Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Văn hóa đọc của thiếu nhi quận hoàn kiếm thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 130 trang )

Bộ GIáO DụC Và ĐàO TạO

Bộ VĂN HOá, THể THAO Và DU LịCH

TRƯờNG ĐạI HọC VĂN HOá Hà NộI

NGUYễN THANH HOA

VĂN HOá ĐọC CủA THIếU NHI QUậN HOàN KIếM,
THàNH PHố Hà NộI HIệN NAY

Chuyên ngành: Văn hoá học
MÃ số: 60310640

LUậN V¡N TH¹C SÜ V¡N HãA häc

Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: PGS.TS. Phạm Duy Đức

Hà Nội - 2013


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ tận
tình của PGS.TS Phạm Duy Đức, người thầy – người hướng dẫn khoa học;
quý thầy cô giáo khoa Sau Đại học trường Đại học Văn hóa Hà Nội, q thầy
cơ đã tham gia giảng dạy lớp Cao học văn hóa học niên khóa 2011 – 2013; Sở
giáo dục và đào tạo Hà Nội; phòng giáo dục, các trường tiểu học và trung học
cơ sở trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội đã tạo điều kiện giúp
đỡ tơi trong q trình làm luận văn. Nhân dịp này, tôi xin được bày tỏ lịng
biết ơn sâu sắc của mình đối với q thầy cơ, gia đình và bạn bè đã giúp đỡ
tơi về mọi mặt để tơi hồn thành luận văn. Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng kính


trọng và biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS Phạm Duy Đức đã dìu dắt tơi trên
con đường nghiên cứu khoa học của mình.
Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng, song do khả năng có hạn nên
những thiếu sót của luận văn là điều không thể tránh khỏi. Với tinh thần cầu
thị, tôi rất mong nhận được sự chỉ dẫn và ý kiến đóng góp của các nhà khoa
hoc, q thầy cơ và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Nguyễn Thanh Hoa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 6
Chương 1: VĂN HÓA ĐỌC VÀ KHÁI LƯỢC VỀ THIẾU NHI QUẬN
HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................. 12
1.1. Những vấn đề lí luận về văn hóa đọc ............................................... 12
1.1.1. Khái niệm văn hóa và văn hóa đọc................................................ 12
1.1.2. Cơ cấu của văn hóa đọc ................................................................ 17
1.1.3. Vai trị của văn hóa đọc................................................................. 25
1.2. Khái lược về thiếu nhi quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội ......... 32
1.2.1. Một số đặc điểm của quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội ............ 32
1.2.2. Thành phần thiếu nhi quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội ........... 36
Chương 2: THỰC TRẠNG VĂN HÓA ĐỌC CỦA THIẾU NHI TRÊN ĐỊA
BÀN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY ................ 39
2.1. Thực trạng giáo dục văn hóa đọc cho thiếu nhi trên địa bàn quận
Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội hiện nay ................................................ 40
2.2. Những biểu hiện văn hóa đọc của thiếu nhi trên địa bàn quận
Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội................................................................ 46
2.2.1. Nhu cầu đọc của thiếu nhi quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
hiện nay ........................................................................................ 47

2.2.2. Kĩ năng đọc và lĩnh hội sách của thiếu nhi quận Hoàn Kiếm, thành
phố Hà Nội ............................................................................................. 60
2.2.3. Thái độ ứng xử với tài liệu đọc của thiếu nhi quận Hoàn Kiếm,
thành phố Hà Nội.................................................................................... 66
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐỌC CHO THIẾU
NHI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........ 68
3.1. Phương hướng chung........................................................................ 68
3.1.1. Tạo ra xã hội học tập, xã hội đọc sách........................................... 68
3.1.2. Phát triển về số lượng người đọc, chất lượng đọc.......................... 73
3.2. Các giải pháp cụ thể.......................................................................... 75


3.2.1. Nâng cao ý thức tự đọc cho thiếu nhi ở quận Hoàn Kiếm, thành phố
Hà Nội .................................................................................................... 75
3.2.2. Hướng dẫn các em đọc sách đúng kĩ thuật và vận dụng tri thức đã
đọc được vào cuộc sống một cách hiệu quả ............................................ 80
3.2.3 Đầu tư hoàn thiện cơ sở vật chất ở các thiết chế thư viện, các nhà
sách trên địa bàn quận, thành phố; nâng cao chất lượng hoạt động xuất
bản và phát hành sách cho thiếu nhi ........................................................ 84
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................... 95
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 98


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
STT

Tên bảng

Trang


1

Ý kiến của phụ huynh về lợi ích mang lại cho thiếu nhi

42

từ việc đọc sách
2

Sự đánh giá của phụ huynh về khả năng cảm thụ sách

44

của thiếu nhi sau khi đọc
3

Mục đích đọc sách của thiếu nhi

47

4

Lí do đọc sách của thiếu nhi

48

5

Lợi ích thu được từ việc đọc sách của thiếu nhi


49

6

Hoạt động của thiếu nhi trong thời gian rảnh rỗi

51

7

Học lực của học sinh

53

8

Thời gian đọc sách của học sinh

54

9

Nội dung được các em quan tâm khi đọc sách

56

10

Thể loại tác phẩm văn học các em thích đọc


57

11

Các yếu tố thiếu nhi dựa vào để lựa chọn sách đọc

58

12

Khả năng vận dụng kiến thức đã đọc vào học tập của

63

thiếu nhi
13

Thái độ ứng xử của thiếu nhi với tài liệu đọc

66


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa đọc có vị trí hết sức quan trọng trong đời sống của con người.
Đó là một trong những động lực thúc đẩy sự hình thành nên con người mới,
những cơng dân có hiểu biết, có trí tuệ để có thể thích ứng với sự phát triển
của xã hội. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển ngày càng mạnh
mẽ của các phương tiện thông tin đại chúng, dưới sự hỗ trợ của cơng nghệ

