Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tác động của dân số đến đời sống kinh tế xã hội Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.37 KB, 32 trang )

_Nhóm kinh tế phát triển III_

Bảng các chữ viết tắt
TQ
LHQ
DS – KHHGD
ILO
TVE
TW
HDI
HD
XHCN

Trung Quốc
Liên hợp quốc
Dân số kế hoạch hóa gia đình
Tổ chức lao động quốc tế
Doanh nghiệp hương thơn
Trung ương
Human Development Index
Human Development
Xã hội chủ nghĩa

1


_Nhóm kinh tế phát triển III_

Lời mở đầu
Chiến lược dân số là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước; một trong
những vấn đề hàng đầu tác động trực tiếp đến nền kinh tế - xã hội; là yếu tố cơ bản để nâng


cao chất lượng cuộc sống của con người. Chính vì vậy, dân số vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển.
Yếu tố cơ bản của tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội là nguồn nhân lực, mà nguồn nhân
lực luôn luôn gắn liền sự biến đổi dân số cả về số lượng và chất lượng. Mục tiêu của sự phát
triển suy cho cùng là nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của con người. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được khi quy mô dân số, tốc độ tăng trưởng dân số,
sự phân bố dân cư và nguồn nhân lực thật sự phù hợp và tác động tích cực đến sự phát triển.
Ðể có sự phát triển bền vững, việc đáp ứng tăng nhu cầu và nâng cao chất lượng cuộc sống
của các thế hệ hiện tại không được ảnh hưởng các thế hệ tương lai trên cơ sở sử dụng tài
nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái và chất lượng của sự phát triển. Trong thực tế, các
yếu tố dân số có ảnh hưởng rất lớn đến tài nguyên thiên nhiên và trạng thái môi trường. Dân
số phù hợp sự phát triển đòi hỏi sự điều chỉnh các xu hướng dân số phù hợp sự phát triển nền
kinh tế - xã hội của đất nước.
Sự phù hợp đó là yếu tố quan trọng kích thích sự phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nâng cao tiềm lực của lực lượng sản xuất; là yếu tố
cơ bản để xóa đói, giảm nghèo, giảm tình trạng thất nghiệp, giảm tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ suy dinh
dưỡng, nâng cao trình độ học vấn, nâng cao vị thế của người phụ nữ, giảm rủi ro về môi
trường, mở rộng dịch vụ y tế, xã hội và huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển sản xuất,
kinh doanh, khoa học và cơng nghệ; góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Chiến lược dân số là một bộ phận quan trọng của chiến lược
phát triển đất nước; một trong những vấn đề hàng đầu tác động trực tiếp đến nền kinh tế - xã
hội; là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Chính vì vậy, dân số
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Trung Quốc (theo thống kê năm 2006) tổng số dân là 1.311 tỷ người, chiếm 20% dân
số thế giới.Chính vì vậy dân số thực sự là vấn đề nóng bỏng hiện nay của chính phủ Trung
Quốc. Làm thế nào để vừa khai thác hết tiềm năng dân số, vừa hạn chế tối đa những tác động
tiêu cực dân số tới sự phát triển kinh tế? Đó thực sự là câu hỏi lớn cho các nhà hinh tế học
Trung Quốc. Để trả lời cho những câu hỏi đó, trước tiên chúng ta hãy cùng tìm hiểu “Tác
động của dân số đến đời sống kinh tế xã hội Trung Quốc” như thế nào.


2


_Nhóm kinh tế phát triển III_

Tóm tắt
Đề tài nghiên cứu của nhóm 3 là : Tác động của dân số đến nền kinh tế Trung Quốc.
Nội dung nghiên cứu gồm 3 phần:

- Phần 1: Giới thiệu chung về đất nước Trung Quốc
- Phần 2: Tác động của dân số đến nền kinh tế
- Phần 3: Liên hệ với Việt Nam
Trong phần 1, chúng ta đề cập đến 3 vấn đề chính: khái quát chung về Trung Quốc:
diện tích, vị trí địa lý, khí hậu, ngơn ngữ, tơn giáo…; tổng quan về dân số Trung Quốc trong
thực trạng hiện nay; vài nét sơ lược về nền kinh tế Trung Quốc hiện nay và dự đoán trong
tương lai của một số nhà hoạch định chiến lược.
Tiếp đến, chúng ta đi sâu vào nghiên cứu nội dung chính: dân cư ảnh hưởng hai mặt
đến nền kinh tế Trung Quốc.
Thứ nhất, Ảnh hưởng tích cực của dân số đến nền kinh tế:
- Lực lượng lao động dồi dào, nhân công giá rẻ và lượng lao động bổ sung hàng
năm lớn.
- Thị trường tiêu thụ rộng lớn.
- Thúc đẩy q trình xã hội hố và đơ thị hố.
Thứ hai, Dân số q đơng gây ra những khó khăn tương đối lớn cho nền kinh tế:
- Sức ép về việc làm.
- Hậu quả của chính sách một con.
- Ơ nhiễm mơi trường.
- Nguy cơ dân số già ở Trung Quốc đang trong tình trạng báo động.
Trong thời đại ngày nay, hai mặt của vấn đề dân số ở Trung Quốc luôn song hành
cùng tồn tại và tác động qua lại lẫn nhau.

