VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƢƠNG THỊ THU THẮM
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TRÀ BỒNG,
TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƢƠNG THỊ THU THẮM
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TRÀ BỒNG,
TỈNH QUẢNG NGÃI
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số
:
60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN HIỂN
HÀ NỘI, năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn Thạc sĩ
Luật học “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ
thực tiễn huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi” là hoàn toàn trung thực, không trùng
lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong
luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá
nhân tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Văn Hiển.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Tác giả luận văn
Trƣơng Thị Thu Thắm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN HÌNH SỰ .............................................................................................................7
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự ......................................................................................................7
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về thực hành
quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ...................................21
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN TRÀ BỒNG, TỈNH QUẢNG NGÃI ......................................................31
2.1. Khái quát chung về tình hình tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi .....................................................................31
2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự trên địa bàn huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi trong 05 năm gần đây .......32
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG CÔNG TÁC THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN HÌNH SỰ ...........................................................................................................51
3.1. Hoàn thiện pháp luật hiện hành ..........................................................................51
3.2. Hoàn thiện về tổ chức ........................................................................................60
3.3. Hoàn thiện công tác cán bộ ................................................................................66
3.4. Các giải pháp khác .............................................................................................71
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật hình sự
BLTTHS:
Bộ luât tố tụng hình sự
HĐXX:
Hội đồng xét xử
KSV:
Kiểm sát viên
KSXX:
Kiểm sát xét xử
TAND:
Tòa án nhân dân
THQCT:
Thực hành quyền công tố
THTT:
Tiến hành tố tụng
TGTT:
Tham gia tố tụng
TNHS:
Trách nhiệm hình sự
TTHS:
Tố tụng hình sự
VKS:
Viện kiểm sát
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
bảng
2.1.
2.2.
Tỷ lệ công bố cáo trạng/ số vụ án đã xét xử
Tỷ lệ Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung/số vụ VKS truy
tố
Trang
33
48
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
Tên biểu đồ
biểu đồ
2.1.
Số vụ thụ lý, số vụ đã xét xử, số cáo trạng và tỷ lệ xét xử/
số vụ qua từng năm
Trang
34
Số vụ Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, số vụ VKS
2.2.
truy tố và tỷ lệ số vụ trả hồ sơ để ĐTBS/ số vụ truy tố
qua từng năm
48
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hành quyền công tố là chức năng Hiến định của Viện kiểm sát nhân dân
được ghi nhận ở nhiều văn bản pháp lý khác nhau: Các bản Hiến pháp năm 1980,
năm 1992 và Hiến pháp năm 2013. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp được cụ thể
hóa chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, năm 1992, năm 2002 và năm 2014, trong
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, năm 2003, năm 2015 và Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
Thực tiễn những năm gần đây công tác thực hành quyền công tố của ngành
Kiểm sát nhân dân Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể, đã hạn chế tình trạng
truy tố oan, sai; đã phát hiện, khởi tố, xử lý kịp thời các hành vi phạm tội và tội
phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
góp phần hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, giữ vững an
ninh trật tự, an toàn xã hội, tạo được niềm tin đối với Đảng và nhân dân.
Song song với những kết quả đạt được, hiện nay vẫn còn một số vụ án truy tố
oan, sai gây bức xúc trong nhân dân, một phần là do Kiểm sát viên không làm tốt
công tác thực hành quyền công tố. Mặt khác, về lý luận và thực tiễn hiện nay còn rất
nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quyền công tố, phạm vi thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định
về thực hành quyền công tố còn chung chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nói
riêng ở một chừng mực nào đó còn chưa rõ ràng, cụ thể, sự phân định giữa chức
năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát xét xử trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm chưa rõ ràng dẫn đến chưa thống nhất về mặt nhận thức, thậm chí còn có
những quan điểm trái ngược nhau của một số bộ phận Kiểm sát viên dẫn đến chất
lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm chưa ngang tầm với
1
chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát, chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành đặt
ra trong tình hình hiện nay.
