dân chủ là ở chỗ, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước và giữ vai trò
quyết định sự tồn tại của nhà nước. Dân chủ với tính cách là chế độ nhà nước được thể hiện ra
như là “mợt trong những tính quy định, cụ thể là sự tự quy định của nhân dân” (6); Nhà nước dân
chủ thực sự là nhà nước “ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó, tới con người hiện thực,
nhân dân hiện thực, và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân”(7). Cụ thể hơn, dân
chủ là: Bình đẳng của mọi cơng dân trước pháp luật; tự do chính trị cho mọi cơng dân; quyết
định theo đa số của mọi công dân; quyết định bằng cách biểu quyết, đó là thực chất của chế độ
dân chủ hịa bình hoặc dân chủ thuần túy;...(8). Cùng với sự phát triển của lịch sử, dân chủ là một
phạm trù lịch sử, phát triển từ thấp đến cao, “từ chuyên chế đến dân chủ tư sản; từ dân chủ tư sản
đến dân chủ vô sản; từ dân chủ vô sản đến khơng cịn dân chủ nữa”(9).
Thứ hai, xác định giá trị, hạn chế và ý nghĩa lịch sử của dân chủ tư sản trên tinh thần khoa
học và cách mạng.
Dân chủ tư sản có tính tiến bợ và cách mạng. Dân chủ tư sản có tính tiến bộ và cách mạng vì
nó nhằm vào việc chống chế độ độc đốn, chun quyền, lỗi thời của xã hội phong kiến. Dân
chủ tư sản làm cho đấu tranh giai cấp trở nên rộng rãi, cơng khai, có ý thức. “Chế độ cộng hịa tư
16


sản, nghị viện, đầu phiếu phổ thông, - tất cả những cái đó, xét về phương diện phát triển của xã
hội trên toàn thế giới, đều là một bước tiến rất lớn” (10). Việc tham gia vào chế độ dân chủ đại nghị
là một biện pháp huấn luyện, giáo dục và tổ chức giai cấp vơ sản thành một chính đảng độc lập,
là một biện pháp đấu tranh của công nhân, người lao động.
Dân chủ tư sản mang tính nửa vời, không triệt để. Dân chủ tư sản bị che đậy bởi “chính quyền
tồn dân”, “dân chủ thuần túy” và bản chất chun chính của kẻ bóc lột đối với quần chúng lao