Phần 2, đề tài nghiên cứu từng tác động một thông qua những tài liệu, số liệu thu thập
được. Qua quá trình xử lý và hồn thiện đề tài nghiên cứu có được những biểu đồ, bảng số
liệu thể hiện rõ vấn đề đang nói đến.
Phần cuối cùng, liên hệ vấn đề đang nghiên cứu trong thực trạng nền kinh tế Việt Nam
hiện nay. Thông qua việc liên hệ với Việt Nam, đề tài rút ra những bài học kinh tể cho thực
trạng kinh tế ở Việt Nam.
Đó là tồn bộ nội dung bài nghiên cứu của nhóm 3. Trong phạm vi giới hạn về thời
gian, khơng gian và trình độ nên bài nghiên cứu khơng tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế.
Nhóm 3 mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cơ và các bạn để bài nghiên cứu hoàn
thiện hơn.
Một lần nữa chúng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cơ giáo Phan
Thị Nhiệm đã giúp đỡ chúng em hoàn thiện bài nghiên cứu này.

3


_Nhóm kinh tế phát triển III_

Phần I: Giới thiệu chung về đất nước Trung Quốc

I. Khái quát chung
Tên nước
Thủ đô
Diện tích
Vị trí địa lý

Cộng hồ nhân dân Trung Hoa
Bắc Kinh
9.6 triệu km2
Trung Quốc nằm ở phần nửa phía bắc của Đơng bán cầu, phía đơng nam

của đại lục Á - Âu, phía đơng và giữa châu Á, phía Tây của Thái Bình
Dương; có biên giới chung với Nga, Mơng Cổ (phía bắc), với Kazakstan,
Kirghistan, Taghikistan (phía tây), với Afghanistan, Pakistan, Ấn Độ, Nê
Pan, Bu Tan (phía tây nam), với Myanma, Lào, Việt Nam (phía nam),

Khí hậu

với Triều Tiên (phía đơng)
Trung Quốc thuộc khu vực gió mùa, khí hậu đa dạng từ ấm đến khơ.
Nhiệt độ trung bình tồn quốc tháng 1 là -4,70C, tháng 7 là 260C. Ba khu

Hành chính

vực được coi là nóng nhất là Nam Kinh, Vũ Hán, Trùng Khánh
31 tỉnh, thành phố gồm 22 tỉnh, 5 khu tự trị và 4 thành phố trực thuộc

Ngôn ngữ
Tôn giáo
Lịch sử

trung ương. 4 cấp hành chính gồm tỉnh, địa khu, huyện, xã.
Tiếng Hán là tiếng phổ thông, lấy âm Bắc Kinh làm tiêu chuẩn
Có 4 tơn giáo chính là Phật giáo, Đạo giáo, Đạo Hồi, Thiên chúa giáo.
Là một trong những nước có lịch sử và văn minh lâu đời nhất thế giới từ
cách đây cả 4000 năm, Trung Quốc trải qua những thăng trầm của nhiều
triều đại phong kiến, cho tới khi chế độ cộng sản được thành lập vào
cuối thập niên 1940 đến nay. Nhà nước cộng sản hiện dồn nỗ lực cải tổ
kinh tế và ra sức duy trì ổn định xã hội.

II. Tổng quát chung về dân số trung quốc


1. Thành phần cơ cấu dân số
- Số dân: 1.311 tỷ người (năm 2006), chiếm 1/5 dân số thế giới
- Thành phần dân tộc: Trung Quốc là quốc gia có nhiều dân tộc, 56 dân tộc, trong dó Hán
tộc chiếm 91.9% dân số. Cịn 55 sắc tộc ít người
- Cơ cấu dân số theo độ tuổi:

4


_Nhóm kinh tế phát triển III_

2. Sự gia tăng dân số

Dân số Trung Quốc tăng khá nhanh. Đặc biệt giai đoạn trước năm 1970. Năm 1973,
Trung Quốc bắt đầu thực hiện chính sách 1 con, sự gia tăng dân số hàng năm giảm rõ rệt. Tỷ

5


_Nhóm kinh tế phát triển III_
lệ sinh đã giảm từ 2,106% trong năm 1990 còn 1,241% trong năm 2003 và tỷ lệ tăng dân số
đã giảm từ 1,439% xuống 0,601%.

3. Sự phân bố dân cư

- Dân cư phân bố không đồng đều. Dân cư tập trung đông đúc ở miền Đông, nhất là
đồng bằng châu thổ và vùng ven biền. Dân cư miền Tây đặc biệt thưa thớt
- Mật độ dân số trung bình là 140 người/km2
- 60% lực lượng phân bố trong ngành nông nghiệp


6


_Nhóm kinh tế phát triển III_

Phần II : Tác động của dân số đến nền kinh tế Trung Quốc

I. Tác động tích cực

“Chiến lược dân số là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát
triển đất nước; một trong những vấn đề hàng đầu tác động trực tiếp đến nền
kinh tế - xã hội; là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của con
người. Chính vì vậy, dân số vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển”.
Dưới đây là những phân tích về tác động tích cực của dân số đến nền kinh tế.