Trà Bồng là một huyện miền núi nằm ở phía Tây của tỉnh Quảng Ngãi. Số
lượng án hình sự xảy ra chiếm tỷ lệ thấp so với các huyện khác trong tỉnh, chủ yếu
là các loại án: Cố ý gây thương tích, trộm cắp tài sản, đánh bạc, vi phạm quy định
về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ... Trong những năm qua công tác
thực hành quyền công tố của VKSND huyện Trà Bồng có nhiều tiến bộ, đã đạt được
những kết tích cực, vai trò, vị trí, kỹ năng nghiệp vụ của Kiểm sát viên ngày càng
được nâng lên. Tuy vậy, công tác thực hành quyền công tố vẫn còn bộc lộ những
hạn chế nhất định trong giai đoạn xét xử sơ thẩm cần phải được làm rõ. Dựa trên
việc nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thực hành
quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại
huyện Trà Bồng, luận văn làm sáng tỏ về mặt khoa học, đưa ra những giải pháp
hoàn thiện, tăng cường công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự góp phần hiệu quả vào quá trình đấu tranh phòng, chống tội
phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Đây chính là lý do tác giả chọn đề tài
“Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn
huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi” làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hành quyền công tố trong thời gian qua đã có nhiều tác giả nghiên cứu,
nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này dưới những phạm vi và góc độ khác nhau
như:
Đề tài khoa học cấp Bộ năm 1999: “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và
thực tiễn hoạt động công tố Việt Nam từ năm 1945 đến nay” do Tiến sĩ Lê Hữu Thể
làm chủ biên.
Luận án tiến sĩ luật học năm 2002 “Quyền công tố ở Việt Nam” của tác giả Lê
Thị Tuyết Hoa.
Lỗ Thị Loan (2015), “Thực hành quyền công tố tại phiên tòa sơ thẩm hình sự
từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội.
2
Sách chuyên khảo “Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư
pháp” do Tiến sĩ Nguyễn Hải Phong làm chủ biên, NXB Tư pháp, 2013.
Sách chuyên khảo “Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm” do Tiến sĩ Dương Thanh
Biểu làm chủ biên, NXB Tư pháp, 2007.
Còn rất nhiều sách, báo, các giáo trình đào tạo của các trường Đại học trong
nước, các tạp chí kiểm sát nghiên cứu về chức năng công tố, thực hành quyền công
tố của Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác
nhau về khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự mà
nhất là phạm vi của hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu của các đề tài kể
trên, tác giả sẽ vận dụng đi sâu nghiên cứu, thể hiện một cách cụ thể, chi tiết nội
dung những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật Việt Nam về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
dựa trên thực trạng thực hành quyền công tố tại huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi
trong giai đoạn 5 năm (từ năm 2012 đến năm 2016). Đồng thời, tác giả cũng làm rõ
thực trạng nhận thức về phạm vi, đặc điểm, ý nghĩa của thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn huyện Trà Bồng từ đó đưa ra những giải
pháp tăng cường công tác thực hành quyền công tố trên địa bàn huyện Trà Bồng
trong thời gian đến. Do vậy, nội dung luận văn này của tác giả khác với nội dung
mà các luận văn đã nghiên cứu trước đây.
Vì vậy, tác giả tiếp tục nghiên cứu đề tài “Thực hành quyền công tố trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi”
có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đây là vấn đề đang được đề cập rất nhiều hiện nay. Tác giả thấy việc nghiên
cứu đề tài này là cần thiết và cần phải được xem xét, phân tích đề tài rõ hơn giữa
quy định của pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng thực hành quyền công tố
3
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm để tìm ra những vướng mắc, bất cập. Từ đó đề xuất
một số giải pháp tăng cường công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ
sau đây:
Phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận và hệ thống luật thực định về thực
hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Phân tích, đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2012
đến năm 2016
Đưa ra một số giải pháp có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhằm tăng cường công
tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tác giả đi sâu tìm hiểu những quy định của pháp luật về THQCT trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà không phải đi sâu tìm hiểu hoạt động thực
hành quyền công tố trong tất cả các giai đoạn tố tụng; tìm hiểu thực trạng hoạt động
thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định
của BLTTHS năm 2003 đồng thời so sánh, đánh giá những điểm mới, tiến bộ của
BLTTHS năm 2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự theo quy định của BLTTHS năm 2003 đồng thời so sánh, đánh giá những
điểm mới của BLTTHS năm 2015 cùng về vấn đề này.
Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở
huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2012-2016.