hiện đại như truyền hình, internet,… thì đọc vẫn là cách thức chủ yếu để con
người tiếp nhận thông tin, tri thức, kinh nghiệm, đảm bảo vận hành có hiệu
quả các hoạt động khác nhau trong xã hội.
Cuộc sống ngày càng hiện đại thì càng địi hỏi con người phải ngày một
nâng cao tri thức. Đọc là một dạng lao động trí óc, món ăn tinh thần rất cần
thiết và hữu ích. Nó dẫn ta tới kho tàng trí thức bao la của nhân loại, từ đó
mỗi người khơng chỉ tiếp nhận những ý tưởng và kinh nghiệm q báu đã
được tích lũy, mà cịn có thể tìm thấy nhiều nguồn vui, khả năng nhìn nhận và
cảm thụ cái đẹp. Hoạt động tư duy và đón nhận khoái cảm thẩm mĩ là hai mặt
hợp thành một chỉnh thể của việc đọc.
Sách báo là phương tiện chứa đựng và chuyển tải nguồn tri thức vô tận
của nhân loại. Thông tin phản ánh trong sách báo phong phú, đa dạng về nội
dung, đề cập đến mọi vấn đề trong các lĩnh vực của thế giới tự nhiên, của con
người và xã hội. Sách báo cung cấp các thông tin về khoa học và đời sống, về
kĩ thuật và cơng nghệ, về giáo dục và giải trí… phục vụ đa dạng các lứa tuổi,
tầng lớp và thành phần xã hội. Đặc biệt, trong thời đại nay, thực tế không ai
phủ nhận những lợi ích tích cực của các phương tiện truyền thông đa phương
tiện đem lại: sự nhanh nhạy, thông tin nhiều chiều hết sức phong phú và hấp
dẫn. Không đơn thuần là đọc trên giấy, ngày nay người ta có thể tranh thủ đọc
qua tivi, qua phim chuyển thể từ tác phẩm văn học, qua internet… Tuy nhiên,
vấn đề chúng ta đọc gì và đọc như thế nào để phù hợp với nhu cầu đọc của


các tầng lớp, thành phần lứa tuổi; để phát huy vai trị và giá trị tích cực của
sách báo, tài liệu nhằm nâng cao trình độ nhận thức và hiểu biết, thực hiện
nguyên lí giáo dục và tự giáo dục của q trình xã hội hố, góp phần hình
thành năng lực sáng tạo và hoàn thiện nhân cách của đội ngũ độc giả là vấn đề
cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc.
Tóm lại, muốn xây dựng và phát triển bền vững thì phải có tri thức.
Sách là nguồn tri thức. Văn hóa đọc có tác dụng thúc đẩy việc khai thác, sử

dụng ngồn tri thức đó. Bởi vậy, phát triển văn hóa đọc phải được coi là nhiệm
vụ chiến lược quan trọng, phải được sự quan tâm thường xuyên, sự đóng góp
tích cực của các cấp lãnh đạo, quản lí từ Trung ương đến cơ sở, của các cơ
quan hữu trách, đặc biệt là các thư viện và các cơ quan thông tin.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não về chính trị, ngoại giao, kinh tế và
văn hố của đất nước. Trong đó, quận Hồn Kiếm là quận trung tâm của
thành phố – nơi tập trung nhiều đầu mối giao thơng quan trọng, nhiều cơ quan
quản lí Nhà nước, các Bộ, Ban ngành, với dân cư đông đúc. Đồng thời, đây
cũng là vùng đất của những di tích văn hóa – lịch sử. Đặc biệt, trong bối cảnh
phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa và mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế hiện nay, sự phát triển tiến bộ
vượt bậc của công nghệ thông tin, sự phong phú, đa dạng của các phương tiện
truyền thông và sản phẩm của các ngành cơng nghiệp văn hố đã tạo nên sự
biến đổi sâu sắc và mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nơi đây.
Nhu cầu vật chất của con người không ngừng được nâng cao, nhu cầu tinh
thần của con người trở nên phong phú và đa dạng.
Mặt khác, sự cạnh tranh giữa sách báo điện tử với sách báo phổ thơng
truyền thống, giữa hình thức thể hiện nội dung thông tin, giữa các phương tiện
giải trí phổ thơng và hiện đại trong thực tế diễn ra rất phức tạp. Sự đan xen
lệch chuẩn giữa các giá trị tích cực và tiêu cực, giữa các chuẩn mực xã hội và
những sở thích, thị hiếu khơng lành mạnh đã tác động và ảnh hưởng trực tiếp
đến tư tưởng, tình cảm, đến đạo đức, lối sống và thuần phong mĩ tục của dân


tộc Việt Nam, có nguy cơ trở thành vấn nạn của đời sống xã hội. Đó cũng là
tiếng cịi báo động cần có sự quản lí triệt để của Nhà nước, sự quan tâm chỉ
đạo của các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể và của toàn xã hội trong
q trình tiêu dùng, hưởng thụ văn hố của các tầng lớp, thành phần, lứa tuổi
hiện nay, nhất là lứa tuổi thiếu nhi. Bởi các em đang ở độ tuổi ham đọc, tò
mò, ham hiểu biết và lĩnh hội “học theo” một cách nhanh nhất. Tuy nhiên,

những trò chơi điện tử, nghe nhạc, đã cuốn trẻ nhỏ theo một xu hướng khác.
Trẻ chơi game cao tốc, đọc truyện tranh nhiều hơn là đọc những truyện cổ
tích và những tác phẩm văn học hay. Thậm chí nhiều loại truyện “sặc” mùi
bạo lực, đánh nhau và chém giết, có truyện ma li kì, trinh thám kéo dài cả
trăm tập… được các em rất ưa chuộng.
Lúc sinh thời, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã căn dạy: “Vì lợi ích
mười năm trồng cây/ Vì lợi ích trăm năm trồng người”. Bác đã đặt niềm tin và
hi vọng rất lớn ở lứa tuổi thiếu nhi: “Non sơng Việt Nam có trở nên vẻ vang
hay khơng, dân tộc Việt Nam có thể sánh vai với các cường quốc năm châu
được hay không là nhờ ở công học tập của các cháu” . Hiểu rõ ý nghĩa và để
thực hiện lời căn dạy thiêng liêng ấy, chúng tơi chọn đề tài: “Văn hố đọc của
thiếu nhi quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội hiện nay” làm luận văn thạc sĩ
văn hố học.
2. Tình hình nghiên cứu
Do nhận thấy vai trị quan trọng của văn hố đọc đối với việc học tập,
nghiên cứu, lao động, sáng tạo cũng như việc nâng cao đời sống văn hoá tinh
thần cho mọi người, vậy nên trong những gần đây vấn đề này đã dành được
được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cả trong và ngồi nước.
Có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu khoa học điển hình như: “ Giáo
dục văn hố đọc cho lứa tuổi thiếu nhi” của tác giả “Trần Thị Minh Nguyệt”;
“Văn hố đọc trong bối cảnh bùng nổ truyền thơng” của Nguyễn Hữu Giới. “Tìm
hiểu đặc trưng của văn hố đọc” của Vũ Đàm, “Văn hoá đọc đối với lứa tuổi


