VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TIỄN HÙNG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TIẾN HÙNG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐINH THỊ MAI
HÀ NỘI – 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu, tư liệu
trong Luận văn có nguồn gốc rõ ràng và trung thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn
chưa từng được công bố trong các cơng trình khác.
Hà Nội, ngày
tháng 3 năm 2021
Tác giả luận văn
Nguyễn Tiến Hùng
MỤC LỤC
Mở đầu
Chương I: Một số vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội
1.1. Khái niệm và đặc điểm của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội
1.2. Các nguyên tắc xét xử sơ thẩm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội
Chương II: Thực trạng pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
2.1. Thực trạng pháp luật hiện hành về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với dưới 18 tuổi
phạm tội của Tòa án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm đối với người dưới
18 tuổi phạm tội tại tỉnh Bắc Ninh
3.1 Các giải pháp hồn thiện pháp luật nói chung về xét xử sơ thẩm đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội.
3.2. Đề xuất các giải pháp cụ thể tại tỉnh Bắc Ninh.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCT
: Bộ Chính trị
BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
BVTE
: Bảo vệ trẻ em
CTKGG
: Cải tạo không giam giữ
ĐCS
: Đảng cộng sản
HĐTP
: Hội đồng thẩm phán
HĐXX
: Hội đồng xét xử
KSV
: Kiểm sát viên
LTE
: Luật Trẻ em
NCTN
: Người chưa thành niên
ND18T
: Người dưới 18 tuổi
ND18TPT : Người dưới 18 tuổi phạm tội
QCN
: Quyền con người
QĐHP
: Quyết định hình phạt
QTE
: Quyền Trẻ em
TAND
: Tồ án nhân dân
THTT
: Tiến hành tố tụng
TTLT
: Thơng tư liên tịch
VAHS
: Vụ án hình sự
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
XXPT
: Xét xử phúc thẩm
XXST
: Xét xử sơ thẩm
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Biểu 1. Thống kê số liệu ngành Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm
người dưới 18 tuổi phạm tội, từ năm 2016 đến năm 2020.
Biểu 2. Thống kê số liệu xét xử sơ thẩm người dưới 18 tuổi phạm tội theo nhóm
tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự 2015.
Biểu 3. Các hình phạt được Tịa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh áp dụng
trong xét xử sơ thẩm người dưới 18 tuổi phạm tội.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Hội nghị giới thiệu dự án “Luật Bảo vệ người dưới 18 tuổi trong hoàn cảnh
pháp lý đặc biệt”, ngày 29 tháng 4 năm 2020 do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức,
đồng chí Nguyễn Hịa Bình - Ủy viên Ban Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng,
Bí thư Ban cán sự Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, đã nêu trong những năm
gần đây, mặc dù Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em, người chưa thành niên. Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động của
Tịa án, đặc biệt là qua cơng tác giám sát tối cao của Quốc hội thời gian qua cho thấy,
tình trạng xâm hại trẻ em, số vụ án ly hôn, cũng như tình trạng trẻ em vi phạm pháp
luật, nghiện ma túy và các chất kích thích khác ... diễn biến hết sức phức tạp và có
chiều hướng gia tăng, với tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày càng cao. Đó
là thực trạng đáng báo động, vì tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện đang là nỗi
đau của gia đình và là vấn đề nhức nhối của xã hội. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chính sách, giải pháp được thực hiện thông qua nhiều cấp, nhiều
ngành nhằm tuyên truyền giáo dục, hạn chế và ngăn chặn. Một trong những giải pháp
đó là nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và
hoạt động xét xử của Tòa án đối với các vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi nói
riêng. Việc áp dụng pháp luật khi xét xử sơ thẩm VAHS đối với ND18TPT là một vấn
đề phức tạp, phân tích đúng tính chất, mức độ lỗi của hành vi phạm tội để áp dụng
đúng pháp luật là vấn đề khơng đơn giản. Thực tế có nhiều vụ án đã đưa ra xét xử
nhưng còn gây băn khoăn trong dư luận xã hội, thậm chí kháng cáo, kháng nghị kéo
dài, dư luận xã hội có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Tình hình đó địi hỏi, phải nghiên
cứu cả về lý luận cũng như thực tiễn trong hoạt động xét xử đối với đối tượng đặc
biệt này.