1. Lực lượng lao động dồi dào, lượng lao động bổ sung hàng năm lớn
Nhiều thập kỉ trở lại đây, quốc gia đông dân nhất hành tinh này vẫn được coi là thị
trường lao động dồi dào và giá rẻ hàng đầu thế giói với hàng triệu cơng nhân trẻ từ các vùng
nơng thơn. Đó là lợi thế đã và đang tạo cho Trung Quốc thế mạnh trong phát triển kinh tế.
Nguồn lao động dồi dào là mối quan tâm lớn cho các nhà đầu tư, hiện nay người lao động
phần lớn bằng lòng với mức lương thấp . Mức lương trung bình tại Trung Quốc chỉ bằng 2%
so với ở Mỹ, giá của lao động tương ứng với chi phí đầu tư cũng chỉ bằng 6% so với con số
này ở Mỹ. Nói một cách khác, chi phí lao động của Trung Quốc là rẻ hơn so với của Mỹ cả về
con số tuyệt đối cũng như về tỷ lệ với chi phí đầu tư. Thêm vào đó tỷ giá đồng nhân dân tệ
thấp dẫn tới xuất khẩu của Trung Quốc tăng, do đó Trung Quốc được đầu tư nhiều, nhất là các
ngành công nghiệp và dịch vụ. Điều này ảnh hưởng lớn tới tăng trưởng kinh tế, trong 5 năm
(2002- 2007) GDP từ hơn 12000 tỷ Nhân dân tệ năm 2002, tăng lên hơn 24000 tệ năm 2007.


7


_Nhóm kinh tế phát triển III_
Từ năm 2005, kinh tế Trung Quốc đã đứng hàng thứ 4 thế giới. Trung Quốc vẫn giữ tốc độ
tăng trưởng cao nhất thế giới, bình quân 10.6%/năm.

800
700
600
500
400
c

300
200
100
0

1986

1995

2000

2002

2004

Biểu đồ thể hiện tổng số lao động trong các năm (triệu người)

Qua biểu đồ trên ta thấy tổng số lao động Trung Quốc tăng nhanh trong giai đoạn từ
năm 1986 đến năm 2000( tăng hơn 200 triệu lao động: từ 515.5 triệu năm 1986 tăng lên 739.9
triệu lao động năm 2000) và hiện nay vẫn tăng nhưng tốc độ chậm dần, đến năm 2005 có xu
hướng giảm( với 758.3 triệu lao động).
Mặt khác dân số tăng khiến cho lực lượng lao động bổ sung hàng năm lớn. Nền kinh
tế đang trên đà phát triển, nhiều ngành nghề đang cần một lượng lớn lao động bổ sung để đáp
ứng nhu cầu phát triển và mở rộng quy mô sản xuất. Theo số liệu thống kê cho thấy từ năm
1986 đến năm 1990 lượng lao động bổ sung lên tới 129.3 triệu lao động( từ 515.5 triệu năm
1986 tăng lên 644.8 triệu năm 1990), một con số đáng chú ý.
Lực lượng lao động dồi dào, giá thành rẻ đã đóng góp khơng nhỏ đến GDP của Trung
Quốc. Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP: 9,1 % (năm 2003). 6 tháng đầu năm 2004 tăng trưởng
10,3%.Mục tiêu phấn đấu tới năm 2010, tổng giá trị sản xuất trong nước (GDP) tăng gấp 2 lần
năm 2000, dân số khống chế trong giới hạn 1,4 tỷ người, đời sống nhân dân từ khá giả lên
giầu có, hình thành thể chế kinh tế thị trường XHCN tương đối hoàn thiện, tố chất tổng hợp
kinh tế quốc dân nâng cao hơn nhiều so với năm 2000, sức cạnh tranh quốc tế tăng mạnh, sức

8


_Nhóm kinh tế phát triển III_
sản xuất xã hội, sức mạnh tổng hợp quốc gia, mức sống của nhân dân nâng cao lên một bậc;
duy trì tăng trưởng GDP bình quân 8%/ năm.

2. Thị trường tiêu thụ lớn
Thực vậy, như mọi người đều biết thì thị trường lớn nhất hiện nay là Mỹ. Ngày
14/10/2005 Mỹ vẫn là nước có thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới. Nhưng với nền kinh tế
phát triển nhanh chóng, đất nước đơng dân nhất thế giới đã thay thế Mỹ đứng vào vị trí hàng
đầu thế giới về mức tiêu thụ 4 trong 5 loại hàng hố cơ bản trong nhóm thực phẩm, năng
lượng và hàng công nghiệp, theo nghiên cứu của một viện mơi trường tồn cầu cơng bố.
Trung Quốc đã chiếm tỷ lệ cao nhất thế giới trong tiêu thụ ngũ cốc, thịt, than đá và thép, và

chỉ thua Mỹ về tiêu thụ dầu. Đây là kết luận của Viện Chính sách trái đất, có trụ sở ở
Washington.Với các loại hàng hố khác, như phân bón, Trung Quốc sử dụng khối lượng gấp
đôi so với Mỹ, trong khi số lượng máy thu hình, tủ lạnh và điện thoại di động của quốc gia
châu Á này nhiều hơn ở Mỹ.Trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, Trung Quốc còn đứng sau Mỹ về
lượng xe hơi. Cũng theo nghiên cứu này, số máy vi tính của Trung Quốc sẽ qua mặt Mỹ, vấn
đề chỉ còn là thời gian."Việc Trung Quốc chiếm ngôi thị trường tiêu thụ mạnh nhất nên được
xem như một cột mốc trên con đường nước này phát triển và trở thành đầu tàu kinh tế thế
giới", Lester Brown, viện trưởng Viện Trái đất, phát biểu.Mức sử dụng thép - một trong các
thước đo phát triển công nghiệp - của Trung Quốc trong năm 2003 cao hơn gấp đôi của Mỹ.
Tuy nhiên, hiện mức tiêu thụ dầu của Mỹ vẫn gấp 3 lần của Trung Quốc.Việc Trung Quốc
nhập nhiều nguyên nhiên liệu không chỉ khiến giá cả hàng hoá, mà cả cước vận tải trên thị
trường thế giới tăng lên.Cảnh báo rằng sự phụ thuộc của kinh tế toàn cầu vào Trung Quốc, xét
về khía cạnh là thị trường tiêu thụ nguyên liệu thơ và thành phẩm, có thể mang lại hậu quả
xấu nếu như mức tăng trưởng kinh tế của nước này chậm lại."Khi thu nhập của Trung Quốc
tăng với nhịp độ kỷ lục, việc tiêu thụ lương thực, năng lượng, nguyên liệu thô và hàng tiêu
dùng cũng liên tục tăng", ông nói. Tuy nhiên, điều này có thể tạo sức ép đối với môi trường.
Brown chỉ ra rằng sản lượng lương thực của Trung Quốc đang sụt giảm nhanh chóng do tình
trạng sa mạc hố và mất các hệ thống tưới tiêu. Mức tiêu thụ của Trung Quốc sẽ tăng
18%/năm vào năm 2014, cao hơn tỉ lệ tăng trưởng trung bình toàn cầu là 11% và 2,1% của
Mỹ. CSFB đã đưa ra dự đoán trên dựa vào các dữ kiện như tỉ lệ tăng trưởng kinh tế và tỉ lệ
tiêu thụ trong tổng sản phẩm nội địa, theo đó Trung Quốc sẽ có mức tăng trưởng kinh tế
7%/năm và tỉ lệ tiêu thụ trong tổng sản phẩm nội địa tăng 5,5%/năm từ nay cho đến năm

