Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Tác động của hoạt động du lịch đến đời sống văn hóa xã hội của dân cư địa phương tại khu du lịch văn hóa tâm linh núi chùa bái đính ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.78 MB, 103 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA VĂN HÓA DU LỊCH

TÁC ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG DU LỊCH ĐẾN ĐỜI
SỐNG VĂN HÓA – XÃ HỘI CỦA DÂN CƢ ĐỊA PHƢƠNG
TẠI KHU DU LỊCH VĂN HĨA TÂM LINH
NÚI CHÙA BÁI ĐÍNH NINH BÌNH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

Giảng viên hướng dẫn: Th.s Nguyễn Minh Thúy
Sinh viên thực hiện

: Phạm Thi Thanh Xuân

Lớp

: VHDL 16A

Hà Nội – 2012


LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian hình thành ý tưởng cho đến hoàn thành bài luận văn tốt
nghiệp “ Tác động của hoạt động du lịch đến đời sống văn hóa- xã hội của cư
dân địa phương tại khu du lịch văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính- Ninh
Bình”, ngồi sự cố gắng, nỗ lực của bản thân em đã nhận được sự khuyến
khích động viên tinh thần và sự đóng góp ý kiến của người thân, thầy cơ, bạn
bè. Đó là một trong những động lực to lớn để em thực hiện tốt khóa luận tốt
nghiệp của mình. Với tấm lịng chân thành biết ơn tơi xin gửi lời cảm ơn của


mình đến người thân, thầy cơ, bạn bè đã động viên em trong suốt thời gian
trên.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Thạc sĩ Nguyễn
Minh Thúy, người hướng dẫn khoa học của mình, người đã định hướng cho
em những luận điểm lớn trong bài viết.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2012
Sinh viên
Phạm Thị Thanh Xuân


MỤC LỤC
Phần mở đầu .................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 3
5. Bố cục đề tài .................................................................................................. 3
Chƣơng 1 Tổng quan về khu du lịch văn hóa tâm linh núi chùa Bái ĐínhNinh Bình ......................................................................................................... 4
1.1 Giới thiệu về khu du lịch văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính- Ninh Bình . 4
1.1.1 Vị trí địa lý ............................................................................................... 4
1.1.2 Núi chùa Bái Đính trong lịch sử ............................................................... 5
1.1.3 Tổng thể khu du lịch văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính hiện nay .......... 13
1.2 Những điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch của khu Núi chùa Bái
Đính ................................................................................................................ 19
1.2.1 Điều kiện tự nhiên ................................................................................... 19
1.2.2 Điều kiện văn hoá - xã hội ........................................................................ 21
1.2.3 Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật ............................................................. 22
1.3 Vị thế của khu du lịch tâm linh núi chùa Bái Đính trong sự phát triển du
lịch tỉnh Ninh Bình ............................................................................................ 23

Chƣơng 2 Đời sống văn hóa- xã hội - kinh tế của cƣ dân địa phƣơng dƣới tác động
của du lịch ................................................................................................................................................. 25
2.1 Thực trạng hoạt động du lịch tại khu du lịch tâm linh núi chùa
Bái Đính- Ninh Bình ................................................................................................................... 25
2.1.1 Khách du lịch. .......................................................................................... 25
2.1.2 Hoạt động kinh doanh du lịch ................................................................... 27
2.1.3 Nguồn lao động du lịch ............................................................................ 29


2.1.4 Cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch .......................... 31
2.1.4.1 Cơ sở vật chất kỹ thuật .......................................................................... 31
2.1.4.2 Cơ sở hạ tầng ......................................................................................... 32
2.1.5 Sản phẩm du lịch ...................................................................................... 35
2.1.6 Tổ chức hoạt động du lịch tại khu du lịch văn hóa tâm linh núi chùa Bái
Đính ................................................................................................................ 36
2.1.6.1 Tổ chức quản lý hoạt động du lịch ........................................................ 36
2.1.6.2 Tổ chức quảng bá và tuyên truyền ......................................................... 37
2.2 Hoạt động du lịch- những tác động với đời sống văn hóa- xã hội - kinh tế
của cư dân khu vực núi chùa Bái Đính Ninh Bình ............................................ 38
2.1.1 Đối với đời sống văn hóa- xã hội .............................................................. 38
2.2.1.1 Tác động tích cực .................................................................................. 38
2.2.1.2 Tác động tiêu cực .................................................................................. 48
2.2.2 Đối với đời sống kinh tế ........................................................................... 50
2.2.3 Đối với môi trường .................................................................................. 52
2.3 Nhận định của các tổ chức, cá nhân về sự tác động của du lịch tại khu núi
chùa Bái Đính ................................................................................................... 52
2.3.1 Các nhà quản lý và nhân viên ngành du lịch ............................................. 53
2.3.2 Khách du lịch ........................................................................................... 54
2.3.3 Cộng đồng cư dân địa phương .................................................................. 55
Chƣơng 3 Hệ thống giải pháp để phát triển du lịch bền vững đối với dân

cƣ tại khu du lịch tâm linh núi chùa Bái Đính- Ninh Bình ........................... 57
3.1 Quan điểm phát triển du lịch bền vững đối với dân cư ................................. 57
3.2 Hệ thống giải pháp ...................................................................................... 60
3.2.1 Giải pháp nhằm phát triển hoạt động du lịch............................................. 61
3.2.1.1 Giải pháp về cơ chế chính sách .............................................................. 61
3.2.1.2 Giải pháp về tổ chức quản lý ................................................................. 62


3.2.1.3 Xây dựng các chương trình du lịch hấp dẫn ........................................... 63
3.2.1.4 Tuyên truyền quảng bá du lịch ............................................................... 64
3.2.1.5 Một số giải pháp khác ........................................................................... 65
3.2.2 Giải pháp phát triển du lịch bền vững đối với dân cư địa phương ............ 68
3.2.2.1 Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của người tham gia hoạt động du
lịch

................................................................................................................ 68

3.2.2.2 Phát triển du lịch với sự tham gia của cộng đồng ................................... 71
3.2.2.3 Bảo vệ tài nguyên môi trường và môi trường văn hóa .......................... 72
3.2.2.4 Xã hội hóa trong phát triển du lịch ......................................................... 74
Kết luận............................................................................................................ 75
Tài liệu tham khảo .......................................................................................... 76
Phụ lục ............................................................................................................. 78