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng Bắc bộ có diện tích tự nhiên nhỏ
nhất cả nước, điều kiện địa lý thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, là một trong
những tỉnh có mật độ dân cư cao. Trong những năm vừa qua hịa chung cơng cuộc đổi
mới hội nhập phát triển của cả nước, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh đã có
những bước phát triển tích cực, nhiều khu kinh tế, khu cơng nghiệp được hình thành,
thu hút nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn đầu tư, đặc biệt là doanh nghiệp FDI. Tuy
nhiên mặt trái của nền kinh tế thị trường đã nảy sinh nhiều hành vi phạm tội mới,
trong đó tội phạm do bị cáo là người dưới 18 tuổi gây ra có những diễn biến hết sức
phức tạp, những hành vi trên không chỉ diễn ra ở thành thị mà nó đã lan rộng ra địa
bàn nơng thơn. Số lượng người dưới 18 tuổi phạm tội năm sau cao hơn năm trước,
tính chất mức độ hành vi phạm tội ngày càng nghiêm trọng hơn. Nhận thức rõ được sự
ảnh hưởng của hoạt động xét xử đối với đấu tranh phòng chống tội phạm trên thực
tiễn, ngành Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã chú trọng hơn đối với công tác xét xử
người dưới 18 tuổi phạm tội. Đa số Thẩm phán được giao nhiệm vụ xét xử người dưới
18 tuổi phạm tội đều cố gắng hết mình trong việc trau dồi trình độ chun mơn nghiệp
vụ, bổ sung kiến thức về tâm sinh lý người người dưới 18 tuổi, đồng thời nghiên cứu
kỹ các quy định của pháp luật để có thể áp dụng đúng hình phạt, các biện pháp tư
pháp khác đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như chính sách hình sự đã quy định.
Tuy nhiên, trên thực tiễn xét xử các vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
việc áp dụng pháp luật còn chưa đồng bộ và còn nhiều lúng túng khi áp dụng các biện
pháp tư pháp như đưa vào trường giáo dưỡng theo quy định tại khoản 3 Điều 70
BLHS 2015 [38]. Khi áp dụng các biện pháp này thì nhiều thẩm phán cịn lúng túng
và áp dụng pháp luật chưa đúng quy định do điều luật khơng quy định rõ các tiêu chí
đánh giá tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Mặt khác khi xét xử thì quy
định nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là khi áp dụng hình phạt
đối với họ thì cần hạn chế áp dụng hình phạt tù. Ở một số Tịa án nhân dân cấp huyện
của tỉnh Bắc Ninh hoạt động xét xử sơ thẩm đối với các tội phạm do người dưới 18
tuổi gây ra còn bộc lộ những bất cập, hạn chế, quyền của ND18PT có lúc, có nơi chưa
được tơn trọng và bảo vệ, tác dụng giáo dục, phòng ngừa tội phạm đạt hiệu quả chưa
cao.
Trước những đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm do
người dưới 18 tuổi thực hiện, việc nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện vấn
đề áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội của ngành TAND tỉnh Bắc Ninh trở nên cấp bách mà kết quả của nó sẽ có ý
nghĩa sâu sắc cả về lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật. Do vậy, học viên
chọn đề tài “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ
thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”, làm luận văn thạc sỹ luật học của mình, là đảm bảo tính
cấp thiết, thời sự, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, các đề tài khoa học, bài viết, cơng trình nghiên cứu liên
quan đến tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội đã được công bố trên các báo, tạp
chí, trong các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Tiếp tục kế thừa và phát triển những kết
quả nghiên cứu trên, học viên tiếp cận dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp
luật để nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về: Xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của ngành TAND tỉnh Bắc Ninh
hiện nay, có thể kể đến một số cơng trình:
- Luận án Tiến sĩ: “ Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN theo pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Trần Hưng Bình, Viện Hàn lâm khoa học xã
hội Việt Nam - 2013 [4].
- Luận án Tiến sĩ luật học: “Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên
phạm tội ở Việt Nam hiện nay”, của tác giả Hoàng Minh Đức, Viện Hàn lâm khoa học
xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2016 [15].
- Luận án Tiến sĩ luật học: “Chính sách pháp luật tố tụng hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội”, của tác giả Huỳnh Thị Kim Ánh, Viện Hàn lâm khoa học xã
hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội - 2020 [2].
- Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm người
chưa thành niên phạm tội - qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa”, của tác giả Lê Anh Xuân,
Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật - 2014 [71].
- Luận văn Thạc sĩ luật học: “Xét xử vụ án có bị cáo là NCTN theo luật Tố tụng
hình sự Việt Nam”, của tác giả Đỗ Xuân Hồng, Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật 2014 [21].
- Luận văn Thạc sĩ luật học: “Miễn, giảm trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội”, của tác giả Nguyễn Hữu Kỳ, Viện Hàn lâm khoa học xã
hội Việt nam, Học Viện Khoa học Xã hội -2014 [22]
- Luận văn Thạc sĩ luật học: “Xét xử sơ thẩm VAHS của NCTN phạm tôi, từ thực
tiễn thành phố Đà Nẵng”, của tác giả Trần Thị Tuyết Nhung, Viện hàn lâm khoa học
xã hội Việt Nam - 2016 [32]
- Luận văn Thạc sĩ luật học: “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người
chưa thành niên, từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa”, của tác giả Lê Văn Hòa, Viện hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, năm 2016 [19]
- Luận văn Thạc sĩ luật học: “Áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
đối với người chưa thành niên phạm tội, qua thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ
An”, của tác giả Trần Huy Long, Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật, 2017 [29]
- Luận văn Thạc sĩ luật học: “ Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là ND18T”,
của tác giả Nguyễn Thị Tú An, trường Đại học quốc gia Hà Nội - 2017 [1]
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Thủ tục xét xử sơ thẩm đối với bị cáo là người
dưới 18 tuổi, trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh”, của tác giả Nguyễn Thị Bích
Đào, Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật - 2017 [14].