động; cản trở, bóp nghẹt sinh hoạt chính trị độc lập của quần chúng và sự tham gia trực tiếp của
họ vào việc xây dựng nhà nước dân chủ thực sự. Dân chủ tư sản hoàn thành khi mang lại lợi ích
căn bản cho giai cấp tư sản và làm cho cuộc đấu tranh vì dân chủ của quần chúng đi đến thoái
trào; đồng thời, dẫn đến việc giai cấp tư sản thỏa hiệp với giai cấp phong kiến, sợ hãi và đàn áp
các lực lượng dân chủ và cách mạng. Sự dao động, hèn nhát, phản bội, bất lực của giai cấp tư
sản đã đi ngược lại mục tiêu ban đầu của cuộc đấu tranh vì dân chủ. Dân chủ đại nghị chỉ có tính
chất ước lệ và sự hạn chế của nó gắn liền với chế độ tư bản chủ nghĩa, bởi dân chủ chỉ dành cho
thiểu số bóc lột.
Dân chủ tư sản có ý nghĩa to lớn và là tiền đề cho cuộc đấu tranh vì dân chủ của giai cấp vô
sản. Đấu tranh cho dân chủ trong điều kiện của nền dân chủ tư sản là tiền đề cho cuộc đấu tranh
giải phóng giai cấp vô sản. Cách mạng dân chủ càng được thực hiện đầy đủ bao nhiêu thì cuộc
đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản càng diễn ra sớm, rộng lớn, rõ rệt và kiên quyết bấy nhiêu.
“Nhưng chúng ta, những người theo chủ nghĩa Mác, chúng ta phải biết rằng giai cấp vơ sản và
nơng dân khơng có và khơng thể có con đường nào khác dẫn tới tự do chân chính ngồi con
đường tự do tư sản và tiến bộ tư sản” (11). Dân chủ tư sản không giúp giải thốt được ngay lập tức
cơng nhân và người lao động khỏi cảnh bần cùng, nhưng sẽ đem lại cho cơng nhân vũ khí để đấu
tranh chống lại cảnh bần cùng. Đấu tranh cho dân chủ dù ở mức độ và trình độ nào thì đều nằm
trong mục tiêu chung của tiến trình cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản. Phải đưa vào
trong phong trào công nhân tự phát những lý tưởng xã hội chủ nghĩa; những lý tưởng này phải
đạt tới trình độ khoa học, gắn phong trào đó với cuộc đấu tranh chính trị có hệ thống cho dân
chủ. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản phải trên cơ sở thực hiện một
cương lĩnh, một sách lược cách mạng về toàn bộ những yêu sách dân chủ. Dân chủ tư sản trở
thành trường học dân chủ để giai cấp vô sản học tập, rèn luyện tinh thần, ý thức dân chủ và năng
lực thực hành dân chủ. “Nhưng hoàn toàn không thể tưởng tượng được rằng giai cấp vô sản, với
tư cách là một giai cấp lịch sử, có thể chiến thắng được giai cấp tư sản, mà lại chưa được giáo
dục theo tinh thần dân chủ triệt để nhất và kiên quyết cách mạng nhất, để làm việc đó”(12).
Tuy nhiên, “Chúng ta ủng hộ chế độ cộng hòa dân chủ vì nó là hình thức nhà nước tốt nhất
cho giai cấp vô sản dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng chúng ta không được quên rằng cảnh
nô lệ làm thuê là số phận của nhân dân ngay cả trong nước cộng hòa tư sản dân chủ nhất” (13). Và
do vậy, cần “Dựa vào chế độ dân chủ đã được thực hiện, đồng thời bóc trần tính chất khơng triệt

để của cái chế độ dân chủ đó dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, chúng ta đòi phải lật đổ chủ nghĩa tư
bản, tước đoạt giai cấp tư sản, coi đó là cơ sở cần thiết để xóa bỏ tình trạng bần cùng của quần
chúng cũng như để thực hiện một cách đầy đủ và toàn diện tất cả mọi cải cách dân chủ”(14).
Đấu tranh cho dân chủ, xét cho cùng, là con đường dẫn đến chủ nghĩa xã hội. Giữa hai cuộc
đấu tranh cho dân chủ và cho chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau; thực hiện
hoàn toàn và triệt để chế độ dân chủ là tiền đề để đạt đến mục đích cuối cùng là chủ nghĩa xã
hội. “Giai cấp vô sản không thể giành được thắng lợi bằng cách nào khác hơn là thông qua chế
độ dân chủ, nghĩa là bằng cách thực hiện chế độ dân chủ triệt để và đem những yêu sách dân chủ
được đề ra một cách kiên quyết nhất mà gắn liền với từng giai đoạn đấu tranh của họ” (15). Đấu
17


tranh vì dân chủ và chủ nghĩa xã hội là một tiến trình thống nhất và tất yếu. Giai đoạn đấu tranh
vì dân chủ là sự chuẩn bị cho giai đoạn đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội; giai đoạn đấu tranh vì chủ
nghĩa xã hội là sự kế tục và hồn tất giai đoạn đấu tranh vì dân chủ. “Thắng lợi hoàn toàn của
cách mạng hiện tại sẽ đánh dấu bước kết thúc của cách mạng dân chủ và mở đầu một cuộc đấu
tranh kiên quyết cho cách mạng xã hội chủ nghĩa... Cách mạng dân chủ càng được thực hiện đầy
đủ bao nhiêu thì cuộc đấu tranh mới ấy càng diễn ra sớm, rộng lớn, rõ rệt và kiên quyết bấy
nhiêu”(16). Đấu tranh vì dân chủ tìm thấy khả năng và điều kiện tốt nhất ở cuộc đấu tranh vì chủ
nghĩa xã hội; đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội tìm thấy thuộc tính bản chất và động lực phát triển
của nó ở cuộc đấu tranh vì dân chủ. Vì thế, “chủ nghĩa xã hội thắng lợi nhất thiết phải thực hiện
chế độ dân chủ hoàn toàn”(17). Và “Khơng có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xã hội không thể thực
hiện được theo hai ý nghĩa sau đây: (1) giai cấp vơ sản khơng thể hồn thành được cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thơng qua cuộc đấu
tranh cho chế độ dân chủ; (2) chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của
mình và sẽ khơng dẫn được nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà nước, nếu không thực hiện được
đầy đủ chế độ dân chủ”(18).
Thứ ba, hình thành quan điểm về dân chủ nhằm giải quyết những nhiệm vụ lịch sử của cách
mạng vô sản và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng nền dân chủ là một mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng vô sản. “Như chúng

