Giao dịch ký quỹ: Giải pháp tạo tính thanh khoản
cho thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam hiện nay đang trải qua giai đoạn suy
giảm liên tục. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm này, trong đó nguyên
nhân hay được nhắc đến là áp lực giải tỏa chứng khoán do nhà đầu tư đã cầm cố
để vay tiền kinh doanh chứng khoán từ các ngân hàng thương mại (NHTM). Sự
sụt giảm nghiêm trọng của thị trường cho thấy bản chất rủi ro cũng như tính chất
tự phát, thiếu kiểm soát của hoạt động này trên thị trường. Thực ra, mọi vấn đề
đều có tính hai mặt. Cũng có quan điểm cho rằng chính các hoạt động vay và cho
vay chứng khoán để thực hiện giao dịch ký quỹ cần phải được khuyến khích để
thúc đẩy tính thanh khoản của TTCK, khuyến khích các nhà đầu tư tham gia vào
thị trường. Điều quan trọng là phải kiểm soát chặt chẽ để phòng ngừa rủi ro và bảo
vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Tuy nhiên, pháp luật chứng khoán của Việt Nam hiện
nay chưa có hướng dẫn cụ thể về việc cho phép công ty chứng khoán (CtyCK)
triển khai các dịch vụ về giao dịch ký quỹ. Mặc dù Khoản 9, Điều 71 Luật Chứng
khoán đã có quy định theo hướng mở: "CtyCK thực hiện việc bán hoặc cho khách
hàng bán chứng khoán khi không sở hữu chứng khoán và cho khách hàng vay
chứng khoán để bán theo quy định của Bộ Tài chính", tuy nhiên, cho đến nay, vẫn
chưa có hướng dẫn nào của Bộ Tài chính được ban hành.
Giao dịch ký quỹ là giao dịch mua hoặc bán chứng khoán trong đó người mua
hoặc người bán chỉ có một phần tiền hoặc chứng khoán cần thiết, phần còn lại vay
từ CtyCK hoặc các tổ chức tài chính chứng khoán khác. Điều đó có nghĩa là các tổ
chức này đã cấp tín dụng cho khách hàng, giúp khách hàng thanh toán giao dịch.
Có 2 loại giao dịch ký quỹ cơ bản là giao dịch vay mua chứng khoán (margin
buying trading) và bán khống (short selling). Trong giao dịch vay mua chứng
khoán, nhà đầu tư chỉ thanh toán một phần tiền mua, phần còn lại do CtyCK trả.
Thực chất là CtyCK cho khách hàng vay và nhận chính số chứng khoán đã mua
được làm tài sản thế chấp cho khoản vay. Còn bán khống là việc bán chứng khoán
mà mình không sở hữu vào thời điểm giao dịch. Để thực hiện giao dịch này, nhà
đầu tư phải vay chứng khoán để giao trong ngày thanh toán. Như vậy, xét ở một
khía cạnh nhất định, giao dịch bán khống có thể làm tăng giá chứng khoán, bởi vì
nhà đầu tư sau đó phải mua lại chứng khoán để bù vào số chứng khoán đã đi vay
từ CtyCK, khiến giá chứng khoán có thể tăng lên ở mức độ nhất định.
Thực tế, việc cho phép thực hiện các giao dịch ký quỹ đã phổ biến ở hầu hết các
TTCK phát triển với mục đích thúc đẩy giao dịch thị trường và khuyến khích sự
tham gia của nhà đầu tư. Để có thể thực hiện được các giao dịch ký quỹ, vấn đề cơ
bản là phải thừa nhận hoạt động vay và cho vay chứng khoán. Cho vay và vay
chứng khoán là hình thức bù đắp lượng thiếu hụt tại thời điểm thanh toán. Trên thế
giới, hoạt động vay và cho vay chứng khoán đã phát triển hết sức mạnh mẽ trong
thời gian gần đây và góp phần rất lớn vào sự phát triển chung của các TTCK các
nước. Hoạt động này không chỉ dừng lại ở việc tài trợ chứng khoán và tiền để thực
hiện các giao dịch ký quỹ, mà còn phục vụ cho nhiều mục đích khác như: vay
chứng khoán khi có nhu cầu phải giao chứng khoán mà họ chưa mua để thực hiện
hợp đồng phái sinh (ví dụ quyền mua), dùng chứng khoán làm tài sản cầm cố,
hoặc làm đảm bảo cho một giao dịch vay chứng khoán khác, khắc phục sự cố mất
khả năng thanh toán trong hệ thống thanh toán chứng khoán... Khuyến nghị 8 của
nhóm G30 (nhóm G30 thành lập năm 1978, là một tổ chức quốc tế phi lợi nhuận,
bao gồm các đại diện cao cấp từ khu vực tư nhân và nhà nước trong lĩnh vực kinh
tế và tài chính. Nhóm này có mục tiêu nghiên cứu và đưa ra những đề xuất, đánh
giá về các vấn đề kinh tế và tài chính) năm 1989 là: “Cho vay và vay chứng khoán
cần được khuyến khích như một biện pháp thúc đẩy hoạt động thanh toán các giao
dịch chứng khoán. Những quy định hiện nay trong quy chế và pháp luật thuế
không cho phép thực hiện vay và cho vay chứng khoán cần được loại bỏ”. Lời kêu
gọi của nhóm G30 về xóa bỏ những rào cản quản lý và thuế đối với hoạt động cho
vay chứng khoán đã nhận được sự hưởng ứng tích cực trong thập kỷ 90. Trong
những năm qua, Nhật Bản, Australia, Anh, Thụy Sỹ, Italy, Pháp và một số nước
khác đã xóa bỏ những trở ngại pháp lý đối với hoạt động cho vay chứng khoán đối
với cả các chủ thể trong nước và nước ngoài tham gia thị trường.