4
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, việc
nghiên cứu còn dựa trên quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
ta; các cơ sở lý luận khoa học của các lĩnh vực có liên quan như khoa học luật hình
sự, luật tố tụng hình sự…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng đồng bộ phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, giải thích,
chứng minh và thống kê, khảo sát, thu thập số liệu, tài liệu để giải quyết nhiệm vụ
nghiên cứu của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Là cơ sở cho việc nghiên cứu, tìm hiểu một số nội dung về thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự góp phần hoàn thiện hệ thống
luật thực định của nước ta, qua đó tăng cường công tác thực hành quyền công tố nói
chung và thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói
riêng trên địa bàn huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn phân tích, đánh giá nêu ra thực tiễn công tác thực hành quyền công
tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng
Ngãi, là cơ sở thực tiễn để cán bộ, Kiểm sát viên nghiên cứu, vận dụng vào quá
trình tố tụng; nêu ra những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập trong thực
hành quyền công tố nhằm nâng cao nhận thức áp dụng pháp luật tố tụng nhất là đổi
mới tư duy theo hướng tích cực hơn trong đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên làm công
tác thực hành quyền công tố, từ đó tiếp tục phát huy những kết quả đạt được đồng
thời đề ra những giải pháp cụ thể để tăng cường công tác thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
5
Kết quả nghiên cứu của luận văn là nguồn tài liệu cho việc tham khảo, nghiên
cứu chuyên sâu, trong việc học tập, hướng dẫn, giảng dạy, tập huấn trong ngành
Kiểm sát.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cơ
cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Những đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường công tác thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm, đối tượng, phạm vi thực hành quyền công tố trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố, khái niệm thực hành quyền công tố
Ở Việt Nam thuật ngữ “quyền công tố” và “thực hành quyền công tố” lần đầu
tiên được ghi nhận tại Điều 138 Hiến pháp năm 1980 và được cụ thể hóa trong
BLTTHS, Luật tổ chức VKSND. Việc nghiên cứu, hoàn thiện khái niệm “Quyền
công tố”, “Thực hành quyền công tố” có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định
đúng vị trí, vai trò, chức năng của VKSND trong giai đoạn hiện nay.
Xung quanh khái niệm quyền công tố, ở nước ta đến nay vẫn còn nhiều quan
điểm khác nhau, nổi bật có một số quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Công tố không phải là một chức năng độc lập
của Viện kiểm sát, mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật [38, tr.10]. Quan điểm này đồng nhất khái niệm
quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Theo chúng tôi hiểu khái niệm quyền công tố như vậy là không phù hợp với
Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2014, BLTTHS năm 2003 quy
định VKSND THQCT, kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Đây là hai chức năng độc
lập nên không thể đồng nhất hai chức năng này với nhau như quan điểm trên.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho
VKS truy tố kẻ phạm tội ra trước Toà án, thực hiện sự buộc tội tại phiên toà (thực
hành quyền công tố) [38, tr.11]. Quan điểm này cho rằng chỉ có duy nhất VKS mới
có quyền này, nó chỉ diễn ra trong một lĩnh vực duy nhất là tố tụng hình sự và cũng
chỉ ở một giai đoạn duy nhất là giai đoạn xét xử sơ thẩm.
7
Chúng tôi thấy rằng, quan điểm này đã quá thu hẹp khái niệm, nội dung, phạm
vi quyền công tố và không phản ánh được đầy đủ bản chất của quyền này vì hoạt
động buộc tội tại phiên tòa chỉ là một trong những quyền hạn của VKS khi THQCT
bởi Điều 3 Luật tổ chức VKSND thì phạm vi THQCT được thực hiện từ khi giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Quyền công tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và
pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự, cùng với
sự phát triển của xã hội, của các ngành luật, quyền công tố được mở rộng sang lĩnh
vực dân sự, tố tụng dân sự và ngày nay tiếp tục mở rộng sang các lĩnh vực tố tụng
tư pháp khác [38, tr.12]. Những người theo quan điểm này cho rằng VKS THQCT
không chỉ trong TTHS mà cả trong lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, kinh tế và các
hoạt động tư pháp khác.
Chúng tôi thấy rằng, quan điểm này đã quá mở rộng phạm vi của quyền công
tố dẫn đến không xác định được ranh giới, tính đặc thù giữa tố tụng hình sự và các
lĩnh vực tố tụng tư pháp khác, đã đồng nhất chức năng công tố với các chức năng
khác của VKS trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế và
lao động.
Quan điểm thứ tư cho rằng: Quyền công tố là quyền Nhà nước giao cho cơ
quan THTT trong việc truy cứu TNHS và áp dụng các chế tài hình sự đối với người
phạm tội [38, tr.12]. Theo quan điểm này, quyền công tố do các chủ thể là các cơ
quan THTT thực hiện trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử chứ không
phải chỉ riêng VKS mới có quyền này.
Theo quan điểm của chúng tôi, hiểu quyền công tố theo quan điểm này sẽ dẫn
đến sự nhầm lẫn giữa các chức năng: Buộc tội, bào chữa, xét xử trong TTHS.
Quan điểm thứ năm cho rằng: “Quyền công tố là quyền Nhà nước giao cho
Viện kiểm sát truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ
quan công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác
8
định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó, truy tố bị can ra trước Tòa án và
bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa” [38, tr.20].
Những người theo quan điểm này cho rằng, quyền công tố là quyền nhân danh
nhà nước buộc tội đối với người phạm tội. Vì vậy, quyền công tố chỉ có duy nhất
trong lĩnh vực tố tụng hình sự chỉ được thực hiện bởi một cơ quan duy nhất là VKS
mà không có bất cứ cơ quan nhà nước nào thay thế được.