ta đã thấy trên kia, bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành
giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ” (19). Sau khi giành được chính quyền, giai cấp vơ sản
thơng qua nhà nước của mình để từng bước tổ chức cho toàn dân tham gia quản lý nhà nước một
cách dân chủ. Những biện pháp chủ yếu nhất mà chế độ dân chủ của giai cấp vô sản sử dụng vào
việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới thể hiện ở những công việc như: hạn chế quyền tư
hữu; dần dần tước đoạt ruộng đất, xí nghiệp, đường sắt, tàu thủy của địa chủ và tư sản, thực hiện
cạnh tranh trong công nghiệp nhà nước; tịch thu tài sản của giai cấp bóc lột; tổ chức lao động
trong giai cấp vô sản; thủ tiêu sự cạnh tranh giữa công nhân với nhau, trả tiền công bình đẳng
cho người lao động; tất cả mọi người trong xã hội đều có nghĩa vụ lao động như nhau; tiến hành
những cải tạo kinh tế và xã hội nhằm không ngừng phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của
nhân dân lao động. Không đặc quyền, không áp chế, không bất công,... là những nguyên tắc của
nền dân chủ vô sản.
Xây dựng nhà nước dân chủ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Khi giai cấp vô sản trở
thành giai cấp làm chủ xã hội cũng là lúc bắt đầu xây dựng một kiểu nhà nước mới - nhà nước
được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc dân chủ, phương pháp dân chủ và phấn đấu vì
mục tiêu dân chủ.
Dân chủ phải được bảo đảm bằng hiến pháp và toàn bộ hệ thống pháp luật. “Toàn bộ quyền
lực tối cao trong nước phải thuộc về các đại biểu của nhân dân, do nhân dân bầu ra, có thể bị
nhân dân bãi chức bất cứ lúc nào” (20). Chỉ có thể gọi một cuộc bầu cử là dân chủ khi nào nó là
phổ thơng, trực tiếp và bình đẳng. Chỉ có những ủy ban nào do tồn dân bầu ra trên cơ sở quyền
phổ thơng đầu phiếu mới là những ủy ban dân chủ. Toàn bộ công việc quản lý nhà nước từ dưới
lên đều do bản thân quần chúng tổ chức, quần chúng thực sự tham gia quản lý, chứ không dừng
lại ở cơ quan đại diện và đại biểu đại diện. Quần chúng cần nắm vững nghệ thuật quản lý nhà
nước và điều khiển tồn bộ chính quyền nhà nước. Đồng thời, phải làm thế nào để quyền bãi
miễn được thực hiện đầy đủ và nghiêm túc; thực hiện quyền bãi miễn tức là thực hiện quyền dân
chủ; từ chối không thực hiện quyền bãi miễn, trì hỗn thực hiện quyền đó, hạn chế quyền đó khi
cần thiết đều là phản lại dân chủ. Phải bảo đảm dân chủ trong quá trình xét xử; sự tham gia của
18