Hiện nay đang có 2 xu hướng chính tại các TTCK trên thế giới trong việc thành
lập các tổ chức thực hiện các nghiệp vụ vay và cho vay chứng khoán. Đối với một
số quốc gia và vùng lãnh thổ (như: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản...) cơ quan
quản lý TTCK thiết lập hệ thống các Công ty Tài chính Chứng khoán với mục
đích chuyên biệt để thực hiện các nghiệp vụ vay và cho vay chứng khoán nhằm
triển khai các chính sách phát triển thị trường. Ví dụ: tại Đài Loan, ngay khi
TTCK vừa ra đời, năm 1962 một số giao dịch ký quỹ đã được cho phép thực hiện
một cách hạn chế. Tháng 6/1974, theo yêu cầu của công chúng đầu tư về việc mở
rộng hoạt động giao dịch ký quỹ nhằm thúc đẩy sự phát triển của TTCK trong bối
cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Ủy ban Chứng khoán và Hợp đồng tương lai
Đài Loan (TSPC) đã ban hành “Hướng dẫn về hoạt động cho vay để mua chứng
khoán và cho vay chứng khoán của các định chế tài chính”, đồng thời hướng dẫn
Ngân hàng Truyền thông, Ngân hàng Đài Loan và Ngân hàng Đất đai tổ chức thực
hiện các giao dịch ký quỹ. Tháng 8/1979, “Quy chế quản lý ngành Tài chính
Chứng khoán” được ban hành, sau đó, Công ty Tài chính Chứng khoán Fuh-Hwa
được thành lập và đi vào hoạt động ngày 21/4/1980 với tư cách là một tổ chức tài
chính chuyên thực hiện các hoạt động giao dịch ký quỹ chứng khoán. Tháng
1/1990, Luật Chứng khoán và giao dịch chứng khoán được sửa đổi, cho phép các
CtyCK thực hiện vay và cho vay chứng khoán. Kể từ năm 1994, hoạt động tài
chính chứng khoán được mở rộng, TSPC cho phép thành lập hàng loạt Công ty
Tài chính Chứng khoán như Global, Fu Bon, Entie, đánh dấu sự chấm dứt một giai
đoạn ngành tài chính chứng khoán giữ vai trò định hướng chính sách trong lĩnh
vực chứng khoán, chuyển sang giai đoạn kinh doanh trên cơ sở cạnh tranh thực sự.
Giá trị giao dịch ký quỹ trên tổng giá trị giao dịch toàn thị trường tăng mạnh, từ
14,87% năm 1990 lên trên 38,29% năm 2001. Hoặc tại Hàn Quốc, sau chiến tranh
Triều Tiên, Hiệp hội Kinh doanh Chứng khoán Hàn Quốc thành lập Công ty Tài
chính Chứng khoán Hàn Quốc như một biện pháp giải quyết khó khăn tài chính
của các CtyCK và thúc đẩy giao dịch chứng khoán. Sau khi Luật Chứng khoán và
Giao dịch chứng khoán được ban hành năm 1962, Công ty Tài chính Chứng khoán
Hàn Quốc tập trung vào hoạt động giao dịch ký quỹ và cho vay có bảo đảm bằng
chứng khoán nhằm thực hiện mục tiêu phát triển và bình ổn TTCK. Công ty Tài
chính Chứng khoán Hàn Quốc là một tập đoàn trong đó cổ đông là các CtyCK,
ngân hàng, tổ chức liên quan đến chứng khoán, công ty bảo hiểm, các cá nhân.