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Hiện nay, trong sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam, du lịch
được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, có tiềm năng to
lớn, góp phần quan trọng vào nền kinh tế quốc dân. Hoà chung với sự phát

triển mạnh mẽ của du lịch nước nhà, du lịch Ninh Bình cũng đang có những
bước tiến chắc và ngày càng khởi sắc. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI
( nhiệm kỳ 2000- 2006) đã khẳng định: “tích cực khai thác các nguồn vốn đầu
tư cho hạ tầng dịch vụ… từng bước đưa ngành du lịch của tỉnh trở thành
ngành kinh tế có vị trí quan trọng”. Đại hội Đảng bộ tỉnh cũng đã đưa ra các
giải pháp quan trọng và thiết thực để đẩy mạnh phát triển du lịch, góp phần
vào sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
xu hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp dịch vụ, tạo thêm việc làm và
thu nhập cho lao động xã hội.
Ninh Bình là một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, có diện tích tự nhiên
1.390,11 km2, tuy là một tỉnh khơng lớn nhưng lại có địa hình rất đa dạng: có
núi, đồng bằng, vùng ven biển, mang đầy đủ sắc thái địa hình Việt Nam thu
nhỏ... đã tạo cho Ninh Bình tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú. Thiên
nhiên đã ban tặng cho vùng đất này nhiều danh lam thắng cảnh kỳ thú, nhiều
hang động nổi tiếng, quần thể hang động Tràng An, Tam Cốc- Bích Động,
vườn quốc gia Cúc Phương với hệ động thực vật phong phú, khu bảo tồn đất
ngập nước Vân Long, khu du lịch sinh thái hồ Yên Thắng, Yên Đồng, Yên
Thái với cảnh quan đặc sắc và tính đa dạng sinh học cao…Đặc biệt trong thời
gian vài năm trở lại đây, mỗi khi nhắc tới Ninh Bình người ta khơng thể
khơng nhắc tới núi chùa Bái Đính- Nơi được các báo giới tơn vinh là một
quần thể chùa lớn nhất Đông Nam Á


Có thể khẳng định khu du lịch văn hố tâm linh núi chùa Bái Đính là một
trong những điểm du lịch văn hố, tơn giáo hấp dẫn thu hút nhiều du khách
nhất của tỉnh Ninh Bình. Trong những năm gần đây, khi đời sống nhân dân
được nâng, nhu cầu du lịch ngày càng lớn. Bên cạnh nhu cầu được thoả mãn
về mặt tâm linh, du khách đến với núi chùa Bái Đính cịn để chiêm ngưỡng
những những điều độc đáo tại ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á này.
Sự tăng trưởng ngày càng mạnh mẽ của hoạt động du lịch trên mọi

phương diện từ số lượng khách đến; từ việc xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng
vật chất kỹ thuật; các hoạt động dịch vụ phục vụ khách tham quan… đã đem
lại cho đời sống cư dân ở khu vực này một sắc diện mới trên cả hai phương
diện vật chất và tinh thần. Tuy nhiên hoạt động du lịch phát triển cũng có
những tác động tiêu cực đến đời sống của cư dân nơi đây. Với mong muốn
tìm hiểu rõ những tác động nhiều mặt của hoạt động du lịch đến đời sống của
cư dân tại điểm du lịch được cho là hấp dẫn bậc nhất của tỉnh Ninh Bình nói
riêng và vùng du lịch phía Bắc nói chung trên cơ sở đó đề ra những giải pháp
nhằm khác phục những tác động tiêu cực và phát huy hơn nữa những mặt tích
cực của hoạt động du lịch tại khu vực này. Em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Tác
động của hoạt động du lịch đến đời sống văn hoá- xã hội của dân cƣ địa
phƣơng tại khu du lịch văn hố tâm linh Núi Chùa Bái Đính- Ninh
Bình"làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu vị thế của khu du lịch văn hố tâm linh núi chùa Bái Đính
trong sự phát triển du lịch Ninh Bình.
- Khảo sát thực trạng hoạt động du lịch tại khu du lịch văn hố tâm linh
núi chùa Bái Đính hiện nay.
- Tìm hiểu sự tác động của hoạt động du lịch đến đời sống văn hoá xã
hội của dân cư địa phương tại khu du lịch văn hố tâm linh núi chùa Bái
Đính- Ninh Bình.


- Thông qua thực trạng tác giả đề xuất hệ thống giải pháp nhằm phát
triển hơn nữa hoạt động du lịch tại quần thể chùa Bái Đính, hạn chế các tác
động tiêu cực, phát huy các tác động tích cực đối với đời sống văn hoá xã hội
của người dân địa phương.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: đời sống văn hoá- xã hội của người dân địa
phương dưới tác động của hoạt động du lịch tại khu du lịch văn hoá tâm linh

núi chùa Bái Đính- Ninh Bình.
- Phạm vi nghiên cứu: tìm hiểu tác động của hoạt động du lịch tại khu
du lịch văn hố tâm linh núi chùa Bái Đính đến đời sống văn hố- xã hội của
người dân Ninh Bình nói chung. Trong đó tập trung nghiên cứu tác động đối
với người dân trên địa bàn xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp thu thập, tổng hợp và phân tích tài liệu
- Phương pháp khảo sát, điền dã thực tế
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, đề tài được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về khu du lịch văn hoá tâm linh núi chùa Bái
Đính- Ninh Bình
Chương 2: Đời sống văn hố- xã hội- kinh tế của của cư dân địa
phương dưới tác động của du lịch
Chương 3: Hệ thống giải pháp để phát triển du lịch bền vững tại khu
du lịch văn hố tâm linh núi chùa Bái Đính- Ninh Bình.


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ KHU DU LỊCH VĂN HOÁ TÂM LINH
NÚI CHÙA BÁI ĐÍNH- NINH BÌNH
1.1 Giới thiệu về khu du lịch văn hố tâm linh núi chùa Bái Đính- Ninh
Bình
1.1.1 Vị trí địa lý
Núi Bái Đính thuộc địa phận các xã Lê Xá, Sinh Dược, Xuân Trì xưa,
nay thuộc xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Núi Bái Đính là ngọn
núi cao và hùng vi nhất trong vùng xung quanh có cư dân quần tụ đơng đúc

và lâu đời.Núi đứng độc lập trên vùng đồi đất khá cao và bằng phẳng, ở phía
Tây Bắc núi có quả đồi thấp nên đất và đồi tôn cho núi cao và đẹp hơn những
ngọn núi trong vùng. Núi cao 187m và có diện tích khoảng 150000m2, dáng
vịng cung, hai bên lại có tay ngai tạo nên một thung lũng ở chân núi, tương
truyền xưa kia là vườn Sinh Dược của đức thánh Ngun Minh Khơng. nhìn
từ các hướng khác nhau thì núi sẽ có các hình dáng khác nhau. Nếu nhìn từ
sơng Hồng Long lên thì núi giống như một con Long Mã đang chồm lên
phương Bắc, u bờm cuộn lên, chân đạp về phương Nam với thể thượng
phong.
Núi Bái Đính nơi có động thờ phật, thờ thần, thờ tiên trên đỉnh núi từ
ngàn xưa, nay là trung tâm tâm linh Phật Giáo nằm cách thủ đô Hà Nội hơn
100 km và cách tỉnh Ninh Bình hơn 20 km về phía Tây Bắc. Có thể đến với
Bái Đính bằng các con đường sau:


- Con đường thứ nhất từ Hà Nội hoặc từ thành phố Ninh Bình đi đến thị
trấn Thiên Tơn, rẽ vào cố đơ Hoa Lư, đi tiếp lên đê Hồng Long khoảng 7 km
là đến.
- Con đường thứ hai: từ thành phố Ninh Bình đi qua đường Tràng An,
qua xã Ninh Nhất rẽ phải theo con đường du lịch vào thăm khu du lịch Tràng
An, cứ theo con đường trải nhựa qua hai con đường hầm xuyên núi lên đê
Hoàng Long đến đền Vực Vơng, theo đường Hồng Long khoảng 2 km nữa là
đến.
- Con đường thứ ba: Từ Nho Quan xuống hoặc từ Tam Điệp lên, từ
Thạch Thành- Vĩnh Lộc( Thanh Hoá) đi Rịa, đến đồi Song, rẽ vào đường
Nguyễn Văn Trỗi khoảng 7km nữa là tới.
- Con đường thứ tư: từ quốc lộ 1 đến nga ba Gián hoặc từ thị trấn Nho
Quan theo đường 12C, rẽ đi Me, đi đến khu du lịch nước nóng Kênh Gà, qu
cầu phao Lạc Khoái 7 km là tới.
- Con đường thứ năm: từ Hà Nội về, từ Ninh Bình lên Gián Khẩu,

xuống thuyền theo đường thuỷ theo sơng Hồng Long 7km là tới.
Con đường thứ sáu: từ Hồ Bình về thị trấn Nho Quan xuống thuyền đi theo
sông Lạng, qua Kênh Gà vào sơng Hồng Long đến bến đị Sinh Dược là tới
nơi.
Như vậy là đến với Bái Đính trung tâm tâm linh phật giáo rất thuận tiện
cả về đường bộ và đường thuỷ.
1.1.2 Núi chùa Bái Đính trong lịch sử
Theo từ điển Hán- Việt: “Bái” nghĩa là lễ nghi, vái lạy. Lại có nghĩa là
trao phong như phong hầu, bái tướng. “Đính” có nghĩa là đỉnh (đỉnh núi).
Như vậy Bái Đính Sơn có nghĩa là núi có lễ bái ở trên đỉnh cao hoặc nơi đây
đã diễn ra phong hầu bái tướng từ lâu đời.


Tên núi có từ rất xa xưa, dân gian quen gọi là núi Đính. Có sách ghi lại
“Núi Bái Đính phía Tây huyện Gia Viễn, ở địa phận các xã: Phúc Lai, Sinh
Dược,Mộc Hồn, Xn Trì, Lê Xá, Khống Trang, thuộc các huyện Phụng
Hoà và Gia Viễn, một dải đất núi liền với địa phận Chi Phong và Trường Yên
bên cạnh. Đỉnh núi có thần Cao Sơn. Như vậy Bái Đính khơng phải một danh
từ chỉ một ngọn núi cụ thể mà là cả một quần thể núi đồi trong một vùng rộng
lớn của hai huyện lớn: Phụng Hoà và Gia Viễn.
Trong địa danh cổ ghi trên sách Đại Nam Nhất Thống Chí thì Bái Đính
bao gồm các xã Sơn Lai, Sơn Thành, Sơn Hoà( huện Nho Quan) và xã Gia
Sinh, Gia Phong, Gia Minh, Gia Lạc( huyện Gia Viễn). Núi Bái Đính là cá thể
nằm trong quần thể Bái Lĩnh sơn. Trong quần thể Bái Lĩnh ấy có núi Bái Đính
và trên đỉnh núi Bái Đính có thờ thần Cao Sơn.
Từ xa xưa, đỉnh núi Bái Đính là nơi diễn ra diễn xướng lễ bái lớn.
Tương truyền dưới triều nhà Đinh, vua Đinh Tiên Hoàng đã cho lập đàn tràng
để làm lễ phong hầu bái tướng, phong chức tước cho bá quan văn võ. Điều
này cũng rất hợp vì khi định đô ở Hoa Lư, vua Đinh đã chọn vùng Sơn Lai
giáp liền xã Gia Sinh và cách núi Bái Đính độ 4-5 km để xây dựng kinh đơ

mới.
Cũng tại nơi đây triều đình Tiền Lê và cả năm đầu nhà Lý đã dùng làm nơi tế
trời đất. Các vua Lê Lợi và cả Quang Trung khi tiến quân ra Bắc đều lấy núi
Bái Đính làm nơi tế trời đất và thần Cao Sơn. Trước khi xuất chinh điếu phạt
giặc xâm lăng và lập những kỳ tích vẻ vang, vơ cùng oanh liệt, chói ngời
trong lịch sử dân tộc.
Trong cuộc chiến tranh Lê- Trịnh với nhà Mạc, Bái Đính là địa bàn
chiến lược tranh chấp quan trọng giữa hai tập đoàn phong kiến này, là đại bản
doanh của đại tướng quân nhà Mạc là Nguyễn Quyện và tướng lĩnh là quận
công Bùi Văn Khê và các quận công con trai ơng theo nhà Lê Trịnh thì tương


quan lực lượng nghiêng hẳn về phía nhà Lê. Bị mất địa bàn chiến lược này
suốt từ Tam Điệp, nhà Mạc yếu thế về mặt quân sự và cũng từ đây quân Lê
Trịnh tiến nhanh như vũ bão ra để bao vây, chiếm lại thăng long, làm chủ đất
nước, đẩy nhà Mạc lên Cao Bằng và một số tỉnh phía Bắc. xem thế mới biết
một vùng rừng núi hiểm trỏ suốt từ Cúc Phương, Bái Đính, Tam Điệp, Thần
Phù, “trời đất xây dựng rất là hiểm yếu”( Hoàng Lê Nhất Thống Chí) có tầm
chiến lược quan trọng như thế trong công cuộc dựng nước và giữ nước của
cha ông ta.
Chùa Bái Đính cổ( Bái Đính cổ tự) nằm cách điện Tam Thế của khu
chùa mới khoảng 800 m về phía đơng nam men theo sườn núi Đính. Tương
truyền, xưa kia Thiền sư Nguyễn Minh Khơng (1065-1141) khi đến đây tìm
cây thuốc đã phát hiện ra động này và từ đó biến làm động thờ Phật( vào năm
1136).
Khu chùa này nằm gần trên đỉnh của một vùng rừng núi khá yên tĩnh,
gồm có một nhà tiền đường ở giữa, rẽ sang bên phải là hang sáng thờ phật, rồi
đến đền thờ thần Cao Sơn ở sát cuối cửa sau của hang sáng, rẽ sang bên phải
là đền thờ Thánh Nguyễn rồi đến động tối thờ mẫu và thờ tiên. Năm 1997
chùa được cơng nhận là di tích văn hố lịch sử - văn hoá- cách mạng cấp quốc