9


_Nhóm kinh tế phát triển III_
2014. Năm ngối, cũng theo CSFB, Trung Quốc đứng thứ 7 trong danh sách các nước tiêu thụ
lớn nhất thế giới sau Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh, Pháp và Ý. Dân số đông cầu tăng thúc đẩy nền
kinh tế. Nhu cầu trong nước tăng cao, thị trường trong nước được mở rộng. Tuy nhiên với

từng giai cấp có cầu khác nhau về sản phẩm… Dân số Trung Quốc phân bố giàu nghèo tương
đối rõ rệt, sinh hoạt khác nhau làm đa dạng hoá các sản phẩm như thực phẩm, cơng nghiệp,
giải trí. Dân số đơng tiêu thụ lớn thị trường ngày càng mở rộng với mức sống ngày càng cao
của nhân dân Trung Quốc là 1 điều tất yếu.

3. Xã hội hoá được chú trọng và đẩy mạnh ở nhiều lĩnh vực
Với số dân như vậy nếu Trung Quốc khơng xã hội hố đất nước về mọi mặt thì khơng
thể đạt được GDP danh nghĩa $2.680 tỷ đứng thứ 4 trên thế giới theo thống kê vào năm 2006
như vậy. Xã hội hoá diễn ra trên mọi phương diên.
Về lĩnh vực giáo dục: Toàn ngành giáo dục cần phải tập trung khắc phục tình trạng
chất lượng giáo dục cịn thấp, chú trọng đúng mức khơng chỉ dạy chữ, học chữ mà điều căn
bản là dạy người, dạy làm người và học làm người. Cần đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy
và học để đào tạo ra lớp người mới vừa có ý tưởng hồi bão, vừa có bản lĩnh vững vàng,
phẩm chất chính trị tốt đẹp. ba vấn đề cần có sự thống nhất cao trong việc tổ chức thực hiện
các chủ trương quan trọng của giáo dục. Trước hết là nhận thức về vấn đề xã hội hóa giáo dục
trong điều kiện phát triển mạnh mẽ về quy mơ.Bên cạnh đó là vấn đề xây dựng đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý giáo dục. Vấn đề thứ ba là đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý giáo
dục.
Về lĩnh vực y tế: Trung Quốc là 1 nước có nền y học rất phát triển đặc biệt là y học
dân tộc. Dân số Trung Quốc đứng hàng đầu trên thế giới về mức độ đông của dân cư đã gây
áp lực cho y tế. Vì vậy việc xã hội hố về mặt y tế là 1 điều cần thiết hiện nay. Phân cấp trong
y tế, lập kế hoạch, quản lý và cung ứng dịch vụ y tế ở tuyến tỉnh, giúp cho người dân nhận
được các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ đạt chất lượng tốt là mục tiêu trong tương lai của hệ
thống y tế. Thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; Chuyển hầu hết các bệnh viện công lập sang
hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ; hoàn thành việc chuyển các cơ sở y tế bán công sang
dân lập hoặc tư nhân. Các tỉnh, thành phố có điều kiện kinh tế phát triển đều có bệnh viện
ngồi cơng lập.
Về lĩnh vực văn hố: Giữ gìn bản sắc văn hoá đồng thời tiếp nhận nền văn hoá mới.

10



_Nhóm kinh tế phát triển III_

II. Những tác động tiêu cực của dân số đến nền kinh tế Trung Quốc :
Việc Trung Quốc là quốc gia có số dân đơng nhất thế giới, đó là thế mạnh có nhiều tác
động tích cực đến sự tăng trưởng phát triển của nền kinh tế Trung Quốc như chúng ta đã đề
cập đến ở phần trên. Tuy nhiên việc quốc gia có số dân đông như con dao hai lưỡi, đem lại
nhiều tác động tích cực nhưng cũng đồng thời đặt ra cho chính phủ Trung Quốc nhiều vấn đề
khó khăn nan giải. Trong xã hội Trung Quốc đã xuất hiện các vấn đề mâu thuẫn về dân số, mà
nếu khơng xử lí tốt các mâu thuẫn này đã, đang và sẽ gây nên tình trạng kinh tế chững lại, xã
hội bất ổn định, lãng phí tài nguyên và gây ra nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng. Hiện
nay Trung Quốc đang phải đối mặt với những bài tốn rất khó giải quyết : nguy cơ dân số già,
những hậu quả do chính sach một con gây ra, sức ép về việc làm, vấn đề ơ nhiễm mơi trường
và …