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Áp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”, của tác giả Phạm Minh Vương,
Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội - 2017 [70].
- Luận văn Thạc sỹ: “Thủ tục xét xử sơ thẩm VAHS mà bị cáo là ND18T theo PL
tố tụng hình sự Việt Nam, từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, của tác giả Phạm
Hồng Khải, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - 2017 [23].
- Luận văn Thạc sỹ: “Phiên tòa xét xử sơ thẩm VAHS mà bị cáo là ND18T theo
PL tố tụng hình sự Việt Nam, từ thực tiễn quận 7, thành phố Hồ Chí Minh”, của tác
giả Lê Thị Phơ, Viện hàn lâm, Khoa học xã hội Việt Nam - 2017 [34].
- Luận văn Thạc sỹ: “Thủ tục xét xử sơ thẩm VAHS mà bị cáo là ND18T theo PL
luật tố tụng hình sự Việt Nam, từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, của tác giả Bùi Thị
Dung, Viện hàn lâm, Khoa học xã hội Việt Nam - 2017 [13].
- Luận văn Thạc sỹ: “Xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo là ND18T”, của tác
giả Hoàng Thị Bích Hằng, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - 2018 [16].
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Bào chữa chỉ định theo PL tố tụng hình sự Việt
Nam cho ND18TPT từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, của tác giả Trương Minh
Hiếu, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - 2018 [18].
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “ Quyền của bị cáo là ND18T từ thực tiễn xét xử
tại thành phố Hà Nội”, của tác giả Phạm Thị Thanh Nga, Viện Hàn lâm khoa học xã
hội Việt Nam - 2018 [31].
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Cà Mau”,
của tác giả Lê Văn Sơn, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - 2018 [46].
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Thủ tục xét xử sơ thẩm VAHS đối với bị cáo dưới
18 tuổi từ thực tiễn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh”, của tác giả Dương Thị
Ngọc Lữ, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - 2018 [30].
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “ Nguyên tắc phân hóa TNHS đối với ND18TPT
trong PL hình sự Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Trường Xuân, Viện Hàn lâm khoa
học xã hội Việt Nam - 2018 [72].
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Xét xử sơ thẩm VAHS đối với ND18TPT theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hóc Mơn, thành phố Hồ Chí Minh”,
của tác giả Nghiêm Đình Pháp, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - 2019 [33].
- Luận văn Thạc sỹ: “TNHS đối với ND18TPT từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”,
của tác giả Từ Văn Hoàng Lĩnh, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - 2019 [28].
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Xét xử sơ thẩm VAHS đối với ND18TPT từ thực
tiễn tỉnh Bắc Ninh”, của tác giả Hoàng Thị Anh Thơ, Viện Hàn lâm khoa học xã hội
Việt Nam - 2020 [47].
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Thủ tục xét xử sơ thẩm VAHS đối với ND18TPT từ
thực tiễn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi”, của tác giả Đinh Văn Bim, Viện
Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - 2020 [5].
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị
cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam”,
của tác giả Trịnh Thị Thúy Vân, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện
khoa học xã hội - 2020 [67].
- Luận văn Thạc sỹ luật học: “Bảo đảm quyền của người dưới người dưới 18
tuổi phạm tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn quận thủ Đức, thành phố
Hồ Chí Minh”, của tác giả Nguyễn Thị Hiền, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt
Nam, Học viện khoa học xã hội - 2020 [17].
Ngoài ra để hoàn thiện đề tài: “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”, học viên còn tham khảo và
nghiên cứu một số Sách tham khảo và những bài viết trên các tạp chí chuyên đề.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu cơ sở lý luận về xét xử sơ thẩm đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội; Đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả nhằm
đảm bảo áp dụng đúng quy định trong quá trình xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội
của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu theo đề tài luận văn đặt ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội, cụ thể:
- Nghiên cứu, đánh giá những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật liên quan
đến hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Nghiên cứu các quy định trong BLTTHS năm 2015 liên quan đến xét xử sơ
thẩm VAHS đối với ND18TPT.
- Đánh giá một cách khách quan, toàn diện về thực trạng hoạt động xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của TAND hai cấp tỉnh Bắc
Ninh. Nêu lên những quan điểm và đề xuất những giải pháp có tình khả thi đảm bảo
tính đúng đắn trong q trình áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội trong giai đoạn hiên nay của TAND 2 cấp tỉnh Bắc Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận, các quan điểm của một số nhà khoa học đối với
công tác xét xử sơ thẩm VAHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Tập trung nghiên cứu về các quy định của pháp luật hình sự liên quan đến xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Việc nghiên cứu các bản án, quyết định hình sự sơ thẩm của ngành Tịa án tỉnh
Bắc Ninh, giúp cho việc đánh giá chất lượng, tính đúng đắn của các bản án.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi là một luận văn thạc sĩ luật học thuộc chuyên ngành Luật hình sự
và tố tụng hình sự, luận văn sẽ đi sâu vào nghiên cứu thực trạng áp luật hình sự quy
định về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm và thực trạng
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của ngành Tòa án
nhân dân tỉnh Bắc Ninh cụ thể như sau:
- Về không gian: Địa bàn của tỉnh Bắc Ninh.