Chúng tôi đồng tình với quan điểm này bởi nó phù hợp về mặt lý luận, phù
hợp với thực tiễn và phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Quan điểm này
đã phản ánh được bản chất, nội dung, phạm vi của quyền công tố và chủ thể
THQCT.
Theo chúng tôi khái niệm quyền công tố được hiểu là quyền nhân danh Nhà
nước thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội và được giao cho cơ
quan duy nhất thực hiện là VKSND, có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ
tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó quyết định
việc truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng và bảo vệ sự buộc tội tại
phiên tòa.
Trên cơ sở khái niệm quyền công tố, THQCT được hiểu như thế nào? Trong
hệ thống pháp luật Việt Nam từ trước đến nay chưa có bất kỳ một văn bản pháp lý
nào đưa ra khái niệm về THQCT.
Luật tổ chức VKSND năm 2014 là văn bản pháp lý đầu tiên chính thức đưa ra
khái niệm về THQCT được quy định tại khoản 1 Điều 3: “Thực hành quyền công tố
là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc
buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”
1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự
Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được quy định tại phần thứ ba của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 gồm hai giai đoạn: Chuẩn bị xét xử và xét xử tại
9
phiên tòa. Nhiệm vụ của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là kiểm tra lại tất cả
các tài liệu, chứng cứ mà các cơ quan THTT, người THTT ở các giai đoạn trước đó
đã thu thập được có hợp pháp theo đúng trình tự, thủ tục luật định, có đảm bảo căn
cứ để kết tội bị cáo hay không nhằm đảm bảo nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc bình
đẳng và nguyên tắc suy đoán vô tội…Thời điểm bắt đầu của giai đoạn xét xử sơ
thẩm là từ khi Viện kiểm sát chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án và kết thúc bằng bản án
hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật. Như vậy, theo pháp luật TTHS Việt Nam giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là việc xét xử lần thứ nhất do Tòa án được giao
thẩm quyền thực hiện và được xác định như là một giai đoạn kết thúc của một quá
trình giải quyết một vụ án hình sự.
Như vậy, khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của TTHS
trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết
định tố tụng theo quy định của pháp luật [36, tr.343].
Từ những phân tích, luận giải nêu trên chúng tôi đưa ra khái niệm THQCT
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: Là hoạt động của VKSND trong
TTHS để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội nhằm đưa
người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa.
1.1.1.3. Đặc điểm, đối tượng, phạm vi thực hành quyền công tố trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự
Thứ nhất, THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được thực
hiện bởi cơ quan duy nhất là VKSND trong tố tụng hình sự: Trong mỗi giai đoạn
lịch sử khác nhau thì chức năng THQCT của VKS cũng có sự thay đổi nhất định để
phù hợp với chế độ chính trị của đất nước. THQCT là chức năng quan trọng được
ghi nhận đầu tiên trong Hiến pháp 1980 thể hiện rõ nét quyền năng của VKSND và
được ghi nhận tại Điều 23 BLTTHS mà không có cơ quan nào có thể thay thế ngành
Kiểm sát. THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm có nhiệm vụ hết sức quan trọng,
khẳng định vị trí trọng yếu của cơ quan VKS trong việc khắc phục tình trạng oan,
10
sai, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội.
Thứ hai, THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là việc truy tố bị can ra trước
Tòa án: Trên cơ sở kết quả điều tra, thu thập chứng cứ và chứng minh được người
phạm tội ở các giai đoạn trước đó, VKS là cơ quan THQCT truy tố bị can ra trước
Tòa án để xét xử bằng bản cáo trạng, trong đó nêu rõ những chứng cứ chứng minh
hành vi phạm tội của bị can, những yếu tố tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ
TNHS của bị can… và đặc biệt là phần kết luận của bản cáo trạng phải xác định
được tội danh của bị can.
Thứ ba, THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là việc buộc tội bị cáo và bảo
vệ sự buộc tội tại phiên tòa bằng các phương thức được pháp luật quy định như:
Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về
việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa, tham gia xét hỏi, trình bày luận tội, tranh
luận tại phiên tòa sơ thẩm, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường
hợp phát hiện oan sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội... Như vậy, việc buộc tội và
bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa là đặc điểm quan trọng nhất của THQCT trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự vì nó thể hiện đầy đủ nhất quyền năng của VKS
tại phiên tòa được thực hiện thông qua người đại diện của VKSND là Kiểm sát viên.
Đối tượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự
Hoạt động THQCT trong TTHS với mục đích là truy cứu TNHS đối với người
phạm tội. Do đó, đối tượng của THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là hành vi
phạm tội và người phạm tội.
Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự
Như đã luận giải ở phần trên, thời điểm bắt đầu của giai đoạn xét xử sơ thẩm
là từ khi VKS chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án và kết thúc bằng bản án hoặc quyết
định có hiệu lực pháp luật.
Do vậy, phạm vi THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bắt đầu
từ khi bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn của VKS cùng hồ
11
sơ vụ án được chuyển đến Tòa án cho đến khi bản án hoặc quyết định sơ thẩm có
hiệu lực pháp luật hoặc bị kháng cáo, kháng nghị và hồ sơ vụ án được chuyển lên
Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm.
1.1.1.4. Phân biệt thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm với
kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, VKS có trách nhiệm THQCT và KSXX (kiểm
sát hoạt động xét xử sơ thẩm). Đây là hai chức năng của VKSND. Tuy nhiên,
BLTTHS năm 2003 không quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT,
KSXX trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, không quy định những hoạt
động nào thuộc chức năng THQCT và hoạt động nào thuộc chức năng KSXX nên
thực tiễn áp dụng các cơ quan THTT, người THTT còn có sự nhận thức không
thống nhất về chức năng THQCT và chức năng KSXX trong giai đoạn này nên rất
dễ nhầm lẫn giữa chức năng THQCT của VKS và chức năng xét xử của Tòa án.
Tuy nhiên, Điều 18 và Điều 19 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định những
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT, KSXX bằng những hoạt động cụ thể,
rõ ràng đã tách bạch chức năng THQCT và KSXX sơ thẩm giúp phân biệt rõ ràng
và chính xác hai chức năng này mà BLTTHS hiện hành chưa quy định. Để khắc
phục những hạn chế này thông qua việc quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS
khi THQCT, KSXX trong giai đoạn xét xử sơ thẩm tại Điều 266 và Điều 267
BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể những hoạt động thuộc chức năng THQCT và
những hoạt động thuộc chức năng KSXX mà từ trước đến thời điểm hiện nay chưa
có bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào về THQCT lý giải được vấn đề này.
Từ đó, có thể khẳng định rằng, đối tượng của hoạt động THQCT là hành vi phạm
tội và người phạm tội còn đối tượng của KSXX vụ án hình sự là việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động xét xử sơ thẩm của Tòa án và việc tuân theo pháp luật của
những người tham gia tố tụng.
Vì vậy, có thể hiểu một cách khái quát: THQCT là việc VKS sử dụng những
biện pháp được quy định trong BLTTHS trực tiếp quyết định hoặc trực tiếp thực
hiện liên quan đến việc buộc tội bị can, bị cáo. Ngược lại, KSXX sơ thẩm vụ án
12
hình sự được hiểu là những biện pháp mà VKS sử dụng để kiểm sát tính hợp pháp
của các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng theo thủ tục sơ thẩm.
1.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.2.1. Ý thức chính trị, đạo đức nghề nghiệp của Kiểm sát viên
Ý thức chính trị đóng vai trò quan trọng, là nền tảng trong việc hình thành lý
tưởng sống và tư tưởng chính trị của KSV. Kiểm sát viên có lập trường tư tưởng
chính trị vững vàng là tiền đề vững chắc bảo đảm cho hoạt động THQCT nói chung
và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng đúng với đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Ý thức chính trị của KSV càng cao thì tinh thần trách nhiệm trong công việc
càng cao giúp cho hoạt động áp dụng pháp luật, khả năng xử lý các tình huống của
KSV càng chính xác, linh hoạt, kịp thời mà không chịu bất kỳ sự tác động nào từ
bên ngoài. Bản lĩnh chính trị vững vàng giúp KSV kiên quyết đấu tranh chống tội
phạm, không bỏ lọt, không làm oan, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ người tốt, bảo vệ công
lý, bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa.
Đạo đức nghề nghiệp là yếu tố có ý nghĩa quan trọng hình thành nên nhân
cách, vị trí của KSV trong xã hội. Đạo đức nghề nghiệp của Kiểm sát viên cũng là
đạo đức của người cán bộ, công chức được quy định tại Luật cán bộ, công chức,
Luật tổ chức VKSND... Chính vì vậy, một trong những tiêu chuẩn quan trọng để
xem xét bổ nhiệm KSV được quy định tại Điều 75 Luật tổ chức VKSND: “...trung
thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có
phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực…” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng căn dạy cán bộ ngành Kiểm sát “Công minh, chính trực, khách quan, thận
trọng, khiêm tốn”. Vì thế, khi vi phạm về phẩm chất đạo đức thì KSV có thể bị cách
chức chức danh KSV.