1.Hậu quả của chính sách một con :

1.1 Nội dung chính sách một con và thực trạng :
Để hạn chế tốc độ tăng dân số, chính phủ Trung Quốc đã đề ra chính sách một con hay
cịn gọi là chính sách “ nhất thai hóa ” vào năm 1973 và đưa vào thực hiện từ những năm
1980. Nội dung của chính sách này quy định mỗi gia đình ở thành phố chỉ được phép có 1
con và ở nơng thơn là 2 con,. Nếu vi phạm sinh quá số con quy định sẽ phải chịu một khoản
tiền phạt rất lớn cùng nhiều biện pháp xử phạt nghiêm khắc. Chính phủ ở Bắc kinh đã áp dụng
chính sách này sau nhiều thập niên dân số tăng mạnh dưới thời Mao Trạch Đông, dựa theo
chủ trương gọi là ‘người đông dễ làm việc’.
Sau gần 30 năm áp dụng, chính sách đã đem lại nhiều kết quả thành tựu khơng thể phủ
nhận. Chính phủ Trung Quốc cho rằng việc áp dụng chính sách này đã giúp quốc gia đơng dân
nhất thế giới này có được tình trạng tương đối phồn vinh, thịnh vượng ngày hôm nay.Cũng
theo ước tính của các chuyên gia dân số Bắc Kinh nếu khơng có chính sách này dân số Trung

Quốc hiện nay sẽ ở mức 1 tỉ 700 triệu người thay vì 1 tỉ 300 triệu người như hiện nay. Kết quả
của chính sách này đem lại là hiện nay Trung Quốc là quốc gia có đà tăng trưởng dân số thấp

11


_Nhóm kinh tế phát triển III_
nhất trong thế giới đang phát triển là 6 phần 10 của 1% mỗi năm. Từ khi thực hiện chính sách
tỉ lệ tăng dân số đã giảm đáng kể từ 1,439% năm 1990 xuống còn 0,601% năm 2003.
Năm

Tỉ suất sinh ()

1970
1990
2005

Tỉ suất tử ()
15
7
6

33
18
12

Tỉ suất gia tăng
dân số ( % )
1,8
1,1

0,6

Bảng tỉ suất gia tăng tự nhiên của Trung Quốc
Tỉ lệ sinh đã giảm 4% từ 5,8 % năm 1970 xuống chỉ còn 1,8 % như hiện nay. Đặc biệt
trong 20 năm đầu thực hiện chính sách từ năm 1970 đến năm 1990 tỉ lệ sinh đã giảm 2,754
lần. Đó quả là những thành cơng to lớn mà chính sách đã đem lại. Ban chấp hành Trung ương
Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Chính phủ, Trung Quốc đang nỗ lực lớn hơn nữa nhằm ngăn
chặn sự bùng nổ dân số; duy trì tỷ lệ sinh thấp sẽ là ưu tiên hàng đầu của đất nước trong 4
năm tới. Chính phủ dự định sẽ hạn chế dân số ở đại lục dưới 1,36 tỷ vào năm 2010 và dưới
1,45 tỷ năm 2020.

BIEU DO TI LE SINH DAN SO TRUNG QUOC ( % )
7.00%

SO PHAN TRAM

6.00%

5.80%

5.00%
BIEU DO TI LE
SINH DAN SO
TRUNG QUOC (
%)

4.00%
3.00%
2.11%


2.00%

1.80%
1.24%

1.00%
0.00%
1970

1990

2003

2007

NAM

12


_Nhóm kinh tế phát triển III_

Bên cạnh những thành cơng đó chính sách một con cũng đem lại những hậu quả đáng lo
ngại cho Trung Quốc. Đó là các vấn đề liên quan đến giá trị đạo đức, các tội ác nhân loại
nghiêm trọng, mất cân bằng về tỉ lệ giới tính…

1.2 Những hậu quả của việc thực hiện chính sách một con :
Việc quy định mỗi cặp gia đình chỉ được phép sinh một con đã gây ra tình trạng phần lớn
các hộ gia đình đều chỉ mong đứa con duy nhất sinh ra là con trai. Tương tự như nhiều quốc
gia ở châu Á, vấn đề nối dõi tông đường và quan niệm trọng nam khinh nữ vẫn cịn khá phổ