măng non hiện nay” của Mỹ Linh, “Đọc sách và văn hoá đọc trong thư viện”
của Bùi Văn Vượng…
Một số luận văn thạc sĩ chuyên ngành văn hoá học và khoa học thư
viện đề cập đến văn hoá đọc như: “Văn hố đọc trong đời sống thiếu nhi hơm
nay” (2003) của Phạm Quang Vinh; “Văn hoá đọc trong thanh niên học sinh
trung học phổ thông Hà Nội hiện nay” (2005) của Vũ Như Trừ; “Nghiên cứu

phát triển văn hoá đọc cho học sinh phổ thông tiểu học trong thư viện tại Thủ
đô Viêng Chăn” (2006) của Onta Samuntry; “Nghiên cứu phát triển văn hố
đọc cho học sinh phổ thơng bậc trung học cơ sở tỉnh Cà Mau” (2007) của Lê
Mộng Đài Trang; “Nghiên cứu văn hoá đọc của học sinh tiểu học trên địa bàn
thành phố Hà Nội” (2009) của Nguyễn Như Ngọc.
Các cơng trình trên chưa có cơng trình nào đề cập một cách tồn diện và có
hệ thống đến thực trạng văn hoá đọc của lứa tuổi thiếu nhi ở quận Hoàn Kiếm,
thành phố Hà Nội hiện nay nói riêng và trên tồn địa bàn Thủ đơ nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò của văn hóa đọc đối với lứa tuổi thiếu
nhi ở đơ thị, luận văn đã đi sâu nghiên cứu thực trạng văn hóa đọc của lứa
tuổi thiếu nhi ở quận Hồn Kiếm, thành phố Hà Nội hiện nay, từ đó đề xuất
giải pháp nâng cao chất lượng văn hóa đọc cho lứa tuổi này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm sáng tỏ thực trạng của văn hoá đọc và những nguyên nhân tác
động đến văn hoá đọc ở lứa tuổi thiếu nhi hiện nay.
Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả văn hoá đọc trong lứa
tuổi thiếu nhi trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội hiên nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu


Đề tài đi sâu nghiên cứu hoạt động đọc và sự tác động của nó đối với
lứa tuổi thiếu nhi ở quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khơng gian: Trên địa bàn quận Hồn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Thời gian: Năm năm gần đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vận biện chứng và

duy vật lịch sử, chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Dựa trên cơ sở khoa học liên ngành và chuyên ngành như tâm lí học,
mĩ học, kinh tế học, văn hoá học, xã hội học; đồng thời kết hợp các phương
pháp nghiên cứu cụ thể:
Khảo sát thực địa và nghiên cứu trường hợp
Lập biểu mẫu điều tra xã hội học
Tổng hợp, phân tích và xử lí nguồn tư liệu.
6. Đóng góp của đề tài
Trên cơ sở tìm hiểu và kế thừa các cơng trình nghiên cứu đi trước, luận
văn sẽ góp phần làm rõ hơn các biểu hiện của văn hoá đọc trong lứa tuổi thiếu
nhi ở quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội hiện nay.
Góp phần định hướng cho thiếu nhi trong quá trình tự học; từ đó hình
thành những tình cảm, nhân cách sống cao đẹp cho các em ngay từ khi cịn
ngồi trên nghế nhà trường.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu 3 chương:
Chương 1: Văn hóa đọc và khái lược về thiếu nhi quận Hoàn Kiếm,
thành phố Hà Nội.


Chương 2: Thực trạng văn hoá đọc của lứa tuổi thiếu nhi ở quận
Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội hiện nay.
Chương 3: Các giải pháp phát triển văn hoá đọc cho lứa tuổi thiếu
nhi ở quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội hiện nay.


Chương 1
VĂN HÓA ĐỌC VÀ KHÁI LƯỢC VỀ THIẾU NHI

QUẬN HỒN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Những vấn đề lí luận về văn hóa đọc
1.1.1. Khái niệm văn hóa và văn hóa đọc
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
Như chúng ta đã biết, văn hóa đọc là một trong những nhân tố cấu
thành nên đời sống văn hóa của con người và xã hội. Vì vậy, để làm rõ quan
niệm về văn hóa đọc, trước hết chúng ta cần tiếp cận khái niệm văn hóa.
Sự ra đời và phát triển của lồi người cũng như của mỗi quốc gia, dân
tộc đều gắn liền với văn hóa.Văn hóa là nền tảng tinh thần, là động lực to lớn
thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.Văn hóa có mối quan hệ sâu sắc và biện chứng đến
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, của con người.
Văn hóa là một khái niệm phức tạp, đa nghĩa. Bước vào thế kỉ XX,
thuật ngữ văn hóa đã dần dần thâm nhập vào đời sống xã hội một cách sâu
sắc, đồng thời nó cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học xã hội và nhân văn. Đây là một thuật ngữ mang sắc thái nghĩa hết sức
phong phú và đa dạng.
Chẳng hạn, trong đời sống hàng ngày, chúng ta có thể thấy mọi người
vẫn thường nói đến: văn hóa tình cảm, văn hóa giao tiếp, văn hóa ứng xử, văn
hóa tranh luận, văn hóa phê bình,… Từ văn hóa ở đây nói về phép lịch sự, sự
lễ độ, khiêm nhường biết kiềm chế cá nhân trong các mối quan hệ ứng xử xã
hội. Gần đây, cịn nói đến: văn hóa chính trị, văn hóa quản lí, văn hóa kinh
doanh… Từ văn hóa trong hồn cảnh này chỉ khía cạnh thành thục, lão luyện
của con người trong các lĩnh vực hoạt động đó. Ví như, thuật ngữ “văn hóa
kinh doanh”cũng có thể hiểu là “nghệ thuật kinh doanh” là theo nghĩa ấy.
Chúng ta còn bắt gặp từ văn hóa trong các thuật ngữ như: văn hóa gia
đình, văn hóa làng xã, văn hóa vùng, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa giao


thơng, văn hóa Thái, văn hóa Việt Nam, văn hóa Trung Hoa, văn hóa Ấn
Độ,… Ở đây, từ văn hóa đã được ghép với các thể cộng đồng người, chỉ một