Với tính chất công việc và yêu cầu chung của nhiệm vụ THQCT là việc chứng
minh tội phạm mà KSV là người đại diện cho Nhà nước truy tố tội phạm ra trước
13
pháp luật, liên quan đến sinh mệnh chính trị của con người nên phải đối diện với
những khó khăn, thử thách, những mặt trái của xã hội. Do đó cần lắm đạo đức nghề
nghiệp, lương tâm trong sáng của KSV biết thông cảm, sẽ chia với nỗi đau của
người bị hại; phải thẳng thắn, kiên quyết đấu tranh làm rõ thủ đoạn, âm mưu của tội
phạm và xử lý nghiêm minh trước pháp luật nhằm giáo dục và phòng ngừa chung.
Muốn có đạo đức nghề nghiệp, lương tâm trong sáng thì bản thân KSV phải luôn
phấn đấu để hoàn thiện mình về mọi mặt trong công tác và cuộc sống.
Việc tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức nghề nghiệp theo những phẩm
chất “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” giúp cho KSV có cái tâm trong sáng,
có bản lĩnh chính trị vững vàng khi THQCT nhằm đưa ra những quyết định công
tâm, thấu tình, đạt lý, thuyết phục lòng người.
Ý thức chính trị và đạo đức nghề nghiệp là hai yếu tố quan trọng hình thành
nên nhân cách, vị trí của người KSV, từ đó xây dựng nên những hình ảnh đẹp, mẫu
mực, chân thực của người KSV trong lòng nhân dân, đó cũng là hình tượng đẹp của
ngành Kiểm sát nhân dân.
1.1.2.2. Vốn sống, kinh nghiệm thực tiễn của Kiểm sát viên
Vốn sống, kinh nghiệm thực tiễn của KSV được tích lũy, chắc lọc, tiếp thu
trong cuộc sống và quá trình công tác, nó ảnh hưởng đến chất lượng THQCT. Mỗi
vụ án khác nhau thì cách tiếp cận, đánh giá, giải quyết của mỗi KSV cũng sẽ khác
nhau nên sẽ thu được những kết quả khác nhau bởi hoàn cảnh, môi trường sống, sự
trải nghiệm của mỗi KSV là không giống nhau. Sự trải nghiệm về đời sống xã hội
của KSV càng nhiều thì vốn sống và kinh nghiệm thực tiễn càng cao. Chính vốn
sống, kinh nghiệm thực tiễn giúp cho KSV xác định vụ án, xử lý tình huống chính
xác, nhanh nhạy cũng như việc áp dụng pháp luật chặt chẽ đúng pháp luật. Chính vì
vậy, Điều 77 đến Điều 80 Luật tổ chức VKSND quy định ngoài những điều kiện về
trình độ thì bắt buộc phải đảm bảo tiêu chuẩn về thời gian công tác tùy theo từng
ngạch KSV.
Pháp luật đòi hỏi phải được áp dụng một cách nghiêm chỉnh và thống nhất
trong mọi trường hợp, hoạt động THQCT càng đòi hỏi sự khách quan, chính xác và
thống nhất để đảm bảo việc truy tố đúng luật định.
14
1.1.2.3. Ý thức pháp luật, bản lĩnh nghề nghiệp và kỹ năng nghiệp vụ của
Kiểm sát viên
Ý thức pháp luật là tổng thể các học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm
của con người thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp của pháp
luật thông qua quy tắc xử sự chung .
Kiểm sát viên có ý thức pháp luật cao sẽ có cách nhìn khách quan, toàn diện,
sâu sắc hơn trong từng vụ án, từng quy phạm pháp luật cụ thể.
Ý thức pháp luật của KSV càng cao thì hoạt động THQCT càng có chất lượng,
hiệu quả và ngược lại.
Bản lĩnh nghề nghiệp chính là bản thân KSV phải có tinh thần dũng cảm bảo
vệ công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quan điểm, chủ trương đúng
đắn của Đảng và Nhà nước; không dao động trước sức ép, trước những tác động
tiêu cực; kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật và tội
phạm, các hành vi tham nhũng, tiêu cực. Có ý thức phê bình và tự phê bình, dám
nói thẳng, nói thật, không né tránh, ngại va chạm với ý thức xây dựng.
Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; mạnh dạn đề xuất các hình thức,
biện pháp để ban hành các quyết định phù hợp, đúng đắn giải quyết các nhiệm vụ
được giao; có sáng kiến đổi mới trong công tác.
Kỹ năng nghiệp vụ là một yếu tố quan trọng, không thể thiếu của KSV làm
công tác THQCT. Đó là khả năng vận dụng tốt kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp
vụ vào hoạt động thực tiễn để tham mưu, giải quyết công việc có chất lượng, hiệu
quả, đúng quy định của pháp luật. Thực hiện thành thạo các thao thác, quy trình
chuyên môn, nghiệp vụ trong công tác THQCT. Có năng lực phân tích, đánh giá,
tổng hợp tốt về tình hình vi phạm, tội phạm và khả năng tham gia giải quyết các vụ,
việc khó khăn, tính chất phức tạp một cách chính xác.