- Về thời gian: Từ năm 2016 đến năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp lý luận được đúc kết từ những thành quả nghiên cứu của các nhà
khoa học liên quan đến Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự; Tư duy triết học của
chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước
ta về nhà nước và pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm, đặc biệt là người
dưới 18 tuổi phạm tội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Học viên sử dụng phương pháp hệ thống, so sánh, tổng hợp cùng hợp với
phương pháp sử dụng quan điểm nhà khoa học và chuyên gia để lựa chọn vấn đề kinh
nghiệm thực tiễn cũng như lý luận khoa học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm
tư liệu tham khảo phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt
động xét xử sơ thẩm đối với những vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi của hệ
thống TAND nói chung và ngành TAND tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Bên cạnh đó, luận
văn cịn là tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu những vấn đề
liên quan đến hoạt động xét xử; xây dựng kỹ năng nghề nghiệp, thao tác nghiệp vụ
cho cán bộ làm công tác xét xử trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện
nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh;
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm đối với người dưới 18
tuổi phạm tội tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm và đặc điểm của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Có quan điểm cho rằng “Xét xử’, là sự xem xét và phân xử của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền. Cịn theo từ điển Tiếng Việt thì “xét xử” là việc xét tội lỗi rồi
phân xử [66]. Nói tóm lại “xét xử” là việc một người hoặc một số người được Nhà
nước giao nhiệm vụ xem xét hành vi trái quy định của pháp luật của một người hoặc
một số người để xác định tội lỗi và đưa ra phán quyết.
Thông qua Hiến pháp, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã giao
quyền được xét xử cho cơ quan Tòa án nhân dân, mà cụ thể tại khoản 1 Điều 102
Hiến pháp năm 2013 đã quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”
Cũng theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức tòa án nhân dân năm
2014, thì Tịa án nhân dân ngồi việc thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án hình sự,
Tịa án nhân dân còn thực hiện nhiệm vụ giải quyết những vụ việc khác (trong đó các
vụ việc dân sự và hơn nhân gia đình có thể được giải quyết bằng quyết bằng xét xử
hoặc bằng hòa giải ...). Nhưng riêng đối với việc giải quyết vụ án hình sự, thì Tịa án
nhân phải đưa vụ án ra xét xử. Vì theo quy định tại Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 quy định: Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được
chứng minh theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định và có bản án kết tội của
TAND có hiệu lực pháp luật thi hành [41].
Để có bản án kết tội (bản án hình sự) của Tịa án có hiệu lực pháp luật, Tòa án
nhân dân phải thực hiện xét xử vụ án hình sự theo một trình tự thủ tục tố tụng được
BLTTHS 2015 quy định. Với mục đích để vụ án hình sự được xét xử đúng người,
đúng tội, đúng quy định của pháp luật, không làm oan, bỏ lọt tội phạm. Bộ luật tố tụng
hình sự đã quy định rất nhiều các nguyên tắc trong xét xử vụ án hình sự, trong đó có
ngun tắc: Chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm được bảo đảm, được quy định tại
Điều 27 BLHS năm 2015 [38].
Tại khoản 1 Điều 27 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành, ghi rõ: Chế độ
XXST, XXPT được bảo đảm: Bản án, quyết định sơ thẩm của TAND có thể bị kháng
cáo, kháng nghị theo quy định của BLTTHS. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị
kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do BLTTHS quy định thì có hiệu lực pháp luật.
Bán án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì VAHS phải được XXPT.
Bản án, quyết định phúc thẩm của tịa án có hiệu lực PL [41].
Hiểu theo quy định tại khoản 1 Điều 27 BLTTHS 2015 nêu trên, thì xét xử sơ
thẩm VAHS là xét xử VAHS lần đầu, còn xét xử phúc thẩm là xét xử lần hai (lần sau).
Tóm lại, theo học viên thì khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: “Là việc Tịa
án nhân dân thực hiện xét xử vụ án lần đầu tiên để buộc tội người (hoặc pháp nhân)
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự, được Bộ luật hình sự coi là tội phạm”
Mặc dù vậy khái niệm này chỉ đúng với trường hợp VAHS được khởi tố, điều
tra, truy tố, XXST và tuyên án. Kết quả bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng
nghị và có hiệu lực thi hành; Còn nếu trong trường hợp VAHS bị Tòa án cấp trên xét
xử, tuyên hủy án để điều tra, truy tố, xét xử, theo các Điều 358, 391 và 402 BLTTHS
2015 [41], thì lúc đó việc xét xử sơ thẩm khơng còn là xét xử lần đầu tiên nữa.
1.1.2. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội
Mặc dù Bộ luật hình sự Việt Nam 2015 chưa quy định về khái niệm, về định
nghĩa hay giải thích thế nào là người dưới 18 tuổi phạm tội. Nhưng tại BLHS 2015
Phần chung. Chương XII: Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; Mục
1: Quy định chung về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (trong đó quy
định các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội; các biện pháp phi hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; vấn đề hình phạt, quyết định hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội và các vấn đề khác có liên quan); Đặc biệt là tại Điều 90
BLHS 2015 về: Áp dụng Bộ luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, đã quy
định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo những
quy định của Chương này [38].