biến ở Trung quốc. Vì vậy, chính sách một con đã mang lại một hậu quả vô cùng tàn khốc, có
rất nhiều phụ nữ Trung quốc đã phá thai khi biết được họ sắp sinh con gái. Nhiều bậc cha mẹ
còn đang tâm chọn giải pháp giết hại trẻ sơ sinh khi con sinh ra là gái. Cũng khơng ít gia đình
lại chọn giải pháp bỏ rơi đứa con mới sinh ra khiến các em trở thành trẻ mồ côi. Một thời gian
ở Trung quốc diễn ra liên tục các vụ mất tích của những bé gái mà không rõ nguyên nhân.
Nguyên nhân của việc làm này là xuất phát từ tâm lí các cặp vợ chồng mong sinh được con
trai để có người nối dõi tơng đường, chăm sóc, phụng dưỡng mình về già.Trong những năm
gần đây, giới chức trách đã áp dụng lệnh cấm xét nghiệm giới tính của thai nhi để tìm cách
ngăn chận tệ nạn này, nhưng theo các nhà quan sát, biện pháp này khơng mang lại hiệu quả
nào. Chính từ những tư tưởng bảo thủ cổ hủ như vậy là nguyên nhân trực tiếp gây ra những
tội ác xã hội nghiêm trọng. Đó là những việc làm, những tội ác nghiêm trọng làm suy đồi đạo
đức con người.
Hậu quả của tư tưởng trọng nam khinh nữ như trên là hiện nay dân số Trung Quốc
đang mất cân bằng nghiêm trọng. Việc dân số mất cân bằng về giới tính càng làm cho bài toán
dân số Trung Quốc càng trở nên nan giải hơn. Theo con số thống kê của chính phủ cho thấy tỉ
lệ bé trai so với bé gái ở nước này là 119/100. Hiệp hội kế hoạch hóa gia đình nước này cho
biết tình trạng chênh lệch hiện nghiêm trọng tới mức một số thành phố có tỉ lệ lên tới 160 bé
nam/100 bé nữ Các chuyên gia nghiên cứu về dân số cũng dự báo thêm rằng tình trạng nam
thừa nữ thiếu sẽ lên cao đỉnh điểm vào năm 2020, và lúc đó sẽ có tới 40 triệu người đàn ơng
Trung Quốc sẽ phải sống trong tình trạng độc thân.
Chính từ việc mất cân bằng giới tính như trên đã gây ra những hậu quả xã hội nghiêm
trọng không lường trước được. Một số tin rằng khi hàng triệu đàn ơng nước này khơng thể tìm
được vợ, sẽ dẫn đến các hành vi bạo lực và phản xã hội. Đây chính là nguyên nhân chính giải

13


_Nhóm kinh tế phát triển III_
thích cho tệ nạn bn bán phụ nữ sang Trung Quốc biến nước này thành quốc gia có thị
trường bn bán phụ nữ lớn nhất thế giới. Gần đây các giới chức Hoa Kỳ đã bày tỏ lo ngại về

ảnh hưởng tiêu cực của chính sách kế hoạch hóa gia đình ở Trung Quốc đối với những nỗ lực
quốc tế nhằm bài trừ tệ nạn buôn người. Theo số liệu điều tra của tổ chức dân số thế giới cho
biết trong tổng số khoảng 600 tới 800 ngàn người bị mua bán ra nước ngoài trên tồn thế giới
thì đã có tới 250 ngàn người là nạn nhân ở Trung Quốc. Các chuyên gia Trung Quốc học cũng
cho biết nhiều phụ nữ ở các nước láng giềng của Trung Quốc như Bắc Triều Tiên, Việt
Nam…đã bị lừa bán sang Trung Quốc để phục vụ tại những địa điểm bán dâm hoặc bị mang
đi gạ bán trong những vụ hôn nhân cưỡng bách.
Một trong những hậu quả khơng thể khơng kể đến của chính sách một con đó chính
những quy định khắt khe cung mức tiền phạt quá cao dẫn tới tình trạng tán gia bại sản của
những cặp vợ chồng trót vi phạm. Khi có một đứa con nằm ngồi kế hoạch của chính phủ
người dân sẽ phải đóng góp một khoản tiền phạt gấp 10 lần khoản tiền lương hàng năm của cả
hai vợ chồng.Tuy nhiên cũng có những người sẵn sàng đóng khoản tiền 150000 nhân dân tệ
phạt tương ứng với khoảng 18700 đơ la gấp 20 lần thu nhập bình qn đầu người để có thể
sinh thêm một đứa con là dấu hiệu mới nhất cho thấy sự chênh lệch giàu nghèo q độ ở
Trung Quốc hiện nay.
Chính sách một con cịn tạo ra những vấn đề nghiêm trọng về giáo dục, xã hội, kinh
tế.Theo các chuyên gia xã hội, nhiều cặp vợ chồng ở Trung Quốc đã nuông chiều quá độ đứa
con duy nhất của họ. Điều này khiến cho nhiều đứa trẻ thuộc thế hệ mới hay thường được gọi
là “tiểu hồng đế”,dễ lâm vào tình trạng hư đốn.Chính sự nuông chiều quá mức này đã làm
cho nhiều thanh niên trẻ ỷ lại vào gia đình,chơi bời lêu lổng, lười lao động gây ra nhiều hiện
tượng tiêu cực trong xã hội Trung Quốc hiện đại Việc mỗi gia đình chỉ có một con, đứa trẻ
khơng có anh chị em và đặc biệt trong lối sống hiện nay cha mẹ ít có thời gian quan tâm đến
con cái làm cho những đứa trẻ thiếu khả năng giao tiếp xã hội, thiếu những kĩ năng cần thiết
để làm việc chung với người khác. Đây sẽ là một hạn chế lớn cho thế hệ lao động tương lai
của Trung Quốc.
Như ta đã biết Trung Quốc có một lực lượng lao động dồi dào đây chính là một trong
những tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế Trung Quốc. Nhiều thập kỷ trở lại đây, quốc
gia đông dân nhất hành tinh này vẫn được coi là thị trường lao động dồi dào và giá rẻ hàng
đầu thế giới với hàng triệu nhân cơng trẻ từ các vùng nơng thơn. Lợi thế đó đã và đang tạo