1.1.2.4. Tác động từ công luận và dư luận xã hội
Với xu thế hội nhập quốc tế, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay, nhất là sự bùng nổ công nghệ thông tin thì công luận
và dư luận xã hội tác động đến tư tưởng, tâm tư, tình cảm, suy nghĩ, hành động của
15
mỗi cá nhân trong xã hội. Riêng ngành Kiểm sát thì KSV là người đại diện cho Nhà
nước THQCT cũng bị ảnh hưởng bởi công luận và dư luận xã hội đến tư tưởng, tư
duy của KSV khi thực hiện nhiệm vụ.
Nếu công luận và dư luận xã hội phản ánh đúng đắn các tình tiết của vụ án,
nhận định, bình luận một cách khách quan sẽ là điều hết sức thuận lợi cho KSV
nhưng nếu công luận và dư luận xã hội phản ánh các tình tiết của vụ án một cách
phiến diện, hời hợt và chủ quan, nhận định, bình luận một cách quá đà thì khi THQCT,
KSV chịu một áp lực không nhỏ từ công luận và dư luận xã hội [27, tr.21]. Do vậy,
KSV phải có bản lĩnh, có quyết tâm chính trị cao để không bị tác động bởi các yếu
tố tiêu cực khi THQCT.
1.1.2.5. Tác động từ những tiêu cực xã hội
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường kéo theo mặt trái của nó diễn
ra trong nhiều lĩnh vực. Riêng trong lĩnh vực tư pháp hình sự những tiêu cực xã hội
len lõi đến từng cơ quan, từng cá nhân và đương nhiên ngành Kiểm sát cũng không
ngoại trừ đặc biệt là hoạt động THQCT của KSV bị ảnh hưởng của những tiêu cực
xã hội như chạy án, chạy tội đang làm xấu đi hình ảnh của cơ quan bảo vệ pháp
luật, của người cán bộ kiểm sát bởi bên cạnh những KSV có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có đạo đức nghề nghiệp, lương tâm trong sáng thì vẫn có một số ít KSV bị tha
hóa về đạo đức, tư tưởng chính trị, bị cám dỗ bởi vật chất, bị sức mạnh của đồng
tiền làm che mờ đi những phẩm chất quý giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dạy:
“Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”. Một số KSV lợi dụng
nghề nghiệp của mình để gợi ý, vòi vĩnh, ngã giá, nhận hối lộ, môi giới hối lộ trong
quá trình giải quyết án dẫn đến những sai lệch trong quá trình áp dụng pháp luật, tất
yếu sẽ dẫn đến pháp luật áp dụng không công minh, người có tội thì thành không
tội, người lương thiện phải chịu oan ức, quyền, lợi ích hợp pháp không được bảo vệ,
công lý không được thực thi trên thực tế. Do đó, để hoạt động THQCT được thực
hiện đúng đắn, nghiêm minh nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân không
bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội thì yếu tố tiên quyết là cần phải nâng
cao ý thức tuân thủ và chấp hành pháp luật một cách tuyết đối của từng cán bộ,
16
KSV thì tiêu cực xã hội sẽ không còn là yếu tố trở ngại lớn đối với hoạt động
THQCT nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng.
1.1.2.6. Tác động từ những người có chức vụ, quyền hạn và những người thân
quen
Đây cũng là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động THQCT của KSV. Những
mối quan hệ với cấp trên trong đơn vị hay những người có chức vụ, quyền hạn
trong các ngành nghề khác, với người thân thậm chí chỉ là người quen, láng giềng vì
mối quan hệ phụ thuộc trong công tác, vì nể nang hay vì mối quan hệ tình cảm, vì
chỗ thân quen nhờ vả cũng có thể làm thay đổi tư duy pháp luật của KSV trong
công vụ chính là giải quyết vụ án một cách thiên kiến, sai lệch, chủ quan, duy ý chí
dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, khôn lường. Vì vậy, trong mọi trường hợp
KSV phải vững vàng, kiên quyết với sự tác động của cấp trên, của những người có
chức vụ quyền hạn và những người thân quen khi thực hiện nhiệm vụ THQCT trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự để tính thượng tôn pháp luật trong chế độ Xã
hội chủ nghĩa được tuân thủ tuyệt đối.