gia. Mặc dù chùa có lịch sử từ thời Đinh với đền thờ thánh Cao Sơn trấn tây
Hoa Lư tứ trấn nhưng chùa Bái Đính cổ có nhiều chi tiết kiến trúc và cổ vật
mang dấu ấn đậm nét của thời Lý. Bái Đính cổ tự gồm có các cơng trình sau:
*Lỗ lùng- giếng ngọc
Trước chân núi Bái Đính, ngay sát đường lên ngơi chùa cổ trên núi có
một giếng nước. Dân gian gọi đây là Lỗ Lùng Ô Gà ngày nay gọi là giếng
Ngọc. Các cụ địa phương kể rằng, ngày xưa, trước khi lên chùa lễ phật, lễ
tiên, người ta phải trai giới, tắm gội sạch sẽ ở giếng này.


Tương truyền đây là giếng nước thuốc sinh thời đức Thánh Nguyễn
Minh Không đào để lấy nước thổi cơm, nấu nước, đồ xôi cúng phật và cũng
lấy nước ở đây sắc thuốc trị bệnh cho chúng sinh . Từ Lỗ Lùng này chạy đến
Lỗ Lùng Quai Vạc( thôn Định Sơn, xã Gia Sinh) lên Lỗ Lươn (huyện Nho
Quan) là mạch tiểu long không bao giờ cạn. Nước từ trên giếng Tiên trên
động thờ Mẫu trên đỉnh Bái Đính chảy qua các khe núi Bái Đính xuống , lọc
qua các khe đá, rễ cây rừng, qua mạch nước ngầm nên trong suốt ngọt như
nước mưa tụ tại Lỗ Lùng. Nước Lỗ Lùng cũng như nước giếng Tiên không
bao giờ cạn, ngay cả trong những năm đại hạn. Lỗ Lùng ở chân núi có độ cao
hơn hẳn so với các vùng đất xung quanh từ 5- 7m. Người ta gọi đây là mắt
rồng- điểm lộ thiên của long mạch Bái Đính
Lên thăm hang động ở núi Bái Đính phải bước trên 300 bậc đá, qua
cổng tam quan ở lưng chừng núi. Cả hai mặt của tam quan đều ghi dòng chữ:
“ Minh Đỉnh Danh Lam”. Tương truyền, đây là bốn chữ được vua Lê Thánh
Tông (1460-1496) một lần kinh lý về phương Nam, qua Ninh Bình, nhà vua
lên thăm phong cảnh Bái Đinh. Khi lên vãn cảnh chùa trên đỉnh Bái Đinh, nhà
vua đề tặng bốn chữ “Minh đỉnh danh lam” và một bài thơ tứ tuyệt bằng chữ
Hán.
Minh đỉnh danh lam có nghĩa là: Đây là ngơi chùa thờ Phật rất đẹp và có
giá trị, xứng đáng được ghi vào minh văn khắc trên đỉnh đồng để ai cũng biết,

cũng ghi nhớ.
Bài thơ chữ Hán vua tặng như sau:
Minh đỉnh danh lam
Đính Sơn độc chiếm nhất danh cao
Bảo chướng Hồng đơ tự tích trào/triều
Nhật kiệt địa linh chung vượng khí
Huyền sơn mỹ lệ tráng kim âu


Dịch thơ:
Đính Sơn danh tiếng thực cao xa
Che chở kinh thành tự thuở xưa
Nhân kiệt,địa linh nên vượng khí
Núi thiêng cảnh đẹp vững sơn hà.
Hai bên tam quan có đề đơi câu đối:
Giang sơn trung tỳ khí cảnh sắc tiên hương mạc thanh cao
Vân vũ thị hồng ân Nam quốc chúa linh giai nhuận trạch
Dịch nghĩa:
Sơng núi tạo khí lành, cảnh sắc cõi tiên chẳng đâu bằng
Mây mưa ban ơn lớn, cõi thiêng nước Nam đều ban khắp
Lên hết dốc là tới tới ngã ba: bên phải là động thờ phật, bên trái là động
thờ mẫu. phía trên cửa động Phật có bốn chữ đại tự do vua Lê Thánh Tơng
ban tặng có nghĩa là: “lưu danh thơm, cảnh đẹp”. Động/hang thờ Phật cũng
gọi là hang Sáng, động dài khoảng 25m, rộng 15m. Đây chinh là chùa thờ Phật
do đức Nguyễn Minh Không lập vào khoảng năm 1096 - 1106. Hiện nay, các
tượng thờ ở đây đều được đúc bằng đồng ngun khối, mạ vàng. Có thể nói,
khơng gian nơi đây vừa thiêng liêng vừa thuần khiết, là nơi mà các phật tử,
chúng sinh cảm nhận rừ ràng nhất sự thánh thiện, thoát tục của cõi Phật.
Đi hết hang sáng có một lối dẫn xuống sườn thung lũng của rừng cây
xưa là đền thờ thánh Cao Sơn.

* Đền thờ thần Cao Sơn.
Đền có kiến trúc gần giống với đền thờ Thánh Nguyễn, cũng xây dựng
tựa lưng vào núi, có hành lang ngăn cách với thung lũng ở phía trước. Theo
truyền thuyết thần Cao Sơn là một trong 50 người con của Lạc Long Quân- Âu
Cơ. Đền thờ chính của thần ở xã Phụng Hố, huyện Nho Quan, Ninh Bình. Vị
thần này có cơng phù trợ qn Lê Tương Dực diệt được Uy Mục, sau cũng