14


_Nhóm kinh tế phát triển III_
cho Trung Quốc thế mạnh trong phát triển kinh tế “nóng”, Tuy nhiên việc thực hiện chính
sách một con sẽ làm cho lực lượng lao động trong tương lai của quốc gia này giảm sút đáng
kể nếu khơng muốn nói là thiếu. Lực lượng lao động bị thu hẹp sẽ là một tai họa đối với nền
kinh tế Trung Quốc. Trước đây tỉ lệ người lao động so với người về hưu là 10/1 vào năm
1990 thì nay con số đó đã giảm nhanh chóng xuống còn 6/1 vào năm 2000 và dự báo trong
tương con số này sẽ là 2/1 vào năm 2040
Một hậu quả nữa do thi hành chính sách một con đó là việc gây áp lực ngày càng
nặng nề hơn cho giới trẻ. Những cặp vợ chồng trẻ hiện nay đang phải đối mặt với hiện tượng
8-4-2-1, tức là họ sẽ phải chăm sóc, phụng dưỡng 4 cha mẹ và 8 ông bà và một đứa con. Thực
trạng này đã gây sức ép rất lớn nên vai những người trẻ tuổi, ngồi sức ép căng thẳng của
cơng việc thì giờ họ lại phải chịu thêm gánh nặng gia đình. Để ngăn chặn nguy cơ này chính
phủ Trung Quốc cũng đã có những biện pháp nới lỏng dần dần chính sách một con. Các hộ
gia đình nơng thơn, nếu đã có một con đầu lịng là gái, có thể được sinh thêm một con nữa. Từ
năm 2000, những cặp vợ chồng nào đều là con một có thể được đẻ hai con. Nhưng nới lỏng
cũng chẳng phải dễ thực hiện, ở các thành phố lớn, nhiều người trẻ chỉ muốn có một hoặc
thậm chí khơng có con, theo mốt "nhân đơi thu nhập, khơng sinh con".
Chính sách một con của Trung Quốc hiện đang là bài toán nan giải đối với những nhà
hoạch định dân số.

2. Nguy cơ dân số già :
2.1 Thực trạng :
Trên thực tế, Trung Quốc đã trở thành một nước có dân số già từ năm 1999, và xu thế đó
khơng thể đảo ngược trong thế kỷ này. Số người trẻ ngày càng ít đi trong khi số người già
tăng lên khiến cấu trúc tuổi của dân số Trung quốc sẽ giống như hình kim tự tháp ngược. Thật
sự, khuynh hướng già hóa dân số ở Trung Quốc đã và đang đặt ra những thách thức lớn chưa
từng có đến xã hội và kinh tế. Sự già hóa ở Trung Quốc đặc trưng bởi tốc độ tăng nhanh, quy

mơ lớn, và tình trạng người dân sẽ “già trước khi giàu”.Các giới chức dân số cảnh báo nếu
không được quan tâm đúng mức thì các vấn đề về tuổi tác sẽ là trở ngại lớn đến tốc độ phát
triển kinh tế của quốc gia này. Nguyên nhân chính đặt Trung Quốc trước nguy cơ trên là do
những hậu quả chính sách một con và kế hoạch hố gia đình gắt gao của chính phủ từ năm
1973 mà chúng ta đã đề cập đến ở trên.

15


_Nhóm kinh tế phát triển III_

1.
Trung Quốc hiện đang là nước có tỉ lệ dân số già tăng nhanh hơn bất kì quốc gia nào trên
thế giới. Đây là quốc gia có số người già chiếm hơn một nửa tổng số người già tại châu Á.
Theo một phân tích của China Business Times, cách đây 35 năm cứ 6 trẻ em có một người
già, cịn hiện nay tỉ lệ này là 2 người già/1 trẻ em. Điều này cho thấy tốc độ dân số già đi
nhanh chóng của Trung Quốc trong những năm gần đây.
BIEU DO DAN SO TRUNG QUOC NAM 2007

BIEU DO DAN SO TRUNG QUOC NAM 2000

11,30%

%DS>60T

9,90%
>6

88,70%
90,10%


BIEU DO DU KIEN TRUNG QUOC NAM 2040
BIEU DO DAN SO TRUNG QUOC DU KIEN NAM 2020

30%

16%

%DS>60T
%DS>60T

70%
84%

16


_Nhóm kinh tế phát triển III_
Biểu đồ thể hiện sự gia tăng nhanh chóng dân số già ở Trung Quốc trong những năm gần đây
và dự kiến trong tương lai
Theo báo cáo của Ủy ban dân số và kế hoạch gia đình Bản cho biết vào thời điểm năm
2000, Trung Quốc có 124 triệu người có tuổi thọ trung bình cao hơn 60 tuổi, chiếm 9,9% tổng
dân số Trung Quốc. Năm 2007 có khoảng 149 triệu người Trung Quốc có tuổi thọ cao hơn 60
tuổi, chiếm 11,3% tổng dân số Trung Quốc. Như vậy sau chưa đầy một thập kỉ tốc độ gia tăng
dân số già 0,2%. Bản báo cáo cịn đưa ra dự báo vào năm 2020, sẽ có khoảng 234 triệu người
dân Trung Quốc sống trên 60 tuổi, chiếm 16% tổng dân số. Và đến năm 2040, con số này sẽ
tăng gấp đôi lên tới 430 triệu người, chiếm khoảng 30% dân số cả nước.
Cho đến nay, mức tăng trưởng dân số của quốc gia này đang diễn ra khá chậm, càng có ít
trẻ em được sinh ra thì sự hài hồ về độ tuổi dân số sẽ bị thay đổi. ”. Dân số già sẽ kéo theo
hàng loạt hệ lụy kinh tế xã hội như thiếu hụt lực lượng lao động, trợ cấp cho người cao tuổi và

giá trị gia đình truyền thống bị mai một.