Mục tiêu hoạt động chính của Công ty Tài chính Chứng khoán Hàn Quốc không
phải là kinh doanh mà là hỗ trợ giao dịch thị trường, bình ổn giá cả chứng khoán.
Tại Nhật Bản, nhiều Công ty Tài chính Chứng khoán đã được thành lập sau Chiến
tranh Thế giới lần thứ II bằng cách chuyển đổi các CtyCK hiện tại nhằm mục đích
ổn định và tăng cường hoạt động của các CtyCK thông qua việc cung cấp các
khoản vay để thực hiện giao dịch ký quỹ. Sau khi Luật Chứng khoán và Giao dịch
Chứng khoán được sửa đổi năm 1955, các Công ty Tài chính Chứng khoán thành
lập phải được Bộ Tài chính cấp phép. Sau thời gian này, 9 Công ty Tài chính
Chứng khoán đã được sáp nhập thành 3 công ty để tăng cường chức năng tài chính
chứng khoán, đó là Công ty Tài chính Chứng khoán Nhật Bản (vốn điều lệ 10 tỷ
Yên), Công ty Tài chính Chứng khoán Osaka (vốn điều lệ 3,5 tỷ Yên) và Công ty
Tài chính Chứng khoán Chubu (vốn điều lệ 200 triệu Yên) (tính đến tháng
6/2003).
Đặc thù của hệ thống các Công ty Tài chính Chứng khoán tại các nước này là
không đặt ra mục tiêu kinh doanh mà chủ yếu nhằm mục tiêu bình ổn giá cả và
phát triển TTCK thông qua việc hỗ trợ các giao dịch chứng khoán. Việc thành lập
các Công ty Tài chính Chứng khoán theo mô hình này đáp ứng được nhu cầu thúc
đẩy hoạt động giao dịch của thị trường, song vẫn đảm bảo khả năng quản lý chặt
chẽ để giảm thiểu khả năng rủi ro, đặc biệt là với các thị trường mới thành lập do
vay và cho vay chứng khoán về bản chất là các giao dịch phức tạp và ẩn chứa
nhiều rủi ro nếu hệ thống quản lý thị trường không đủ hiệu quả.
Đối với một số nước (như Mỹ) không có các tổ chức chuyên doanh lĩnh vực tài
chính chứng khoán mà rất nhiều tổ chức tài chính như NHTM, nhà môi giới chứng
khoán... được phép tham gia vào hoạt động này như là một trong các nghiệp vụ
kinh doanh. Trước năm 1920, không có quy định nào điều chỉnh hoạt động tài
chính chứng khoán phục vụ cho giao dịch ký quỹ. Sau cuộc đại suy thoái năm
1929, vấn đề này mới được pháp luật Mỹ đặt dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt để
ngăn ngừa các tổ chức tài chính cho vay quá mức. Hiện nay, hoạt động tài chính
chứng khoán chịu sự điều chỉnh của Quy chế của Cục Dự trữ liên bang. Tuy nhiên,
hoạt động vay và cho vay chứng khoán của các tổ chức này cũng được kiểm soát
nghiêm ngặt để ngăn ngừa tình trạng cho vay quá mức, dẫn đến rủi ro hệ thống.
Cho dù thực hiện theo mô hình nào thì hoạt động này đều có một điểm chung là:
vì đây là các hoạt động giao dịch phức tạp và ẩn chứa nhiều rủi ro nên thường chịu
sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật và thường bị hạn chế đối với các TTCK mới
thành lập. Ví dụ, tại Trung Quốc, dù TTCK đã hình thành từ lâu nhưng mãi đến
ngày 1/8/2006, Ủy ban Giám quản Chứng khoán Trung Quốc mới thông qua quy
chế cho phép thực hiện giao dịch ký quỹ và bán khống thông qua các CtyCK và
trong giai đoạn đầu, hoạt động kinh doanh này chỉ được thực hiện tại một số
CtyCK nhất định. Đó cũng là lý do khiến giao dịch vay và cho vay chứng khoán
chưa được công nhận chính thức ở Việt Nam trong thời gian qua. Giao dịch vay và
cho vay chứng khoán chỉ mới được thừa nhận một cách rất hạn chế dưới hình thức
hỗ trợ chứng khoán cho các giao dịch tạm thời mất khả năng thanh toán của các
thành viên (nhằm khắc phục lỗi giao dịch do thành viên gây ra, ví dụ nhập nhầm
lệnh mua thành lệnh bán, dẫn đến hậu quả không có chứng khoán để giao) hoặc sử
dụng chứng khoán vào mục đích cầm cố để vay tiền của các tổ chức tín dụng
nhằm tiếp tục đầu tư vào chứng khoán. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thị