phức thể những đặc điểm vật chất và tinh thần làm nên bản sắc văn hóa của
một cộng đồng xã hội nhất định. Nó trở thành dấu hiệu dùng để phân biệt
cộng đồng này với cộng đồng khác. Chẳng hạn, có thể xem luật tục, hương
ước là một đặc điểm văn hóa và là đặc điểm chính của văn hóa làng xã cổ
truyền Việt Nam.
Cuối cùng, từ văn hóa cịn dùng để chỉ trình độ học vấn của cá nhân,
được ghi trong lí lịch của cán bộ, viên chức.
Hiện nay, trên thế giới có hàng trăm định nghĩa về văn hóa, dưới các
góc độ nhìn nhận khác nhau.
Trong tiếng Việt, “Văn hóa” được dùng theo nghĩa thơng dụng để chỉ
học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chun
biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn văn hóa (văn hóa Đơng
Sơn,...); theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm tồn bộ các giá trị vật chất và giá
trị tinh thần do con người sáng tạo nên.
Theo ông F.May-ơ – Tổng giám đốc UNESCO: “Văn hóa là tổng thể
sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế
kỉ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống giá trị, các truyền
thống và các thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”.
Với cách quan niệm trên, định nghĩa văn hóa của F.May-ơ đã nhấn mạnh vào
hoạt động sáng tạo trong lịch sử, nhằm hình thành nên hệ thống giá trị xã hội.
Theo Đào Duy Anh: “Văn hóa tức là sinh hoạt.”. Hai từ văn hóa ở đây
chỉ chung mọi phương diện sinh hoạt hay cũng có thể nói là mọi hoạt động
trong đời sống văn hóa của con người, trong đó có văn hóa đọc.
1.1.1.2. Khái niệm văn hóa đọc
Văn hóa đọc cũng chính là một bộ phận văn hóa của con người được
trao truyền qua rất nhiều thế hệ.


Từ khi có chữ viết ra đời, hoạt động đọc của con người cũng xuất
hiện. Theo từ điển tiếng Việt của viện ngơn ngữ học thì “đọc là phát thành

lời những điều đã được viết ra theo đúng trình tự, tiếp nhận nội dung của
một tập hợp kí hiệu bằng cách nhìn vào các kí hiệu”(tr.81). Đọc sách là một
thuật ngữ chỉ hoạt động đọc đơn thuần. Việc đọc diễn ra chỉ cần chủ thể biết
chữ, biết đọc, có sách, và có mơi trường để đọc, khơng nhất thiết địi hỏi về
trình độ và cũng khơng đặt ra u cầu về mục đích đọc. Khi con người sáng
tạo ra ngơn ngữ cũng đồng nghĩa với sự ra đời của văn hóa đọc. Văn hóa đọc
gắn liền với chữ viết, giấy, bút, mực, in ấn, xuất bản. Công nghệ in ấn càng
phát triển thì hoạt động đọc của con người ngày càng trở nên phổ biến hơn
trong xã hội. Như chúng ta đã biết, sách báo là sản phẩm trí tuệ đặc biệt của
con người, nó chứa đựng tri thức, tư tưởng, văn hóa của nhân loại, nhằm
giúp con người hiểu biết về tự nhiên và xã hội. Sách báo cung cấp cho con
người những tri thức khoa học kĩ thuật, chính trị, kinh tế, văn học nghệ
thuật,… lưu giữ các kinh nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất và chiến đấu
mà con người đã tích lũy được và đúc kết lại trong q trình sống. Thơng
qua hoạt động đọc, các tri thức này được trao truyền từ đời này sang đời
khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Bước vào thế kỉ XXI, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học
cơng nghệ, các hình thức và phương tiện giúp con người tiếp cận với tri thức
ngày càng phong phú, đa dạng. Hoạt động đọc trở nên không thể thiếu trong
đời sống của mỗi cá nhân và là biểu hiện sinh động hành vi văn minh của cả
cộng đồng, xã hội. Văn hóa đọc đã hình thành như một tất yếu, thể hiện trình
độ văn hóa của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Nhờ có văn hóa đọc và hoạt động đọc mà những giá trị văn minh,
những tinh hoa văn hóa được truyền lại cho thế hệ sau. Từ xa xưa, các bậc
tiền bối cũng đã khẳng định vai trò quan trọng của việc đọc trong đời sống xã
hội và trong sự phát triển của mỗi cá nhân. Nhiều bậc vĩ nhân trong lịch sử
cũng đã đề cao sức mạnh của sách và việc đọc sách. Chủ tịch Hồ Chí Minh


khẳng định: “Sách là thuốc bổ tinh thần, sách là thuốc chữa tội ngu”.

V.I.Lênin cho rằng: “Khơng có sách thì khơng có tri thức. Khơng có tri thức
thì khơng có chủ nghĩa cộng sản”… Hay gần đây nhất, nhà nghiên cứu
Nguyễn Trung cũng nêu ý kiến: “Đọc sách là con đường ngắn nhất đi tới hiểu
biết cuộc sống đang ngày càng mở rộng với vận tốc ngày càng nhanh.”… Từ
đó, có thể đúc kết lại: văn hóa đọc là nền tảng, là cơ sở cho sự phát triển
những ý tưởng sáng tạo, góp phần nâng cao dân trí, đồng thời cũng là phương
tiện lưu giữ tri thức, kinh nghiệm cho các thế hệ. Và vì thế, văn hóa đọc là
một nét đẹp truyền thống của mỗi dân tộc.
Do ảnh hưởng của những quan niệm khác nhau về văn hóa như đã nói
ở trên, nên có nhiều cách hiểu khác nhau về văn hóa đọc. Tuy nhiên, có thể
khái quát những quan điểm đó trong hai khuynh hướng chính. Khuynh hướng
thứ nhất coi văn hóa đọc đồng nghĩa với nhu cầu đọc (đọc gì?). Khuynh
hướng thứ hai coi văn hóa đọc khơng chỉ là đọc gì, mà cịn là và chủ yếu là
đọc như thế nào, lĩnh hội và cảm thụ nội dung sách ở mức độ nào, đồng thời
bao hàm cả thái độ ứng xử với sách báo của người đọc.
Xét ở bình diện văn hóa cộng đồng, văn hóa đọc có thể coi là một bước
tiến trong nền văn minh nhân loại, tương ứng với nó là văn hóa viết (written
culture), và tiếp sau nó sẽ là sự phát triển chiếm ưu thế của văn hóa nghe nhìn (audiovisual culture), văn hóa máy tính (computer culture)… cùng với
sự phát triển và phổ biến của các phương tiện truyền thông hiện đại.
Xét ở bình diện văn hóa cá nhân, đọc là một hoạt động phản ánh khả
năng nhận thức và sức mạnh tinh thần của mỗi con người cụ thể. Đọc sách là
một loại hoạt động tinh thần hết sức phức tạp của con người, có sự tham gia
của các yếu tố tâm lí: cảm giác, tri giác, biểu tượng, trí nhớ, tư duy… trong đó
ngơn ngữ đóng vai trị quan trọng. Là một loại hoạt động bên trong bị chi phối
bởi tính chất các q trình tâm lí, các thuộc tính tâm lí cá nhân và hệ thống tri
thức, kinh nghiệm của họ, hoạt động đọc hướng vào làm thay đổi chính chủ