các đại biểu nhân dân trong việc xét xử là một nguyên tắc dân chủ; việc bầu cử các hội thẩm
khơng đặt trước một điều kiện nào, khơng có bất cứ hạn chế nào đối với quyền bầu cử, như hạn
chế về trình độ học vấn, thời gian cư trú,...
Chớng quan liêu, hoàn toàn xây dựng chế độ dân chủ của nhân dân. Xây dựng chế độ dân
chủ đi đôi với việc chống chế độ quan liêu từ những vấn đề có tính ngun tắc, từ tổ chức bộ
máy của nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội đến quan điểm, lập trường, thái độ, phong
cách của cán bộ, viên chức. Quan liêu là trái, là đối lập với dân chủ. “Chế độ dân chủ vô sản là
chế độ sẽ thi hành ngay lập tức những biện pháp để chặt tận gốc chế độ quan liêu và sẽ có thể thi
hành những biện pháp ấy tới cùng, tới chỗ hoàn toàn phá hủy chế độ quan liêu, tới chỗ hoàn toàn
xây dựng một chế độ dân chủ cho nhân dân” (21). Các biện pháp chủ yếu để chống chế độ quan
liêu là: những nhân viên của nhà nước vơ sản khơng chỉ được bầu ra mà cịn có thể bị bãi miễn
bất cứ lúc nào; lương của họ không cao hơn lương của công nhân; thi hành ngay những biện
pháp khiến tất cả mọi người đều làm chức năng kiểm sát và giám thị, khiến tất cả mọi người đều
tạm thời biến thành “quan liêu” và, do đó, khiến khơng một ai có thể trở thành kẻ quan liêu
được.
Thu hút sự tham gia thực sự của quần chúng vào xây dựng chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ sở;
dựa vào sáng kiến của quần chúng để xây dựng và phát triển dân chủ. Không phải chỉ tuyên
truyền về dân chủ, tuyên bố và ra sắc lệnh về dân chủ là đủ; không phải chỉ giao trách nhiệm
thực hiện chế độ dân chủ cho “những người đại diện” nhân dân trong những cơ quan đại biểu là
đủ. “Cần phải xây dựng ngay chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ sở, dựa vào sáng kiến của bản thân
quần chúng, với sự tham gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước”(22).
“Quần chúng càng chủ động, càng có nhiều ý kiến, càng mạnh dạn và càng có tinh thần sáng tạo
khi tiến hành cơng việc đó thì lại càng tốt

19


CHƯƠNG 2:LIÊN HỆ VỚI QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay:

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng có nội dung toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực đời sống xã hội.

Trên lĩnh vực chính trị:
Nội dung cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị là đưa quần chúng
nhân dân lao động từ địa vì nơ lệ ,làm th, bị áp bức bóc lột trở thành người làm
chủ nhà nước , làm chủ xã hội. Muốn thực hiện được nội dung đó,
giai cấp cơng nhân cùng với nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản phải dùng
bạo lực đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, như C.Mác ph.Ănghen nói: “ Giai cấp
vơ sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc”.
Bước tiếp theo là giai cấp công nhân phải xây dựng một nền dân chủ rộng rải cho nhân
dân, đảm bảo cho nhân dân lao động thực hiện đầy đủ quyền làm chủ đề chính trị, tham gia vào
cộng cuộc quản lý xã hội, quản lý nhà nước, làm cho nhà nước thật sự là của dân , do dân
và vì dân.

Trên lĩnh vực kinh tế:
Việc giành được chính quyền về tay giai cấp cơng nhân và nhân dân lao
động mới chỉ là nhiệm vụ quan trọng bước đầu. Nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa
quyết định cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa phải là phát triển kinh
tế; nâng cao chủ nghĩa là cuộc cách mạng về kinh tế. Trong điều lệ quốc tế I ,
C.Mác viết: “ Bất cứ cuộc cách mạng chính trị nào cũng chỉ là thủ đoạn để giải
phóng giai cấp cơng nhân vè mặt kinh tế “. Trong hệ tư tưởng Đức, Ơng nói: Xây
dựng chủ nghĩa cộng sản về thực chất là xây dựng về kinh tế. Chỉ có giải phóng về
kinh tế là cơ sở giải phóng giai cấp cơng nhân về mặt tinh thần, làm chủ dược kinh
tế mới làm chủ được mặt tinh thần.

Trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tạo nên sự biến đổi căn bản trong phương thức và nội dung sinh
hoạt tinh thần của xã hội theo hướng tiến bộ. Trên cơ sở kế thừa và nâng cao các giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc , thực hiện việc tiếp thu các giá trị văn hóa tiên tiến của thời đại để thực

hiện việc giải phóng những người lao động về mặt tinh thần qua việc xây dựng từng bước
thế giới quan cộng sản, xây dựng nền văn hóa mới và con người mới XHCN. Vì vậy, trong tun
ngơn của Đảng cộng sản, C.Mác Ănghen đã chỉ rõ: “ cách mạng cộng sản chủ nghĩ là sự đoạn
20


tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của q khứ; khơng có gì đáng ngạc nhiên
khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những
tư tưởng kế thừa của quá khứ”.
Các nội dung trên diễn tả ra đồng thời và có quan hệ mật thiết, tác động, thức đẩy lẫn
nhau đưa đến sự thành công của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
2.2. Lịch sử phát triển
Thời kỳ trước đổi mới, nhận thứ về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam đã đạt được
một số nhiều thành tựu bước đầu thể hiện qua phương châm, chiến lượt gắn độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này còn
nhiều hạn chế. Đảng ta chưa nhận thức hết được tính phức tạp, khó khăn và lâu dài của thời
kỳ quá độ ; chưa xác định nội dung “ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa “, thậm chí đối lập
chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội một cách máy móc theo kiểu phủ định sạch trơn ; tư duy
giáo điều, đơn giản về chủ nghĩa tư bản , đồng nhất bản chất bóc lột, áp bức, nơ dịch lồi người
của chủ nghĩa tư bản và chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa với toàn bộ những tiến bộ, văn minh của
chủ nghĩa tư bản. Điều này đã làm ảnh hưởng lớn đên công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đất
nước lâm vào khủng hoảng kinh tế
xã hội . Việc giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn nhiều
hạn chế, yếu kém. Chủ trương “ lấy quan hệ sản xuất tiến bộ mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển” là quan điểm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Nhất là thời kì sau
khi thống nhất đất nước , do duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp làm triệt tiêu
nhiều động lực phát triển đất nước.
Trong phương hướng phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đã không chú ý
đúng đắn đến các lợi ích chính đáng; chưa giải quyết thỏa đáng mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân
tập thể xã hội.

Nhiều quy luật, đặt biệt là các quy luật về kinh tế trong thời kỳ quá độ đã bị nhận thức sai lệch
hoặc quá máy móc, giáo điều. Việc tồn tại hai hình thức sở hữu, hai thành phần kinh tế: kinh
tế nhà nước và kinh tế tập thể đã làm triệt tiêu các nguồn lực cần thiết , vốn có trong các thành
phần kinh tế tất yếu phải tồn tại trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Các vấn đề khác như dân chủ xã hội chủ nghĩa, văn hóa xã hội chủ nghĩa,c on người mới
xã hội chủ nghĩa cịn có nhiều nhận thức mơ hồ, chủ quan, duy ý chí,... Các phương hướng , giải
pháp để xây dựng chủ nghĩa xã hội còn chung chung, trừu tượng. Vì vậy, trên thực tế chỉ tồn
tại ở hình thức, khơng có nội dung, thực chất . Một số vấn đề về xã hội như bình đẳng xã hội,
cơng bằng xã hội giữa các tộc người, giữa miền núi với miền xi, giữa nơng thơn và thành
thị… đều có những nhận thức chưa đầy đủ. Tính hiệu quả, thiết thực của các chính sách xã hội
cịn nhiều hạn chế.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên , bước vào thời kỳ đổi mới, qua các thời kỳ đại hội,
nhận thức đúng đắn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn.
Những điểm mới trong nhận thức vê chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của Đảng ta thời kỳ đổi mới thể hiện trên những nét căn bản sau:

Thứ nhất, nhận thức rõ hơn về thời kỳ đi lên chủ nghĩa quá độ. Tiến trình đổi mới của Việt
Nam được bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là đổi mói tư duy về xã hội va thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hôi.