được dân làng Kim Liên rước về thờ và được phong là Cao Sơn Đại Vương
trấn phía Nam kinh thành, là một trong Thăng Long tứ trấn.
Theo như thần phả của đền Núi Hầu( xã Yên Thắng, huyện Yên Mô,
Ninh Bình) thì Cao Sơn Đại Vương là Lạc tướng Vũ Lâm, con thứ 17 của vua
Lạc Long Quân, khi vâng mệnh vua anh( Hùng Vương thứ nhất) đi tuần từ
vùng Lĩnh Nam đến Vùng Thiên Dưỡng, đã tìm ra một thân cây có bột dùng
làm bánh thay bột gạo, lấy tên mình đặt cho cây là Quang Lang(dân địa
phương vẫn gọi là cây Quang lang hay cây búng báng). Thần đã dậy dỗ và giúp
đỡ người dân làm ăn sinh sống đồng thời bảo vệ hỏi các thế lực phá hoại vì vậy
đã được nhân dân lập đền thờ. Thần Cao Sơn cùng với thần Thiên Tôn là hai vị
thần ngự ở hai cửa ngõ phía Tây- Đơng của cố đơ Hoa Lư.
Có thể ai đó sẽ thắc mắc, tại sao có tượng thần Cao Sơn thờ trên động,
lại có đền thờ Cao Sơn, có phải hai vị thần này khác nhau? Xin thưa, hai tượng
thần Cao Sơn này chỉ là một. Lý do là khi đúc tượng thần Cao Sơn bằng đồng
nguyên khối mạ vàng, định thay thế tượng ngài bằng gỗ trên động Sáng, nhưng
khi đưa tượng đồng vào, pho tượng gỗ không thể nào di dời ra khỏi vị trí cũ.
Trong tình thế pho tượng ngài bằng đồng đó được đúc, các nhà hảo tâm liền
nghĩ cách dựng cho ngài “ngôi nhà mới” bên sườn núi. Từ đây chúng ta có thể
nhìn bao qt sơn hệ đá vơi Hoa Lư, nơi có khu hang động Tràng An, như có
hàng trăm ngọn núi chầu về núi Bái Đính (chầu về núi chủ, núi chúa).
Các câu đối treo ở đền gồm:
Đơi phía ngồi:


Vạn cổ càn khơn hưng tái tạo

Thiên thu nhật nguyệt khánh trùng quang
Dịch nghĩa:

Đất trời muôn thuở nay tái tạo
Nhật nguyệt nghìn thu lại sáng soi

Đơi câu đối ở giữa: Nam phương tích phúc thần cơng đại
Tráng địa thi ân thánh đức thâm
Dịch nghĩa:

Cơng thần tích phúc ở trời Nam
Đất thánh ban ơn nơi đất đẹp


Đơi câu đối ở phía trong: Nhân kiệt địa linh thiên cổ tích
Dân khang vật phụ vạn niên xuân
Dịch nghĩa:

Nhân kiệt địa linh ngàn năm còn dấu cũ
Dân an vui, vật tươi tốt, mn thuở xn

- Vườn thuốc phía trước đền thờ thánh Cao Sơn: Tương truyền, đây là
vườn thuốc của Nguyễn Minh Khơng, ơng đã tìm ra nhiều cây thuốc quý để
chữa bệnh cho mọi người. Sau này, cũng đó có nhiều lương y đến đây tìm các
cây thuốc để chữa bệnh cứu người. Vườn thuốc có diện tích khoảng 4ha, có
các loại cây thuốc quý như: sinh địa, hồi sơn, sâm bồ, ngũ da bì, đơn xương,
đẳng sâm… Vườn thuốc này được Nguyễn Minh Không đặt tên là Sinh Dược,

có nghĩa là vườn thuốc sống, vườn thuốc tự nhiên, đối lập với loại thuốc đó
bào chế, sao tẩm (hiện nay vẫn cịn thơn Sinh Dược, là lấy theo tên của vườn
thuốc này).
Từ đông sáng thờ Phật, rẽ tay trái, đi xuống khoảng hơn 20 bậc đá sẽ
thấy một ngôi nhà xây dựng theo kiểu nhà sàn đẹp đẽ, khang trang, quay
hướng Nam là đền thờ Thánh Nguyễn Minh Không.
* Đền thờ thánh Nguyễn Minh Không.
Đền mới được xây dựng và toạ lạc bên sườn núi, giữa vòng “tay ngai”
của núi Bái Đính, nhìn xuống thơn Ơ Gà( Sinh Dược, xã Gia Sinh). Xa xa là
xã Quỳnh Lưu, Sơn Lai, huyện Nho Quan. Hai bên tả hữu của “tay ngai” là
động thờ thần Cao Sơn và động thờ tam tồ Thánh Mẫu. Từ vị trí này có thể
nhìn xuống thơn Ổ Gà - nơi có giếng ngọc, xa hơn, có con đường to uốn lượn,
đó là con đường đi vườn Quốc gia Cúc Phương. Điều đặc biệt là từ đền thờ
Nguyễn Minh Khơng nhìn ra phía trước là căn cứ cách mạng Quỳnh Lưu, con
đường nhà Lê - con đường thượng đạo ra Bắc vào Nam thời xưa.
Cửa đền có bức đại tự chữ Hán: “Lý triều Quốc sư”. Tường hậu cung
xây dựng bằng gỗ tứ thiết, giữa đặt tượng thánh Nguyễn Minh Không cao


1.5m đúc bằng đồng nguyên khối, mạ vàng, đặt trên một bệ đá. Tượng được
đúc theo mẫu tượng thánh Nguyễn thờ ở đền Lý Quốc Sư- Hà Nội
Nguyễn Minh Không sinh ngày 15/10 năm ất Tỵ (1065), đời vua Lý
Thánh Tông, tại Đàm Xá phủ Trường Yên, tên tự là Chí Thành. Năm 11 tuổi
ơng xuất gia, thụ giáo đạo Phật với Từ Đạo Hạnh (? - 1117) người làng Yên
Lãng (nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội) là bậc cao tăng nổi tiếng. Trở thành
nhà tu hành với pháp danh Minh Khơng, ơng đã lập ra và trụ trì nhiều chùa.
Trong chùa Quỳnh Lâm ở Quảng Ninh, do Nguyễn Minh Khơng sáng lập,
hiện cịn lưu giữ một pho tượng Phật Di lặc bằng đồng cao 6 trượng, được coi
là một trong “An Nam tứ đại khí” (Bốn báu vật lớn của Việt Nam) nổi tiếng
thời Lý, đó là tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng Phật Di Lặc chùa