thể. Kết quả của hoạt động đọc là tri thức, giá trị văn hóa, thẩm mĩ, kinh
nghiệm xã hội trong sách báo được chủ thể lĩnh hội đã tác động, cải biến năng

lực và các phẩm chất của chính chủ thể, trong khi đó đối tượng của hoạt động,
tức là nội dung tri thức, các giá trị văn hóa, kinh nghiệm trong sách báo khơng
hề bị hao mịn hay mất mát đi. Mặt khác, nhu cầu đọc các loại sách khác
nhau, đặc biệt là mức độ hiểu, cảm thụ, lĩnh hội nội dung tài liệu phản ánh
một cách rõ nét nhất tri thức, kinh nghiệm, thị hiếu, khả năng sáng tạo của
mỗi cá nhân. Sẽ là phiến diện nếu chỉ xem xét văn hóa đọc đơn thuần ở mức
độ giá trị được thể hiện trong đối tượng mà chủ thể của q trình đọc sách
hướng tới. Văn hóa đọc cần phải được hiểu một cách toàn diện hơn, cả ở giá
trị của đối tượng đọc (sách báo), cả ở trình độ, khả năng cảm thụ và thái độ
ứng xử với sách báo của chủ thể quá trình đọc (người đọc). Văn hóa đọc vì
vậy là phương tiện quan trọng để mỗi người trong xã hội chúng ta, đặc biệt là
thế hệ trẻ, tiếp thu tinh hoa tri thức và các giá trị văn hóa của nhân loại để
hồn thiện nhân cách, phát triển xã hội.
Ở Việt Nam, văn hóa đọc cũng chính là đề tài được nhiều nhà khoa học
quan tâm và đề cập đến trong những năm gần đây. Mặc dù có nhiều quan
điểm khác nhau, phụ thuộc vào những khía cạnh họ quan tâm khi nói đến văn
hóa đọc, song vẫn nổi bật lên hai khuynh hướng cơ bản. Khuynh hướng thứ
nhất là cách tiếp cận văn hóa đọc theo đối tượng đọc mà người đọc hướng tới.
Khuynh hướng thứ hai, xem xét vấn đề văn hóa đọc một cách bao quát hơn
với tư cách là một bộ phận văn hóa hành vi con người.
Khuynh hướng thứ hai xem xét việc đọc dưới các khía cạnh đa dạng và
tổng hợp hơn so với khuynh hướng thứ nhất. Theo quan điểm này, văn hóa
đọc bao gồm các khía cạnh: đọc cái gì (nhu cầu đọc, hứng thú đọc, cách lựa
chọn tác phẩm để đọc…), đọc như thế nào (phương pháp đọc, kĩ năng đọc,
khả năng cảm thụ nội dung đọc, xử lí thơng tin) và thái độ ứng xử với tài liệu
của chủ thể đọc.


Văn hóa đọc khơng chỉ thể hiện ở số lượng tài liệu đã đọc mà cịn địi
hỏi cao hơn, đó là: trong số tài liệu đã đọc thì có bao nhiêu tài liệu thực sự

phù hợp với người đọc và làm họ say mê, hứng thú khi đọc. Đọc ít mà suy
ngẫm hơn là đọc nhiều mà lướt qua vội vàng. Văn hóa đọc cịn đặt ra câu hỏi
phải trả lời là: những kiến thức, kinh nghiệm tích lũy được từ việc đọc giúp
ích gì cho mọi hoạt động trong cuộc sống của người đọc? Kết quả sự vận
dụng sáng tạo những tri thức thu được từ việc đọc vào phục vụ cuộc sống,
công việc và học tập của người đọc chính là đáp án cho câu hỏi trên. Như vậy,
xét cho cùng, văn hóa đọc là hoạt động văn hóa của con người thơng qua việc
đọc sách, báo, tạp chí, tài liệu để tiếp nhận và xử lí các thơng tin, tri thức một
cách khoa học, bổ ích.
Tóm lại, văn hóa đọc là một khái niệm có hai nghĩa, một nghĩa rộng và
một nghĩa hẹp. Ở nghĩa rộng, đó là ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực đọc
của mỗi cá nhân, của cộng đồng xã hội và của các nhà quản lí và cơ quan
quản lí nhà nước. Văn hóa đọc ở nghĩa rộng là sự hợp thành của ba yếu tố,
hay chính xác hơn là ba lớp như ba vịng trịn khơng đồng tâm, ba vịng trịn
giao nhau. Cịn ở nghĩa hẹp, đó là ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi
cá nhân. Ứng xử, giá trị và chuẩn mực này cũng gồm ba thành phần: thói
quen đọc, sở thích đọc và kĩ năng đọc. Ba thành phần này cũng là ba lớp, ba
vòng trịn khơng đồng tâm, ba vịng trịn giao nhau.
1.1.2. Cơ cấu của văn hóa đọc
Như trên đã nói, cách tiếp cận văn hóa đọc theo khuynh hướng thứ hai:
xem xét vấn đề văn hóa đọc một cách bao quát hơn với tư cách là một bộ
phận văn hóa hành vi của con người, được tác giả luận văn lựa chọn làm quan
điểm xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu và giải quyết các vấn đề của luận
văn này.


Dựa trên quan điểm đó, văn hóa đọc được hình thành từ những yếu tố
quan trọng của quá trình đọc, gồm: nhu cầu, hứng thú đọc; kĩ năng đọc; và
thái độ ứng xử với tài liệu của người đọc.
Nhu cầu và hứng thú đọc