Thứ hai, nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
21




Thứ ba, về các phương hướng quá đội lên chủ nghĩa xã hội và những vấn đề dặt ra cần
phải giải quyết trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tiếp tục khẳng định đường lối phát triển của đất nước. Đại hội XII của Đảng làm rõ thêm

con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; chỉ rõ “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Điểm mới của đại hội
XII về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được thể hiện tập trung vào các vấn đề sau:

Một là, tiếp tục kiên định con đường đi lên của xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hai là, xác định rõ phương châm “ lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm mục tiêu
cao nhất”

Ba là, xác định ngày càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thơng qua việc
xác định lộ trình cơng nghiệp hóa và mơ hình phát triển kinh tế nhằm hướng tới mục tiêu phát
triển nhanh và bền vững ở Việt Nam.

Bốn là, gắn kết chặc chẽ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, giữa phát triển
kinh tế với phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Năm là, về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, Đảng khẳng định việc thực hiện thành
công mục tiêu chủ nghĩa xã hội hơn bao giờ hết, đòi hỏi nhân tố nội lực, vai trò chủ quan mang
tính quyết định. Để làm được điều rất cần tạo dựng mối quan hệ gắn bó khắng khít , bền chặt
giữa Đảng với nhân dân.
Tóm lại, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Để thực hiện
thành công con đường này, về thực tiễn đòi hỏi các cấp, các ngành, cán bộ và nhân dân quán triệt
những quan điểm của Đảng, đồng thuận, chung sức, quyết tâm thực hiện tốt những nhiệm
vụ trước mắt cũng như lâu dài của đất nước.
2.2. Lịch sử phát triển
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta được tiến hành trong điều kiện có những
thuận lợi song khó khăn, thách thức rất lớn. Trong hồn cảnh đó với sự nổ lực của toàn Đảng ,
toàn dân với đường lối đúng đắn, sáng tạo đất nước ta đã giành được nhiều hành tựu to lớn. Đại
hội VII của Đảng (1996) nhận định “... nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội nhưng
còn một số mặt chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thế kỉ quá
độ là chuẩn bị tiền đề cho cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, con đường đi lên của

chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”.
Phát huy những kết quả đạt được trong 5 năm qua (1996 2000) dưới sự lãnh đạo
của Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng mà đại hội IX
của Đảng đã khẳng định. Kinh tế tăng trưởng khá, tổng sản phẩm GDP trong nước tăng ình quân
hằng năm 7% . Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Văn hóa xã hội có những tiến
bộ , đời sống của nhân dân tiếp tục được cải
thiện. Tình hình chính trị xã hội cơ bản được ổn định, quốc phịng , an ninh được
tăng cường. Cơng tác xây dựng , chỉnh đốn Đảng được chú trọng , hệ thống chính trị được
củng cố. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến
hành chủ động và đạt nhiều kết quả. Đạt được những thành tựu trên là do Đảng ta có bản lĩnh
chính trị vững vàng và đường lối lãnh đạo đúng đắn, Nhà nước ta có cố gắn lớn trong việc quản
lý điều hành; toàn dân tộc đã phát huy lịng u nước, tinh thần dũng cảm, đồn kết nhất trí, cần
cù, năng động, sáng tạo. Tuy nhiên , bên cạnh đó chúng ta vẫn cịn có những yếu kém cần được
khắc phục.