Quỳnh Lâm và vạc Phổ Minh. Nguyễn Minh Khơng cịn được suy tôn là ông
tổ của nghề đúc đồng. Không chỉ là một nhà tu hành lớn, Nguyễn Minh
Khơng cịn là một danh y. Tương truyền, khi vua Lý Thần Tông mắc trọng
bệnh, Ngài được mời về cung chữa trị cho vua khỏi bệnh và được vua ban cho
hiệu “Quốc sư”, từ đó ngài được gọi là “Lý Quốc sư”.
Tên tuổi của ông gắn chặt với động Thạch Am thờ Phật và vườn sinh
dược tại núi Bái Đính, những huyền thoại, huyền tích về đức Thánh Nguyễn
cịn dày đặc ở khu núi chùa Bái Đính và các vùng phụ cận. Thật là một thiếu
sót lớn nếu chúng ta đến thăm núi chùa Bái Đính mà khơng thắp một nén tâm
nhang tưởng nhớ đến Thánh Nguyễn Minh Không.
Đối diện với hang Sáng thờ Phật là hang Tối( động thờ Mẫu) thờ tam
toà Thánh Mẫu.
*Động thờ Mẫu
Tại đây có 7 động nhỏ thơng nhau. Trần động có nhũ đá rủ xuống tạo
nên những hình dáng khác nhau, như cá vượt vũ mơn, rồng hút nước, cây tiền,
cây bạc, cây thóc, bàn cờ Đế Thích, người cày ruộng, ao bèo… Giữa động có


nhũ đá rủ xuống như một cây cột, gọi là “nhất trụ kình thiên” (một cột chống
trời), khi gõ vào phát ra những âm thanh diệu kỳ như một cây đàn đỏ nhiều
cung điệu.
Như chúng ta đó biết, tục thờ Mẫu mang tính chất bản địa của người
Việt Nam. Động Tối thờ thánh mẫu Liễu Hạnh, nhân vật vừa là thánh vừa là
nhân, bà là Mẫu nghi thiên hạ, được mọi người biết đến với “tam sinh, tam
hóa”. Việc thờ Mẫu ở động Tối (yếu tố âm) là để đối đãi với động Sáng thờ
Phật (yếu tố dương). Âm dương đối đãi thì mọi vật sẽ sinh sơi, nảy nở; vạn
vật tốt tươi, trù phú.
Trong động tối cịn có “lối lên trời” và “lối xuống âm phủ”.
Ao tiên: phía trong động thờ Mẫu có một ao nhỏ, người ta gọi là ao
Tiên. Đây cũng có thể coi là điểm “tụ phúc”, vì ao được hình thành tự nhiên,

nước từ nhũ đá nhỏ xuống thánh thót quanh năm nên khơng khi nào Ao Tiên
cạn nước
1.1.3 Tổng thể khu du lịch văn hố tâm linh núi chùa Bái Đính hiện
nay
Quần thể chùa Bái Đính gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới
được xây dựng từ năm 2003. Quần thể chùa Bái Đính hiện có diện tích 539 ha
bao gồm 27 ha khu chùa Bái Đính cổ, 80 ha khu chùa Bái Đánh mới, đây là
một cơng trình lớn gồm nhiều hạng mục, được xây dựng trong nhiều giai đoạn
khác nhau. Chùa nằm trên sườn núi, giữa những thung lũng mênh mơng hồ và
núi đá, ở cửa ngõ phía tây vào cố đơ Hoa Lư. Khu chùa Bái Đính mới được
các báo giới tôn vinh là một quần thể chùa lớn nhất Đơng Nam Á.
Chủ trì thiết kế kiến trúc chùa Bái Đính là Giáo sư, Kiến trúc sư Hồng
Đạo Kính - Phó Chủ tịch hội kiến trúc sư Việt Nam, nguyên Giám đốc trung
tâm thiết kế và tu bổ di tích Trung ương (Viện Bảo tồn di tích Việt Nam).
Kiến trúc khu chùa mới nổi bật với những hình khối lớn, hoành tráng mang


đậm dấu ấn kiến trúc Việt Nam như sử dụng ngun vật liệu chính ở địa
phương (đá xanh Ninh Bình, gỗ tứ thiết), ngói men Bát Tràng màu nâu sẫm...
Điều khác biệt nhất ở kiến trúc chùa Bái Đính thể hiện ở vịm mái màu nâu
sẫm cong vút hình đi chim phượng, nó khơng giống với nét thơ thẳng của
chùa Trung Quốc. Các chi tiết trang trí kiến trúc chùa cũng mang đậm dấu ấn
của các làng nghề truyền thống nổi tiếng Việt Nam. Chùa Bái Đính khi xây
dựng được gọi là “đại công trường” với 500 nghệ nhân gồm rất nhiều tổ thợ
đến từ những làng nghề nổi tiếng như mộc Phúc Lộc, chạm khắc đá Ninh
Vân, đúc đồng Ý Yên, thêu ren Văn Lâm, sơn mài Cát Đằng… các nghệ nhân
này được sử dụng các vật liệu địa phương như gỗ lim, đá xanh Ninh Vân,
ngói men Bát Tràng… để tạo ra nét thuần Việt trong kiến trúc chùa Bái Đính
* Tam quan
Tam quan được xây dựng hồn toàn bằng gỗ, để xây dựng tam quan,

người ta đã sử dụng khoảng 550 tấn gỗ trịn. Tam quan có lối kiến trúc kiểu
chồng giường, cao 16,5m, rộng 13m, dài 32m.
Phía trước tam quan, hai bên tả hữu có hai con sư tử bằng đá, là biểu
hiện sức mạnnh của trí tuệ. Trong trường hợp đặt trước Tam quan nó cịn
mang ý nghĩa kiểm sốt tìm hồn kẻ hành hương.
Vào Tam quan, theo hướng nhân của khách từ ngoài vào trong, bên phải
có đặt tượng thần Khuyến thiện, tay cầm viên ngọcc, biểu tượng cho đạo pháp;
bên trái là tượng thần Trừng Ác, tay cầm kiếm. Cả hai vị thần đều ngồi trên con
sư tử, mang ý nghĩa: láy nền tảng của trí tuệ để hành đạo, hướng con người tới
chân – thiện - mĩ. Cả hai pho tượng này đều được đúc bằng đồng, mỗi pho cao
5.5m nặng 12 tấn.
* Hành lang (La Hán đường).
Hành lang được thiết kế hồn tồn bằng gỗ, các vì kèo mới được kết
cấu kiểu giá chiêng chồng giường con nhị. Dọc hai hành lang tả, hữu đặt 500


pho tượng La Hán, chất liệu bằng đá, do các nghệ nhân làng nghề đá Ninh
Vân (Hoa Lư) chế tác. Vì vậy hành lang cịn gọi là La Hán đường.
La Hán đường gồm hai dãy, mỗi dãy 117 gian, dài 526m. Người ta đã
sử dụng khoảng 3.500m3 gỗ để xây dựng La Hán đường.
Trên con đường này, nếu để ý ra hai bên, chúng ta thấy rất nhiều những
cây mít được trồng. Tại sao vậy? Trong đạo Phật, mít là Paramita. Âm HánViệt là Ba-la-mật-đa, nghĩa là đáo bỉ ngạn (đến bờ giác ngộ). ý nghĩa của cây
mít là đại giác ngộ, đỉnh cao là giải thốt. Vì thế, cây mít là cây thiêng, gắn
với Phật đạo (gỗ mít dựng làm mõ chùa, làm tượng Phật; lá mít dựng đặt oản
lễ Phật…). Thực ra, mít khơng phải là cây bản địa, mà nó được du nhập vào
Việt Nam cùng với đạo Phật. Như chúng ta đó biết, kiến trúc cổ truyền của
người Việt thường làm bằng gỗ mít, nó khơng mang yếu tố đơn thuần là chất
liệu với những gân xoắn biểu hiện nghệ thuật, cao hơn, nó biểu hiện miền đất
thốt tục.
* Tháp chng.