Tại Điều 12 BLHS 2015 cũng quy định, cụ thể như sau:
Đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên phạm tội thì phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm: tội cố ý cũng như tội vô ý; tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội
rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng trừ những tội phạm mà BLHS quy định
chủ thể của tội phạm đó là người đủ 18 tuổi trở lên. Tuy nhiên, người dưới 18 tuổi
phạm tội được hưởng chính sách hình sự giảm nhẹ theo những quy định của Chương
XII BLHS 2015 [38]
Đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phạm tội chỉ phải chịu
TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định
tại một trong các Điều luật đã được giới hạn tại khoản 2 Điều 12 BLHS.
Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chuẩn bị phạm tội chỉ phải
chịu TNHS đối với hành vi chuẩn bị phạm 02 tội danh được quy định tại Điều 123,
168 BLHS (khoản 3 Điều 14 BLHS năm 2015).
Bộ luật tố tụng hình sự 2015, cũng giành Chương XXVIII với 17 Điều luật, từ
Điều 413 đến Điều 430 để quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi.
Ngồi ra thì Người dưới 18 tuổi theo quy định của Bộ luật dân sự 2015, Điều 21
quy định về người chưa thành niên thì: NCTN là người chưa đủ 18 tuổi.
Như vậy theo BLDS Việt Nam hiện hành thì: ND18T là người phát triển chưa
đầy đủ về thể chất và tinh thần [36];
Cịn theo Cơng ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em em (Việt Nam phê
chuẩn ngày 20 tháng 2 năm 1990) thì: Trẻ em có nghĩa là người chưa đủ 18 tuổi, trừ
trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn [25]
Về quy tắc phòng ngừa ND18TPT được Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14
tháng 12 năm 1990, cho dù chưa đưa ra khái niệm rõ ràng về ND18TPT nhưng thông
qua các quy định cũng giúp học viên hiểu NCTN là ND18T [26].
Cùng với sự phát triển của mỗi Quốc gia khác nhau, nên cũng đưa ra khái niệm
không giống nhau về ND18T. Công ước về Quyền trẻ em không áp đặt cho các nước
là thành viên tham gia quy định về độ tuổi cho ND18T, cho đến thời điểm hiện tại các
văn bản pháp luật quy định về QTE cũng chưa thống nhất.
Tựu chung, có thể thống nhất một quan điểm là “Người chưa thành niên là người
chưa đủ mười tám tuổi”. Hồn tồn phù hợp với Cơng ước quốc tế về quyền trẻ em
mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và được Việt Nam phê
chuẩn ngày 20/2/1990 [25].
Tóm lại, theo học viên khái niệm về người dưới 18 tuổi phạm tội: “Là người từ
đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi vi phạm pháp luật hình sự bị Viện kiểm sát ra quyết
định truy tố và bị Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử về một tội phạm hình sự
theo quy định của pháp luật”.
Từ phân tích ở mục 1.1.1 và 1.1.2 của luận văn, theo học viên khái niệm xét xử
sơ thẩm VAHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam:
“Là việc Tịa án quyết định đưa vụ án hình sự người từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm
tội bị Viện kiểm sát truy tố ra xét xử lần thứ nhất theo trình tự, thủ tục đặc biệt nhằm
đảm bảo sự khách quan, toàn diện và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của bị cáo dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử”.
1.1.3. Đặc điểm của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
1.1.3.1. Khi xét xử phải có người bào chữa
Cũng giống như quy định về việc phải có người bào chữa khi bị can, bị cáo
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng (trong mọi trường hợp dưới 18 tuổi cũng như trên 18
tuổi phạm tội). Thì khi tiến hành các hoạt động tố tụng (khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử) đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, bất kể là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đều cần
phải có sự tham gia của người bào chữa, nhất là trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
1.1.3.2. Các chủ thể tiến hành tố tụng phải có trình độ hiểu biết về tâm lý người
dưới 18 tuổi phạm tội
Người dưới 18 tuổi nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng đều có
đặc điểm tâm sinh lý, cũng như trình độ, khả năng nhận thức pháp luật còn hạn chế.
Do vậy các thành viên HĐXX (gồm Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân) và Kiểm sát
viên (bên buộc tội) được phân công nhiệm vụ đều phải là người đã được đào tạo hoặc
có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử VAHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội,
có hiểu biết cần thiết về tâm lý tội phạm của người dưới 18 tuổi.