22


Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề văn
hóa xã hội bức xúc và gây gắt chậm được giải quyết. Cơ chế chính sách chưa đồng bộ, tình trạng
tham nhũng, suy thối ở một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Đây
là những vấn đề cần phải được nhanh chóng khắc phục để đất nước phát triển bền vững.
Bế tắc về mặt tư tưởng. Thực sự, trong nhiều năm qua, Đảng cộng sản đã thành cơng
trong cơng tác tun truyền nhưng khơng có tiến bộ về nghiên cứu phát triển tư tưởng. Chỉ biết
dùng những kiến thức cũ, về cơ bản là đúng, nhưng ở kỉ ngun mới thì cần nâng cấp mà khơng
nâng cấp nổi. Yếu kém trong công tác tổ chức. Cho nên, khơng có được những người xuất chúng
có đủ tâm+tài+lực chỉ huy lãnh đạo. Thành ra quan liêu, tham nhũng ngày càng nhiều. Lãng
phí ngày càng tăng. Dẫn đến niềm tin của nhân dân ngày càng suy giảm.

Tình hình kinh tế chính trị xã hội mơi trường, khí hậu tồn cầu ngày càng có nhiều diễn
biến bất thường. Các thế lực thù địch không ngừng chống phá. Tinh thần đấu tranh của cán
bộ, đảng viên thực sự là yếu kém đến mức báo động. Vì thế cho nên quan liêu, tham nhũng, lãng
phí ngày càng tăng mà khơng làm sao trị nổi.
Tóm lại: Đảng có được THIÊN THỜI, ĐỊA LỢI nhưng ngày càng yếu về NHÂN HỊA.
"Thiên thời khơng bằng địa lợi, địa lợi khơng bằng lịng dân".
KẾT LUẬN
Nghiên cứu khái niệm và nguồn gốc của triết học cho chúng ta thấy được học thuyết triết học
Mác – Lênin là tinh hoa trí tuệ nhân loại, hiểu được Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung
nhất của con người về thế giới; về vị trí vai trị của con người trong thế giới đó; phản ánh những
mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ phổ biến nhất của hiện thực khách quan. Chúng bao
quát, tác động, chi phối cả thế giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy trí tuệ nhân loại. Triết học
đóng vai trị hạt nhân lý luận của thế giới quan, giữ vai trị định hướng cho q trình củng cố và
phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng người trong lịch sử. Nhưng Triết học
không phải là công cụ giải quyết tất cả mọi vấn đề, ta cần tránh hai thái cực sai lầm là xem
thường triết học và tuyệt đối hóa vai trị của triết học
Triết học giải quyết rất nhiều vấn đề có liên quan với nhau, trong đó vấn đề cực kì quan trọng
và là điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của triết học:
Vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Nghiên cứu vấn
đề cơ bản của triết học cho chúng ta hiểu được sự hình thành các trường phái triết học duy vật và
duy tâm trong lịch sử, cũng như hai phương pháp nghiên cứu đối lập nhau trong lịch sử là
phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng, giúp chúng ta xây dựng được phương pháp
biện chứng trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Với chức năng thế giới quan và phương pháp luận, triết học trở thành công cụ đắc lực trong
hoạt động chế ngự thiên nhiên và sự nghiệp giải phóng con người của những lực lượng xã hội
tiến bộ. Đặc biệt, trong nền kinh tế toàn cầu hóa, bên cạnh giải quyết những vấn đề “mn
thuở”, triết học cịn giúp cho con người tìm ra lời giải đối với những vấn đề hoàn toàn mới, phát
sinh trong q trình tồn cầu hóa. Khơng chỉ giúp con người nhìn nhận đúng đắn về thế giới
quan, nhờ vào triết học, con người cịn có khả năng đánh giá những biến động đang diễn ra, gợi
mở hướng giải quyết, “lối thoát” cho vấn đề mà con người đang gặp phải trong bối cảnh tồn cầu

hóa. Dù là trong q khứ hay ở kỷ ngun tồn cầu hóa, triết học vẫn giữ nguyên vị thế của
mình ở phạm vi một dân tộc và cả nhân loại.

23


Tài liệu kham khảo
1.Giáo trình Những ngun lí của chủ nghĩa Mác-Lênin, NXB Chính trị quốc gia năm 2014
2.Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. CTQG, H.1996, tập.6. tr.515.
3.Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. CTQG, H.1996, tập.7, tr.499.
4.Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb.CTQG, H. 1996, tập.6, tr.365; tập.8, tr.375
5. />6. />
7. />
24


25


×