Tháp chng kiến trúc hình bát giác, có 3 tầng mái cong, chiều cao
18,25m, đường kính 17m, mang dáng dấp của bơng sen. Tháp chng có một
lối lên và một lối xuống. Để lên tháp chuông, mời quý khách lên phía cầu
thang bên phải (theo lối nhìn của khách từ tam quan vào).
Bên trong tháp chng treo một quả chuông đồng nặng 36 tấn, do các
nghệ nhân ở Huế đúc. Quả chng này đó được Trung tâm Sách Kỷ lục Việt
Nam cấp bằng xác nhận là quả chuông bằng đồng lớn nhất Việt Nam.
Trên quả chuông có15 vành hoa văn. Tính từ trên xuống, các vành hoa
văn được trang trí như sau:
Vành hoa văn 1, 2, 3, 4, 5, 10, 13: khắc chữ Hán.
Vành hoa văn 6 trang trí hoa văn lá đề cách điệu.


Vành hoa văn 7 là vành hoa văn ở giữa, rộng nhất, trang trí các bài
minh văn bằng chữ Hán.
Vành hoa văn 8, 14 trang trí hoa văn cúc dây.
Vành hoa văn 9 trang trí hình ảnh lưỡng long chầu quả lôi đang bốc lửa
và các chữ Hán. Về ý nghĩa văn hố tâm linh, hình tượng rồng chầu “quả lôi”
biểu hiện ý thức cầu nguồn nước, cầu mưa. Đối với cư dân nơng nghiệp, cầu
nguồn nước chính là cầu no đủ, hạnh phúc.
Vành hoa văn 11, 12 trang trí hoa văn chữ “Vạn” cách điệu, giữa hai
vành này, ở bốn phía là các rốn chng.
Vành hoa văn 15 (vành cuối cựng) trang trí hoa văn sơng nước. Các
hoa văn này được thiết kế mang phong cách thời Lý.
Chày kình để đánh được quả chuông này cũng rất lớn. Chày kình bằng gỗ có
chiều dài khoảng 5m, đường kình 30cm, nặng gần 500kg (5 tạ).
*Điện Quan Thế âm Bồ tát.
Là cơng trình được làm hồn tồn bằng gỗ, khoảng 900m3 gỗ trịn đã
được sử dụng làm cơng trình này. Điện thờ gồm 7 gian, chiều cao 14,8m,
chiều rộng 16,8m, chiều dài 40,4m.

Gian giữa điện đặt pho tượng Quan Thế âm Bồ tát nghìn mắt nghìn tay
đã được Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam cấp bằng xác nhận là tượng Quan
Thế âm bằng đồng lớn nhất Việt Nam. Tượng cao 5,4m, nếu tính cả bệ tượng
là 9,57m; nặng 80 tấn, nếu tính cả bệ tượng là khoảng 100 tấn.
*Điện Pháp chủ.
Trước cửa điện Pháp chủ là hồ phóng sinh, diện tích khoảng 5000m2.
Xung quanh hồ trồng nhiều cây bồ đề. Đây là những cây do các đồng chí lãnh
đạo, các nguyên thủ quốc gia đã trồng khi về thăm chùa.
Điện Pháp chủ được xây dựng theo kiến trúc 2 tầng 8 mái, gồm 5 gian,
cao 30m, dài 44,7m, rộng 43,3m, tổng diện tích 1945m2.


Pho tượng Pháp chủ bằng đồng trong điện Pháp Chủ, cao 10m, nặng 100 tấn,
do các nghệ nhân làng nghề đúc đồng Ý Yên chế tác. Pho tượng đó được
Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam cấp bằng xác nhận là pho tượng phật Thích
Ca Mâu Ni bằng đồng lớn nhất Việt Nam.
Pho tượng Thích Ca ở đây được tạc ngồi trên tịa sen, tay phải cầm
bơng hoa sen, trên ngực có chữ Vạn.
Hình ảnh tượng cầm bơng sen mang ý nghĩa rằng: Đức Phật dạy cho
chúng sinh đến chùa không phải là cầu xin mà thực ra là đi tìm chính mình,
bởi bơng sen mang nghĩa nhân - quả: Ai tạo nhân nào sẽ hưởng quả ấy.
Sen là biểu hiện của lý và trí; phàm và thánh; âm và dương cùng một
thể, cùng một cội nguồn. Đồng thời, một yếu nghĩa trong chùa, bơng sen cịn
biểu hiện cho tâm trong sáng, tâm chân thực mà thơng qua đó nó biểu tượng
cho tự tính trịn đầy, đẹp đẽ nhất.
Hai bên điện đặt tượng Bát bộ Kim cương: Các vị này có nhiệm vụ bảo
vệ phật pháp ở vịng ngồi.
Bát bộ Kim cương gồm:
Thanh Trừ Tài Kim Cương.
Tích Độc Thần Kim Cương.

Hồng Tuỳ Cầu Kim Cương.
Bạch Tĩnh Thủy Kim Cương.
Xích Thanh Hoả Kim Cương.
Định Trừ Tai Kim Cương.
Tử Hiền Kim Cương.
Đại Thần Lực Kim Cương.
*Điện Tam thế.
Từ sân điện Tam thế nhìn về phía Tam quan,
+ Bên hữu (phải) có dãy núi Hàm Rồng, núi Hàm Xà.