1.1.3.3. Việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
được tiến hành theo thủ tục tố tụng đặc biệt
Ngoài việc phải đảm bảo tuân thủ những quy định của pháp luật hình sự trong
điều tra, truy tố, xét xử VAHS nói chung. Khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội, TAND phải tuân thủ đúng các quy định tại Chương XII
BLHS 2015 [38]: Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Và tuân thủ
các trình tự, thủ tục được quy định tại phần thứ 7: Thủ tục đặc biệt, Chương XXVIII:
Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi BLTTHS 2015 [41]
1.1.3.4. Đường lối xét xử sơ thẩm VAHS đối với D18TPT chủ yếu giáo dục, cải
tạo ND18TPT thành cơng dân có ích cho xã hội
Việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn chỉ được áp dụng trong trường hợp thật sự
cần thiết, cịn lại các hình phạt áp dụng đối với ND18TPT được ưu tiên áp dụng là
hình phạt khơng tước tự do hoặc các biện pháp tư pháp. Ngoài ra khi xét xử sơ thẩm
VAHS đối với ND18TPT, để đảm bảo quyền giữ bí mật thơng tin, tránh những tác
động tiêu cực đối với ND18TPT, BLTTHS quy định trong trường hợp cần thiết thì
Tịa án có thể xét xử kín VAHS đối với ND18TPT và không buộc phải công bố bản
án trên cổng thông tin điện tử.
1.2. Các nguyên tắc xét xử sơ thẩm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
1.2.1. Các nguyên tắc áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015 đối với người dưới
18 tuổi phạm tội
Tại Điều 91 BLHS năm 2015 quy định một số nguyên tắc khi xét xử vụ án hình
sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau:
1.2.1.1. Khi xét xử, Tịa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện
pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng
quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phịng ngừa. Căn
cứ các quy định nêu trên, có thể hiểu TAND chỉ áp dụng hình phạt đối với ND18TPT
nếu xét thấy việc miễn TNHS sự hoặc áp dụng một trong các biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn, tại trường giáo dưỡng khơng có hiệu quả. Cho nên, trước khi Hội
đồng xét xử áp dụng hình phạt đối với ND18TPT thì phải áp dụng các biện pháp
khơng phải là hình phạt trước. Nhưng trên thực tế HĐXX chỉ cân nhắc và xem xét
tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân ND18TPT, các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với ND18TPT để xem xét, quyết định có cần thiết
phải áp dụng hình phạt hay chỉ cần áp dụng các biện pháp giáo dục tại trường giáo
dưỡng.
1.2.1.2. Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với ND18TPT. Đó là
ngun tắc xét xử, và là căn cứ quyết định hình phạt đối với ND18TPT được quy định
ở tất cả các BLHS. Điều đó khẳng định quan điểm của Đảng và Nhà nước, khơng áp
dụng các hình phạt tử hình, chung thân đối với ND18TPT; Đồng nghĩa với việc áp
dụng nguyên tắc khơng lấy trừng trị là mục đích của hình phạt đối với ND18TPT.
1.2.1.3. Tịa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác khơng có tác dụng răn
đe, phịng ngừa.
Khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn, Hội đồng xét xử cho ND18TPT được
hưởng mức hình phạt nhẹ hơn mức hình phạt đối với người trên 18 tuổi phạm tội
tương ứng và thấp nhất trong khung hình phạt quy định và khơng áp dụng hình phạt
bổ sung đối với ND18TPT.
Các quy định nên trên và là nguyên tắc xử lý (được quy định trong khoản 4 Điều
91 BLHS), vừa là căn cứ để áp dụng hình phạt đối với ND18TPT.
Khi so sánh quý định nêu trên giữa Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành với các
Bộ luật hình sự trước đấy, học viên nhận thấy BLHS 2015 đã quy định cụ thể trường
hợp phải áp dụng hình phạt tù đối với ND18TPT. Trong khi ở Bộ luật hình sự năm
2009 chỉ quy định chung chung về việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn trường hợp
bị cáo là người chưa thành niên. Dẫn đến nhiều Hội đồng xét xử đã xử phạt tù đối với
người chưa thành niên trong khi vẫn cịn có thể áp dụng các hình phạt khác.
Tại Bộ luật hình sự hiện hành, các nhà làm luật đã lược bỏ nội dung: Không áp
dụng hình phạt tiền đối với NCTN phạm tội ở độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi, được
quy định tại khoản 5 Điều 69 Bộ Luật hình sự năm 2009. Mặc dù ở cả hai Bộ luật
hình sự nêu trên đều thể hiện nội dung quy định: Tùy trong từng trường hợp mà được
coi là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung. Nhưng tại Bộ luật hình sự năm 2015 đã
xác định rõ chỉ áp dụng hình phạt Tiền khi ND18TPT có thu nhập hoặc có tài sản
riêng.
1.2.1.4. Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì khơng tính để
xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Tại khoản 7 Điều 91 Bộ luật hình sự
2015 cũng như khoản 6 Điều 69 Bộ luật hình sự năm 2009 đều quy định rõ nội dung
khơng được áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tái phạm hoặc tái phạm
nguy hiểm đối với người dưới 16 tuổi phạm tội. Việc quy định cụ thể nêu trên đã thể
hiện rõ quan điểm các nhà làm luật: Khơng coi việc trừng trị là mục đích đối với
người dưới 16 tuổi mà tạo điều kiện cho người phạm tội là người dưới 16 tuổi có
nhiều cơ hội để phát triển bình thường trong cuộc sống sau khi thực hiện hành vi
phạm tội.