1.1.2.7. Tác động từ chính sách đãi ngộ cho Kiểm sát viên
Trong nền kinh tế hiện đại, nhu cầu đời sống con người ngày càng cao. Những
đòi hỏi thiết yếu, nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người thật sự quan trọng
nó ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, gia đình, tập thể…Vì vậy,
để KSV có thể an tâm công tác, tập trung tất cả tinh thần, trí tuệ, toàn tâm, toàn ý
cho công việc thì Nhà nước bên cạnh cân đối chính sách tiền lương phù hợp thì
phải cân đối về các chế độ hổ trợ khác cho cán bộ, KSV ngành Kiểm sát bởi khi đời
sống vật chất được đảm bảo thì những tiêu cực xã hội như tham ô, nhận hối lộ…sẽ
không còn là yếu tố trở ngại. Đây chính là yếu tố tạo động lực, khuyến khích cho
mỗi cán bộ, KSV thêm yêu ngành, yêu nghề hơn, nhiệt huyết trong công việc, cống
hiến trọn vẹn, lâu dài cho ngành Kiểm sát, phụng sự Đảng ta và nhân dân.
1.1.2.8. Những yếu tố khác
Ngoài những yếu tố nêu trên thì các yếu tố khác ảnh hưởng đến công tác
THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đó là hệ thống pháp luật thực
17
định vẫn còn vướng mắc, bất cập; năng lực chuyên môn; cơ sở vật chất kỷ thuật,
phương tiện làm việc chưa đáp ứng được so với nhiệm vụ công tác; những động cơ
không trong sáng, tư tưởng cục bộ, lối sống ích kỷ, động cơ cá nhân trong công
việc, bè phái, ganh gét, so bì, đố kỵ, tư tưởng dễ làm khó bỏ, né tránh, ngại va
chạm trong công việc, sự mất đoàn kết nội bộ… là những mối nguy hại tiềm ẩn
vô cùng nguy hiểm nó ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng, hiệu quả công tác
THQCT của KSV.
1.1.3. Ý nghĩa và các điều kiện đảm bảo thực hành quyền công tố trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.3.1. Ý nghĩa thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
Từ bản chất, phạm vi, đặc điểm hoạt động THQCT trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát có ý nghĩa nhằm bảo đảm:
Mọi hành vi phạm tội đều phải được đưa ra xét xử kịp thời, công bằng, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan, không bỏ lọt, nâng cao hiệu quả
đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Không để người nào bị xét xử oan, sai, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp
luật.
Kịp thời phát hiện và khắc phục những vi phạm pháp luật của Tòa án trong
quá trình xét xử vụ án hình sự.
Thông qua hoạt động THQCT công khai tại phiên tòa góp phần tuyên truyền
pháp luật, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật của công dân trong đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố góp phần bảo đảm
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất qua đó bảo vệ Hiến pháp
và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
18
1.1.3.2. Các điều kiện đảm bảo thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
Điều kiện về mặt pháp lý: Để hoạt động THQCT trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự thuận lợi, có hiệu quả, phát huy vai trò, vị trí của ngành Kiểm
sát nhân dân Việt Nam thì việc hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan
đến THQCT đóng vai trò rất quan trọng. Điều kiện về mặt pháp lý còn thể hiện ở
việc áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật được thống nhất, các văn bản pháp
luật phải thể chế hóa các quy định của Hiến pháp và chính sách pháp luật của Nhà
nước, tránh những quy định chung, chồng chéo dẫn đến khó áp dụng trong thực tiễn
đồng thời VKSNDTC cũng cần ban hành những hướng dẫn nghiệp vụ kịp thời để
vận dụng trong công tác là hết sức cần thiết. Như vậy, điều kiện về mặt pháp lý là
tiền đề, cơ sở để KSV thực hiện tốt quyền năng của mình. Hệ thống pháp luật càng
thống nhất, thông suốt thì việc áp dụng mới khả thi.
Nghiên cứu Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành cho thấy, quyền công
tố và THQCT chưa được quy định rõ ràng, không thể hiện rõ nét những hoạt động
cụ thể nào thuộc chức năng THQCT, vẫn còn rất khó phân biệt giữa hoạt động được
xem là THQCT với hoạt động KSXX.
Những quy định về THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
được quy định tại các chương XVII, XVIII, XIX, XX, XXI và ở mục 4 chương II
Luật tổ chức VKSND năm 2014…
Như vậy, cơ sở pháp lý chủ yếu để KSV THQCT trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm là BLTTHS, Luật tổ chức VKSND năm 2014. Ngoài ra, ngành Kiểm sát còn
có những quy định mang tính nội bộ như quy chế THQCT và KSXX các vụ án hình
sự và những văn bản hướng dẫn, thông báo rút kinh nghiệm chung.
Điều kiện về sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo nghiệp vụ của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao: Đảng ta nhận thức về vai trò quan trọng của các cơ quan THTT
đã chủ trương cải cách tư pháp nhằm củng cố và tăng cường hiệu quả hoạt động
THTT nước nhà. Chủ trương đúng đắn đó thể hiện tại các Chỉ thị và Nghị quyết
19