+ Bên tả (trái) có núi Lê, núi Khám, núi U Bị, núi Ba Chạc, núi Thờ.
+ Phía trước chính diện có hồ Đàm Thị, xa hơn là núi Hàn Cay, tựa bức
bình phong của khu chùa, xa hơn nữa là dịng Hồng Long đầy ắp huyện
thoại. Phía bên kia bờ Hoàng Long là quê hương của vua Đinh Tiên Hồng,
cũng là q hương của Quốc sư Nguyễn Minh Khơng, người có cơng đầu xây
dựng ngơi chùa Bái Đính cổ.
+ Phía sau là núi Bái Đính, nơi có ngơi chùa cổ.
Điện Tam thế được xây dựng với kiến trúc 3 tầng mái, gồm 7 gian, 2
chái, với tổng cộng 66 cột lớn nhỏ đúc bê tông, ốp gỗ. Phật điện cao 34m, dài
59,10m, rộng 40,50m, diện tích lịng điện là 2364m2.
Con đường nhất chính đạo từ Tam quan đến điện Tam thế dài 812m.
Bức phù điêu đá (trước thềm tòa Tam thế) có kích thước 10m x 10m,
được chạm khắc tứ linh: long, ly, quy, phượng.
Bộ tượng Tam thế: Đây là bộ tượng đồng, do các nghệ nhân đúc đồng ở
Ý Yên (Nam Định) chế tác. Bộ tượng đó được Trung tâm Sách Kỷ lục Việt
Nam cấp bằng xác nhận là bộ tượng Tam thế bằng đồng lớn nhất Việt Nam.
Mỗi pho tượng cao 7,20m, nặng 50 tấn, đặt trên bệ đá cao 1,5m.
*Giếng Ngọc
Hiện nay, tại vị trí giếng Ngọc trước kia, là giếng xây lại hình mặt

nguyệt, rất rộng, có đường kính 30m, độ sâu của nước là 6m, không bao giờ
cạn nước. Miệng giếng xây lan can đá. Khu đất xung quanh giếng hình vng,
có diện tích 6000 m2, bốn góc là bốn lầu bát giác. Trung tâm sách kỷ lục Việt
Nam đã cấp bằng xác nhận kỷ lục”: “ngơi chùa có giếng nước lớn nhất Việt
Nam” ngày 12 tháng 12 năm 2007.
*Tượng Phật Di Lặc
Ngay bên cạnh thượng Điện thờ Phật là một gò đất cao, nơi đặt tượng
phật Di Lặc bằng đồng nặng 100 tấn.


*Lễ hội chùa Bái Đính
Lễ hội chùa Bái Đính là một lễ hội mùa xuân, diễn ra từ chiều ngày
mùng 1 tết, khai mạc ngày mùng 6 tết và kéo dài đến hết tháng 3, khởi đầu
cho những lễ hôị hành hương về vùng đất cố đô Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
Ngồi thời gian trên trong năm, du khách du khách chỉ có thể vãn cảnh chùa
mà khơng được thăm thú các hoạt động văn hoá của lễ hội
Lễ hội chùa Bái Đính gồm 2 phần. Phần lễ gồm các nghi thức thắp
hương thờ Phật, tưởng nhớ công đức Thánh Nguyễn Minh Không, Lễ tế Thần
Cao Sơn và chầu thánh Mẫu Thượng Ngàn. Phần hội chùa Bái Đính gồm các
trị chơi dân gian, thăm thú hang động, vãn cảnh chùa, thưởng thức nghệ thuật
hát chèo, xẩm, ca trù đất Cố Đơ. Phần sân khấu hố thường do nhà hát Chèo
Ninh Bình đảm nhiệm có tái hiện lễ đăng đàn xã tắc của Đinh Tiên Hoàng Đế
và lễ tế cờ của vua Quang Trung trên núi Đính trước giờ xung trận.
1.2 Những điều kiện thuận lợi để phát triển du lich của khu Núi chùa Bái
Đính
Du lịch Ninh Bình đang trên đà phát triển, từng bước thay da đổi thịt
theo xu hướng chung của du lịch Việt Nam và thế giới. Vì thế ngành du lịch
ngày càng chiếm một vị trí quan trọng đối với sự phát triển chung của tỉnh,
trong đó hoạt động du lịch tại quần thể chùa Bái Đính là một trong những
thành tố hàng đầu của sự phát triển ấy

1.2.1 Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Ninh Bình nằm ở đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội hơn 90
km về phía Nam. Nằm trên tuyến đường sắt Bắc- Nam, nằm trên tuyến quốc
lộ 10 nối với cửa khẩu Móng Cái và khu du lịch Hạ Long- Cát Bà, có bờ biển
dài 18km cùng hệ thống sơng ngịi phong phú (sơng Đáy, sơng Hồng Long,


sơng Vân, sơng Vạc, sơng Lạng…),với cảng Ninh Bình nên có điều kiện phát
triển mạnh giao thơng cả đường bộ và đường thủy, giao lưu thuận lợi với các
địa phương trong nước và quốc tế: có quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt
chạy qua (đoạn chạy qua Ninh Bình dài 35km),quốc lộ 10 chạy qua Nam
Đinh sang Thái Bình, Hải Phịng, Quảng Ninh, quốc lộ 12C nối Hồ Bình…
Ninh Bình nằm trên địa bàn trung chuyển của vùng núi Tây Bắc qua
đồng bằng châu thổ Sông Hồng ra biển Đơng. Tồn bộ lãnh thổ của tỉnh nằm
ở rìa Tây Nam đồng bằng sông Hồng, giáp với đồng bằng sông Mã qua vùng
núi thấp Tam Điệp (Thanh Hóa) là phần cuối cùng của vùng núi Tây Bắc,
trong khu đệm Hòa Bình - Thanh Hóa và tiếp giáp biển Đơng. Do là vùng
chuyển tiếp nên địa hình Ninh Bình khá phong phú, đa dạng, bao gồm cả các
núi, đồng bằng và bờ biển. Về tài nguyên tự nhiên ở Ninh Bình, dạng địa hình
Karst khá phổ biến và đây là dạng địa hình đặc biệt tạo nên các hang động và
cảnh quan hấp dẫn, rất có giá trị trong việc thu hút khách du lịch. Đặc biệt ở
Ninh Bình có quần thể hang động Tràng An vừa có hệ sinh thái cảnh quan
độc đáo, đan xen những di tích lịch sử quan trọng của dân tộc.
Ninh Bình thuộc đới khí hậu gió mùa chí tuyến, á đới có mùa đơng lạnh
khơ, mùa hạ có gió mùa Tây Nam gây mưa nhiều. Do địa hình Ninh Bình
phần lớn là đồng bằng, chỉ có một phần nhỏ là đồi núi nên khí hậu ít có sự
phân hóa theo lãnh thổ. Nhìn chung, khí hậu của Ninh Bình tương đối thuận
lợi cho hoạt động du lịch trong cả năm. Tuy nhiên, mức độ thuận lợi có khác
nhau tùy thuộc vào loại hình du lịch. Từ xưa Ninh Bình đã được coi là mảnh
đất “địa linh nhân kiệt” nơi phát tích của 3 vương triều: Đinh- Tiền LêLý,mở ra một kỷ nguyên mới- thời kỳ của hồ bình- ấm no- hạnh phúc cho

nước Việt sau hơn nghìn năm Bắc thuộc. Khu tâm linh núi chùa Bái Đínhtrung tâm tâm linh Phật Giáo nằm cách thủ đô Hà Nội hơn 100 km và cách


×