1.2.2. Các nguyên tắc tiến hành tố tụng trong xét xử người dưới 18 tuổi
1.2.2.1. Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ
trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi phạm tội; bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi phạm tội; bảo đảm lợi ích tốt nhất của
người dưới 18 tuổi phạm tội
Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm
sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ còn hạn chế, nguyên nhân và
điều kiện dẫn đến ND18TPT phần lớn do môi trường sống của họ, trong đó có một
phần trách nhiệm lớn của gia đình và xã hội. Chính vì vậy, việc xét xử ND18TPT chủ
yếu là nhằm giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng các qui tắc của cuộc
sống xã hội xã hội chủ nghĩa, giúp cho ND18TPT có cơ hội sửa chữa sai lầm, phát
triển lành mạnh và trở thành người có ích cho xã hội. Nguyên tắc này đúng với quy
định tại Điều 40 Công ước Quốc tế về QTE [25].
Cho nên để đảm bảo phiên tòa thân thiện đối với ND18TPT, Ngành Tòa án đã
ban hành: Thông tư 01, ngày 28 tháng 7 năm 2017 và Thông tư 02, ngày 21 tháng 9
năm 2018, quy định chi tiết việc xét xử VAHS đối với ND18TPT thuộc thẩm quyền
của Tịa Gia đình và người chưa thành niên tại Phòng xét xử thân thiện [61, 62].
Bên cạnh đó thì khi xét xử VAHS có ND18TPT thì Thẩm phán phải là người có
kinh nghiệm xét xử các VAHS liên quan đến ND18TPT hoặc đã được đào tạo, tập
huấn, bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết VAHS có bị cáo là ND18TPT hoặc đã được
đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với ND18TPT và
phải có 01 Hội thẩm là giáo viên, cán bộ Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý ND18TPT.
1.2.2.2. Bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi phạm tội
Bảo vệ bí mật đời tư của người dưới 18 tuổi, là vấn đề hết sức quan trọng nhưng
có một số trường hợp Tịa án đã đưa ra xét xử lưu động VAHS đối với người dưới 18
tuổi phạm tội tại trường học... Mặc dù việc xét xử lưu động sẽ có tác dụng tốt, trực
tiếp trong công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật. Cũng như việc mở phiên Tồ
xét xử sơ thẩm cơng khai người dưới 18 tuổi phạm tội ở tại trụ sở của Tồ án cũng có
những ảnh hưởng tiêu cực đối với người dưới 18 tuổi phạm tội vì nó sẽ làm cho người
dưới 18 tuổi phạm tội cảm thấy mặc cảm, tội lỗi trước đám đông người dân, người
thân, bạn bè và thầy, cô giáo tại hội trường xét xử.
Để khắc phục tình trạng trên, tại Điều 7 của Thơng tư: 02/2018/TT-TANDTC đã
quy định về việc xét xử kín và khơng xét xử lưu động vụ án hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội [62]. Quy định này không chỉ áp dụng đối với việc xét xử
ND18TPT tại phòng xét xử thân thiện mà còn áp dụng cả đối với việc xét xử
ND18TPT tại phòng xử án VAHS. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo giữ bí mật cá nhân
cho người dưới 18 tuổi phạm tội, để tránh sự mặc cảm của người dưới 18 tuổi phạm
tội bị xét xử sơ thẩm, chấp hành bản án và tái hòa nhập cộng đồng.
1.2.2.3. Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới 18
tuổi phạm tội, nhà trường, Đoàn thanh niên, người có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm
lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi phạm tội học tập, lao động và sinh
hoạt. Người dưới 18 tuổi là người cần được bảo vệ, cho dù đó là người đã phạm tội.
Do tâm sinh lý chưa ổn định, nếu ND18TPT tự mình tham gia việc XXST các VAHS
sẽ bị các yếu tố bên ngoài tác động vào tâm lý dẫn đến việc giải quyết VAHS sẽ
không khách quan. Cho nên việc bảo đảm sự có mặt của người đại diện trong các giai
đoạn tố tụng đối với các VAHS mà bị can, bị cáo là ND18TPT là vơ cùng cần thiết.
Ngun tắc này góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ND18TPT.
1.2.2.4. Tơn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến của người dưới 18 tuổi
phạm tội
Tại các Điều 33 và 34 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em có quyền được
tiếp cận thông tin phù hợp với sự phát triển của trẻ em, được bày tỏ ý kiến, nguyện
vọng về những vấn đề mình quan tâm [44]. Với nội dung trên, cho thấy, nguyên tắc:
Tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến của ND18TPT, được Đảng và NN cụ
thể hóa bằng quy định trong BLHS, thể hiện chính sách và chủ trương tôn trọng và
bảo vệ quyền công dân theo ghi nhận của Hiến pháp và Công ước quốc tế về QTE.
Theo đó, pháp luật tơn trọng việc tham gia, trình bày ý kiến của người dưới 18 tuổi
phạm tội trong giải quyết vụ án hình sự nói chung và trong xét xử sơ thẩm VAHS đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng, những lời trình bày ý kiến của người dưới
18 tuổi phạm tại phiên xét xử sẽ là chứng cứ quan trọng trong việc xét xử VAHS.