Đọc là quá trình tiếp thu, lĩnh hội tri thức và các giá trị văn hóa được
thể hiện trên tài liệu. Hoạt động đọc là hoạt động tinh thần bên trong của con
người, hoạt động này đòi hỏi sự tham gia trực tiếp của các yếu tố tâm lí như:
cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, ngơn ngữ [21]. Vì thế đọc là q trình tâm lí
đặc biệt của con người, trong đó khơng chỉ có sự tham gia của các q trình
nhận thức cảm tính, lí tính mà cịn chịu sự chi phối của các trạng thái tâm lí và
các thuộc tính tâm lí cá nhân.
Kết quả của hoạt động đọc là tri thức, giá trị văn hóa, kinh nghiệm xã
hội chứa đựng trong tài liệu được người đọc lĩnh hội, vận dụng vào cuộc sống
và làm thay đổi nhận thức, hành vi của họ theo hướng tích cực; đồng thời
những nội dung mà người đọc thu nhận được từ tài liệu không hề bị mất đi mà
trái lại còn được phổ biến rộng rãi, sản sinh ra nhiều hơn.
Hoạt động đọc của con người được thực hiện khi có nhu cầu. Nhu cầu
chủ yếu xuất phát từ động cơ bên trong nhưng đôi khi cũng do tác động của
những động cơ bên ngoài. Bất kì ai làm bất cứ việc gì cũng đều có động cơ,
và việc đọc cũng vậy. Động cơ là một nguyện vọng sinh lí của con người, sự
thúc đẩy của động cơ làm cho con người cố gắng tìm mọi cách thực hiện
nguyện vọng đó. Động cơ của việc đọc là do sự ham muốn tìm hiểu những tri
thức mới hoặc sự hiếu kì muốn khám phá những điều chưa biết tạo nên.
Nhu cầu đọc là đòi hỏi khách quan của con người đối với việc tiếp nhận
và sử dụng tài liệu nhằm duy trì và phát triển hoạt động sống. Con người
muốn vươn lên, muốn hiểu biết, chúng ta cần tiếp nhận thông tin, tri thức qua
lao động, học tập, qua việc đọc sách báo, tài liệu.


Nhu cầu đọc là thái độ nhận thức hoặc cảm thụ của người đọc, có thể là
một cá nhân, một tập thể xem việc đọc như một hoạt động không thể thiếu
trong cuộc sống và trong sinh hoạt hàng ngày của họ mà nhờ đó các nhu cầu
giao tiếp, nhận thức, thẩm mĩ được thỏa mãn. Nhu cầu đọc thuộc về bản thân
người đọc. Nhu cầu đọc chỉ xuất hiện khi bản thân người đọc cảm nhận được

việc đọc chính là chất dinh dưỡng nuôi dưỡng tinh thần không thể thiếu trong
đời sống thường nhật của họ.
Theo Maslow (1908 – 1970), nhà tâm lí học người Mĩ chuyên nghiên
cứu về “phát triển và nhu cầu” thì con người có bảy nhu cầu căn bản, trong
đó có nhu cầu tăng thêm và nhu cầu giảm dần. Tất cả các nhu cầu này cần
phải được thỏa mãn đồng thời với sự phát triển của cá nhân. Trong số nhu cầu
tăng thêm có nhu cầu về tri thức, càng được thỏa mãn càng tăng lên. Đọc sách
báo, tạp chí, tài liệu chính là phương thức tốt nhất để thu nhận tri thức. Do
vậy nhu cầu đọc thuộc loại nhu cầu tăng thêm. Người đọc nếu biết thưởng
thức tác phẩm, càng đọc sẽ càng tỏ ra thích thú và muốn đọc tiếp [24].
Nhu cầu đọc là loại nhu cầu tinh thần đặc biệt của con người. Nó xuất
phát từ nhu cầu nhận thức, nhu cầu giao tiếp và nhu cầu thẩm mĩ. Đọc không chỉ
là để nhận thức mà còn là để cảm nhận, thấu hiểu, thưởng thức một vẻ đẹp, một
giá trị. Nhu cầu đọc thường xuất hiện và được duy trì ổn định ở những người có
đời sống tinh thần phát triển cao. Nhu cầu đọc bắt nguồn từ yêu cầu của các hoạt
động khác nhau trong đời sống của mỗi người và chịu sự ảnh hưởng trực tiếp
của các điều kiện xã hội. Điều này được thể hiện qua nội dung và phương thức
mà xã hội thỏa mãn nhu cầu đọc cho người đọc. Nhu cầu đọc nếu được đáp ứng
thường xuyên, đầy đủ thì sẽ ngày càng phát triển và bền vững; ngược lại nếu
khơng được đáp ứng thì lâu dần sẽ suy giảm và mất đi.
Đọc là quá trình tiếp thu, lĩnh hội tri thức và các giá trị văn hóa được
thể hiện trên tài liệu.


Nội dung nhu cầu đọc xuất phát từ yêu cầu của hoạt động sống. Nội
dung đọc vì thế mà liên quan chặt chẽ đến hoạt động chủ đạo của chủ thể đọc.
Chẳng hạn, nếu hoạt động chủ đạo của chủ thể đọc là học tập thì các loại tài
liệu có nội dung liên quan đến chương trình học tập, các loại tài liệu tham
khảo, sách hướng dẫn học tập, sách giáo khoa… được chủ thể đọc quan tâm
lựa chọn. Đây là vấn đề trọng tâm cần xem xét khi nghiên cứu phát triển văn

hóa đọc cho các đối tượng người đọc khác nhau.
Khi đọc sách, báo, tài liệu kèm theo cảm xúc thì khi đó hứng thú đọc sẽ
xuất hiện.
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với một đối tượng nào đó
vừa có ý nghĩa trong đời sống vừa có khả năng đem lại cho nó những khối
cảm. Hứng thú có quan hệ mật thiết với nhu cầu. Nhu cầu có thể khơng có
yếu tố hấp dẫn, tức là khơng có hứng thú [4].
Hứng thú đọc là thái độ lựa chọn tích cực của chủ thể đối với việc đọc
những tài liệu có ý nghĩa và có sức hấp dẫn về mặt tình cảm và đáp ứng được
nhu cầu về mặt tinh thần đối với chủ thể. Với đối tượng người đọc ở độ tuổi
thiếu nhi được nghiên cứu trong luận văn này thì hứng thú đọc của các em bị
chi phối bởi nhiều yếu tố: đặc điểm lứa tuổi, giới tính, khả năng học tập, hồn
cảnh kinh tế gia đình…
Nhu cầu và hứng thú đọc là nguồn gốc tích cực quyết định hiệu quả của
hoạt động đọc, đồng thời cũng là hai khái niệm luôn đi đôi với nhau trong
việc nghiên cứu hoạt động đọc của tất cả mọi thành phần người đọc. Nhu cầu
đọc là nhân tố duy trì sự tồn tại và phát triển của văn hóa đọc, cịn hứng thú
đọc là yếu tố kích thích sự phát triển của văn hóa đọc. Hứng thú đọc có vai trị
rất quan trọng đối với việc hình thành và phát triển nhu cầu đọc, nhất là đối
với lứa tuổi thiếu nhi. Hoạt động đọc của các em thường chịu sự chi phối rất
mạnh của của yếu tố cảm xúc, hứng thú… Vì thế nếu biết cách khơi nguồn
hứng thú đọc thì nhu cầu đọc sẽ được hình thành và duy trì lâu bền.