1.2.2.5 Bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của người dưới
18 tuổi phạm tội: Nguyên tắc này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta, thể
hiện sự nghiêm minh của pháp luật; đẩy mạnh công tác thực thi pháp luật và bảo đảm
quyền con người, đặc biệt là quyền được trợ giúp pháp lý từ nghĩa vụ thực thi của các
cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng và người áp dụng pháp luật.
1.2.2.6. Bảo đảm các nguyên tắc xử lý của Bộ luật hình sự đối với người dưới 18
tuổi phạm tội: Trong q trình giải quyết vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi tham
gia, các cơ quan THTT phải bảo đảm các nguyên tắc xử lý của BLHS đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội. Đó là cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm của những người
THTT. Ngồi ra ngun tắc trên cịn thể hiện sự quan tâm, thận trọng của Nhà nước
trong các hoạt động có liên quan đến ND18TPT, từ đó thể hiện rõ bản chất của Nhà
nước pháp quyền là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
1.2.2.7. Bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người
dưới 18 tuổi phạm tội: Đây là chính sách hình sự đặc biệt đối với người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi phạm tội với mục đích xem xét, xử lý hành vi phạm tội của người
dưới 18 tuổi nhằm tạo điều kiện tốt nhất để các em sửa chữa sai lầm, phấn đấu trở
thành người có đức, có tài giúp ích cho xã hội. Cho nên, khi giải quyết VAHS do
ND18TPT cần phải nhanh chóng, kịp thời tránh kéo dài sẽ tác động lớn đến tâm lý
của ND18TPT và gây khó khăn trong việc tái hịa nhập cộng đồng của ND18TPT.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội
1.3.1. Sự phát triển của pháp luật quốc gia về tư pháp người dưới 18 tuổi
phạm tội
- Việt Nam tham gia các công ước về QCN và QTE
Năm 1977, Nước ta chính thức là thành viên Liên hiệp quốc, từ đó đến nay đã
lần lượt tham gia vào các Công ước quốc tế về QCN và QTE, gồm: Cơng ước quốc tế
về xóa bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc (năm 1981); Công ước về QTE (năm
1990) và Công ước số 5 về tuổi tối thiểu của trẻ em được tham gia lao động công
nghiệp, Công ước số 6 về làm việc ban đêm của trẻ em trong công nghiệp (năm
1994).
- Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
Đại hội Đảng năm 1986 đã ghi nhận nội dung: “... Chú trọng cải thiện điều kiện
sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em...”; các
Nghị quyết Trung ương số 08 năm 2002; Nghị quyết Trung ương số 49 năm 2005 của
BCT về chiến lược cải cách tư pháp… và Chỉ thị Trung ương số 20 năm 2012 của
BCT về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và
BVTE trong tình hình mới. Đã ghi tiếp tục nhận nội dung: Xây dựng và tổ chức thực
hiện có hiệu quả các chương trình, đề án chăm sóc, giáo dục và BVTE... Tổ chức thực
hiện tốt Công ước Liên hợp quốc về QTE và các công ước, điều ước quốc tế khác có
liên quan mà Nước ta đã ký kết hoặc tham gia... Do đó cần thiết phải thể chế hóa các
chủ trương chính sách Pháp luật của Đảng, Hiếp pháp về cải cách tư pháp, về QCN,
quyền cơng dân và QTE về chính sách hình sự đối với ND18TPT trong giai đoạn
2016 đến nay cụ thể như sau:
1.3.1.1. Về Luật hình sự
- Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009), đã giành Chương
X, với 10 Điều luật, từ Điều 68 đến Điều 77 để quy định những chính sách hình sự áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội [37].
- Bộ luật hình sự Việt Nam 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), đã giành Chương XII,
4 mục, với 17 Điều luật, từ Điều 90 đến Điều 107 để quy định những chính sách hình
sự áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội [38].
1.3.1.2. Về Luật tố tụng hình sự
- Bộ luật tố tụng hình sự 2003, đã giành Chương XXXII, với 10 Điều luật, từ
Điều 301 đến Điều 310 để quy định những thủ tục tố tụng đối với NCTN [40].
- Bộ luật tố tụng hình sự 2015, đã giành Chương XXVIII, với 18 Điều luật, từ
Điều 413 - 430 để quy định những thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi [41].
1.3.1.3. Về các văn bản hướng dẫn thi hành (dưới luật)
- Thông tư liên tịch số 01, ngày 12.7.2011 của VKSND tối cao - TAND tối cao Bộ Công an - Bộ Tư pháp - Bộ Lao động thương binh và xã hội, hướng dẫn thi hành
một số quy định của BLHS đối với người tham gia tố tụng là NCTN [68]
- Thông tư liên tịch số 06, ngày 21.12.2018 của VKSND tối cao – TAND tối cao
- Bộ Công an - Bộ Tư pháp - Bộ Lao động thương binh và xã hội về phối hợp thực
hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với ND18T (có hiệu lực từ