Trong q trình đọc, con người ngày càng hồn thiện các kĩ năng đọc
để việc đọc đạt hiệu quả cao nhất. Đó là kĩ năng lựa chọn sách phù hợp với
lứa tuổi, với vấn đề, với lĩnh vực mà mình quan tâm, biết sàng lọc các loại tài
liệu có nội dung lành mạnh, khoa học; đồng thời biết loại bỏ những tài liệu,
sách báo có nội dung lệch lạc, phản khoa học… Và khi việc lựa chọn tài liệu
một cách chính xác, phù hợp, đạt được hiệu quả cao trong q trình đọc thì nó

sẽ là một thành tố quan trọng để chủ thể đọc có văn hóa đọc.
Kĩ năng đọc
Kĩ năng, kĩ xảo là con đường dẫn tới thành công trong mọi lĩnh vực của
cuộc sống. Hiệu quả của mỗi hoạt động thường có vai trị rất lớn của yếu tố kĩ
năng, kĩ xảo chứ không chỉ đơn thuần là dựa vào năng lực.
Kĩ năng là khả năng, trình độ kĩ thuật, thao tác vận dụng năng lực vào
thực tiễn của từng cá nhân. Nếu chỉ có tri thức mà khơng có phương pháp vận
dụng sáng tạo, phù hợp tri thức đó vào cơng việc để mang lại hiệu quả nhất
định thì khơng thể xem là có năng lực. Phương pháp đúng đắn là yếu tố quyết
định để tiếp thu và vận dụng được những tri thức cần thiết cho cơng việc và
đời sống của chính mình.
Như vậy, kĩ năng đọc là yếu tố quan trọng tạo nên hiệu quả cho hoạt
động đọc. Kĩ năng đọc là khả năng hiểu biết, lĩnh hội, cảm thụ được nội dung
có trong tài liệu, biến tri thức, kinh ngiệm trong tài liệu thành tri thức, kinh
nghiệm của bản thân chủ thể đọc; đồng thời có thể vận dụng những tri thức,
kinh nghiệm ấy vào những hoạt động sống khác nhau nhằm làm phong phú
hơn cho cuộc sống vật chất và tinh thần của chủ thể đọc. Kĩ năng đọc phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như tri thức, kinh nghiệm, năng lực… của mỗi cá nhân
người đọc trong quá trình rèn luyện lâu dài mới có được. Người đọc có khả
năng tập trung chú ý cao, có hiểu biết sâu rộng, và kinh nghiệm sống phong
phú sẽ cảm thụ, lĩnh hội nội dung tài liệu ở mức độ cao hơn.


Một trong những yếu tố quan trọng trong phương pháp đọc là phải độc
lập suy nghĩ khi đọc để tiếp thu sâu sắc nội dung tri thức đã đọc. Tri thức
phần nhiều do việc đọc mà tích lũy được, bởi chỉ khi đọc với sự suy nghĩ sâu
sắc mới thu nhận được tri thức một cách vững chắc, sự hiểu biết của chủ thể
đọc được nâng lên.
Khi lựa chọn nội dung để đọc phải chú ý đến thể loại của tài liệu, mỗi
loại tài liệu có một cách đọc khác nhau. Chẳng hạn, những quyển sách mang

nội dung tư tưởng rộng lớn địi hỏi phải có sự tập trung cao độ, suy ngẫm
nhiều lần, đào sâu suy nghĩ mới có thể lĩnh hội được hết ý nghĩa nội dung của
sách. Ngược lại, với loại sách thể hiện nhiều quan điểm không rõ ràng,
phương pháp luận chứng thiếu logic, người đọc cần có thái độ phê phán. Sách
có nội dung vừa tích cực, vừa tiêu cực thì địi hỏi người đọc phải biết cách
tiếp thu những tinh hoa, đòng thời loại bỏ những phần tiêu cực. Thậm chí có
những quyển sách khơng nên đọc vì có nội dung vơ bổ, khơng mang lại lợi
ích gì cho người đọc mà chỉ làm tiêu phí thời gian.
Để cho việc đọc khơng bị gián đoạn, cần phải có kế hoạch cụ thể. Khi
chủ thể đọc biết cách lựa chọn nội dung đọc phù hợp nhu cầu và đọc có hiệu
quả thì kĩ năng đọc đã hình thành.
Với lứa tuổi thiếu nhi nói riêng, do có những đặc điểm đặc thù nhất
định về tâm sinh lí lứa tuổi nên rất cần sự tác động tích cực vào quá trình đọc,
tổ chức hoạt động đọc một cách khoa học giúp các em hình thành, phát triển
nhu cầu đọc lành mạnh. Đồng thời điều chỉnh nhu cầu, hứng thú đọc lệch lạc
nhằm biến hoạt động đọc thành hoạt động thường xuyên mang lại lợi ích thiết
thực cho cuộc sống của các em. Về kĩ năng đọc, các em ở lứa tuổi thiếu nhi đa
số là thích đọc sách nhưng thường chưa biết lựa chọn nội dung phù hợp vì các
em cịn ít kinh nghiệm, thói quen đọc chưa ổn định do đặc điểm lứa tuổi là
hiếu động, hay thay đổi và phương pháp đọc còn kém hiệu quả cho nên rất


cần được sự quan tâm giáo dục, uốn nắn từ nhiều phía, nhất là từ cha mẹ, thầy
cơ giáo và đội ngũ cán bộ thư viện.
Trước hết, trong gia đình, phụ huynh cần có sự động viên, khuyến khích
các em đọc sách, tạo thói quen đọc cho các em và hướng dẫn phương pháp đọc
phù hợp với thể trạng và sở thích của con em mình. Các bậc cha mẹ phải định
hướng, tư vấn, giúp đỡ các em lựa chọn sách có nội dung và hình thức lành
mạnh, bổ ích, phải tích cực trong việc mua hoặc mượn sách cho các em.
Về phía nhà trường, thầy cơ giáo cần khuyến khích, hướng dẫn các em

đọc những quyển sách, tài liệu có ích, bổ trợ cho chương trình học trên lớp
cũng như giúp hoàn thiện nhân cách của các em; giới thiệu tên những tài liệu
cần thiết, có nội dung phù hợp và địa chỉ cụ thể để các em dễ dàng tìm đọc.
Rèn luyện kĩ năng đọc cho thiếu nhi cịn thuộc về chức năng của ngành
thư viện, có thể thấy rõ qua các hoạt động phục vụ thiếu nhi của hệ thống thư
viện cơng cộng. Ngồi ra, cha mẹ, thầy cơ giáo hoặc cán bộ thư viện cịn phải là
những người hỗ trợ các em trong việc lĩnh hội, phân tích nội dung tài liệu đã đọc,
giúp các em có cách hiểu đúng về nội dung đó, nâng cao khả năng nhận thức,
năng lực cảm thụ tác phẩm và ứng dụng vào việc học tập có kết quả.
Như vậy, việc rèn luyện cho các em kĩ năng đọc, bao gồm: phương
pháp đọc, khả năng lĩnh hội tri thức trong tài liệu đọc và vận dụng những tri
thức đó vào các hoạt động sống và học tập của các em là vấn đề cấp bách phải
thực hiện nhằm phát triển văn hóa đọc cho các em ở lứa tuổi thiếu nhi. Đọc
như thế nào để hiểu và vận dụng những hiểu biết đó một cách sáng tạo vào
thực tiễn để mang lại kết quả là yêu cầu cao nhất của phát triển văn hóa đọc
nói chung và văn hóa đọc cho thiếu nhi nói riêng.
Thái độ ứng xử với tài liệu đọc.
Văn hóa đọc cịn được thể hiện ở thái độ, hành vi của chủ thể đọc đối
với tài liệu đọc.


Như chúng ta vẫn thấy, thuật ngữ văn hóa ứng xử tồn tại hàng ngày
trong đời sống của con người. Văn hóa ứng xử chính là cách mà con người
thể hiện thái độ của mình với người khác và với mơi trường xung quanh một
cách thích hợp nhất [29].
Thái độ ứng xử là tâm trạng và hành vi của chủ thể với khách thể trong
hoạt động giao tiếp. Thái độ ứng xử của một cá nhân đối với cá nhân hoặc với
một đối tượng vật chất , tinh thần là sự biểu hiện tâm trạng, tình cảm và hành
động của cá nhân đó với đối tượng mà mình tiếp xúc.
Sách, báo, tài liệu là những sản phẩm văn hóa, do đó phải được ứng xử

có văn hóa. Ứng xử có văn hóa là phạm vi rộng và được nghiên cứu dưới
nhiều góc độ, đối tượng khác nhau. Ứng xử có văn hóa đối với tài liệu địi hỏi
người đọc phải có thái độ và hành vi phù hợp: biết trân trọng, giữ gìn tài liệu,
biết cách sử dụng tài liệu có hiệu quả mà khơng làm hư hỏng tài liệu, không
được chiếm giữ trái phép tài liệu, không phân biệt đó là tài sản riêng của cá
nhân hay là tài sản chung của cộng đồng. Ứng xử có văn hóa với tài liệu đọc
còn được thể hiện qua tư thế, tâm thế của người sử dụng, qua tác phong khi
đọc tài liệu.
Sách, báo, tài liệu là sản phẩm kết tinh các giá trị văn hóa, tinh hoa của
nhân loại, là tài sản tinh thần của thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau. Văn
hóa ứng xử với sách, báo, tài liệu thể hiện ở việc bạn có tơn trọng những cuốn
sách – sản phẩm trí tuệ của người khác hay khơng. Nói tới văn hóa ứng xử với
sách là nói tới việc bạn tiếp thu những thơng tin đó như thế nào, bạn đối xử
với cuốn sách đó ra sao.
Với lứa tuổi thiếu nhi nói riêng, nhìn chung các em đã có ý thức q
trọng, giữ gìn sách, báo, tài liệu trước, trong và sau khi đọc nhưng nhiều khi
đó cịn là những biểu hiện tự nhiên, tự phát, cần được bồi dưỡng, rèn luyện để
ý thức đó ngày càng được nâng cao và trở thành phong cách ứng xử có văn
hóa với mọi tài liệu.


Tóm lại, giáo dục cho thiếu nhi thái độ ứng xử có văn hóa với tài liệu
đọc là một yêu cầu quan trọng trong việc phát triển văn hóa đọc cho các em.
1.1.3. Vai trị của văn hóa đọc
1.1.3.1. Vai trị của văn hóa đọc nói chung
Văn hóa đọc có vai trò quan trọng đối với sự phát triển tinh thần của
con người nói chung, đồng thời là một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ
xã hội.
Văn hóa đọc góp phần nâng cao sự hiểu biết và làm phong phú đời
sống tinh thần cho con người. Bởi đọc có thể làm gia tăng tri thức, mà nhu

cầu tìm kiếm tri thức lại đóng một vai trị hết sức quan trọng trong lịch sử tồn
tại và phát triển của xã hội loài người, mối quan hệ giữa việc đọc và nhu cầu
nâng cao tri thức ngày càng rõ rệt.
Đặc biệt, trong thời đại kinh tế tri thức, yếu tố con người là nguồn nội
lực quan trọng để phát triển nền kinh tế quốc dân. Vậy nên, nếu văn hóa đọc
khơng phát triển thì con người sẽ khơng thể tiếp thu kịp thời thơng tin và tri
thức, vốn văn hóa hạn chế và lạc hậu thì khơng thể phát triển và hội nhập.
Việc tìm tịi tri thức, bồi dưỡng tài năng là việc cấp thiết của cả xã hội trong
thời đại nay. Sự phát triển của mỗi đất nước tỉ lệ thuận với hàm lượng tri thức
ẩn chứa trong mỗi cơng dân của đất nước đó. Khơng thể khơng khẳng định:
một quốc gia mà có nền văn hóa đọc phát triển thì đó là quốc gia có tiềm lực
mạnh về mọi mặt (kinh tế, khoa học, kĩ thuật, quân sự, nghệ thuật,…). Vậy
nên, muốn xã hội phát triển bền vững trong thời đại kinh tế tri thức cần vận
động mọi người rèn luyện thói quen đọc tập trung, chăm chú, tích lũy tri thức
một cách thiết thực, bổ ích. Những cuốn sách ln chứa đựng trong đó lượng
tri thức khổng lồ từ nhiều bộ môn khoa học khác nhau mà độc giả có thể dễ
dàng tìm thấy và trang bị cho mình những kiến thức đó tùy theo u cầu cụ
thể. Những cuốn sách hay, có giá trị ln ln là những cuốn cẩm nang quý
báu cho mọi thế hệ độc giả tiếp thu tri thức của các lĩnh vực khác nhau và tạo
cho mình một phong cách, lối sống lành mạnh. Con người phải khơng ngừng
hồn thiện bản thân mình, và đọc sách – đó là một trong những cách rất hiệu


×