2.2 Tác động tiêu cực :
Dân số già cỗi có tác động mạnh tới tăng trưởng kinh tế. Với thực trạng dân số già ngày
càng tăng hiện nay đang trở thành gánh nặng lên hệ thống tài chính và bảo hiểm y tế của đất
nước. Số người cao tuổi gia tăng khiến cho sức ép chi trả cho hệ thống trợ cấp càng tăng.
Hiện tại, GDP trên đầu người vừa tròn 1.000 USD, tương đối thấp so với mức 5.000- 10.000
USD của các nước phát triển tại thời điểm dân số các nước này già đi.Tỉ lệ người lao động so
với người về hưu giảm nhanh, từ 13,1:1 vào năm 1980 xuống chỉ cịn 3:1 năm 2003 và ước
tính sẽ là 2,5:1 vào năm 2020. Thiếu hụt lực lượng lao động trên dẫn đến nguồn phúc lợi xã
hội cũng giảm theo. Do đó sẽ hạn chế khả năng trợ cấp cho dân số già. Theo số liệu thống kê
năm 2005, chỉ có 13,4% tổng dân số (khoảng 174 triệu người) nhận được trợ cấp từ hệ thống
phúc lợi, thấp hơn nhiều so với mức tối thiểu 20% do Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) yêu
cầu. Hầu như toàn bộ người dân nông thôn và người lao động nông thôn di cư tới các thành
phố, khoảng 800 triệu người, khơng có được trợ cấp từ chính phủ.
Tăng độ tuổi của về hưu từ 50 lên 55 tuổi (đối với nữ) và từ 55 lên 60 tuổi (đối với nam)
cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế là một giải pháp để xoá đi áp lực đáng kể cho hệ thống chi
trả lương hưu hiện nay. Nhưng theo nhận định của các chuyên gia an sinh xã hội, tăng tuổi về
hưu cũng tạo ra hàng hàng loạt các vấn đề cho chính phủ Trung Quốc.

17


_Nhóm kinh tế phát triển III_
Đối với chính phủ, vấn đề đau đầu nhất của tình trạng dân số già là sức ép chi trả cho quỹ
lương hưu ngày càng tăng. Khơng cịn mấy tư tưởng “trẻ cậy cha, già cậy con” nữa. Nhiều
cặp vợ chồng thậm chí khơng sinh con và điều tất yếu là khi về già họ phải trông vào lương
hưu và trợ cấp. Như vậy, bài tốn của Chính phủ Trung Quốc về vấn đề hỗ trợ người cao tuổi
ngày càng khó giải hơn. Thật vậy, có tới hơn nửa số người cao tuổi ở thành thị lựa chọn trợ
cấp phúc lợi xã hội là nguồn thu nhập chính sau khi nghỉ hưu. Cịn ở nơng thôn con số là

11,8%, cao hơn tỷ lệ năm 2000 là 6,7% của năm 2000. Nhưng chỉ có khoảng 4,8% nhận được
trợ cấp từ hệ thống lương hưu đó.
Cịn với người dân, khi tuổi thọ trung bình càng gia tăng, tầng lớp những người về hưu sợ
đối mặt với quãng thời gian dài đằng đẵng. Họ đang đổ xô đi tìm một cơng việc mới để lấp
đầy thời gian nhàn rỗi và chuẩn bị tốt nhất cho những năm tháng tuổi già. Bên cạnh đó cịn
diễn ra một thực trạng là số người già tăng lên kéo theo số bệnh nhân mất trí cũng tăng theo.
Theo nhận định của các chun gia thì hiện nay : “ bệnh mất trí cũng là vấn đề đáng lo ngại vì
căn bệnh này đang ngày một phát triển ở Trung Quốc, cùng với các tệ nạn xã hội như AIDS
vẫn đang tiếp tục đe dọa cộng đồng”
Từ sau khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường, trách nhiệm chu
cấp cho người cao tuổi ở Trung Quốc đang được chuyển từ xí nghiệp cho xã hội. Theo các
nhà ngiên cứu thì Trung Quốc phải tăng đầu tư vào chất lượng giáo dục để duy trì cạnh tranh
và giữ được đà tăng trưởng hiện nay cho đến ít nhất 20 năm tới mới mong đáp ứng được số
lương hưu cho người cao tuổi. Đây quả là một nhiệm vụ hết sức khó khăn đặt ra cho các nhà
cầm quyền ở Trung Quốc.
Hiện nay chính quyền trung ương của Trung Quốc đang tiến hành một chương trình thí
điểm ở các vùng nơng thơn, trong đó trợ cấp cho mỗi gia đình có cha mẹ trên 60 tuổi nhưng
vẫn chỉ có 1 con hoặc có 2 con gái là 50 NDT ( 6 đô la ) một tháng. Số tiền này nhằm làm
giảm bớt nhu cầu có nhiều con, do những người dân ở nơng thơn thường muồn có nhiều con
để sau này có người phụng dưỡng khi về già. Trong khi đó một số thành phố hiện nay ở Trung
Quốc đã bắt đầu cho phép sinh thêm con thứ hai tùy thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể, nhất
định với mục tiêu làm giảm bớt áp lực của một xã hơi già hóa trong tương lai.

3.Sức ép về việc làm và vấn đề thất nghiệp ở Trung Quốc :
Dân số Trung Quốc tăng mạnh trong những năm 1960 và 1970. Chỉ trong vịng 10 năm từ
1964 đến 1974 số cơng dân của nước này đã tăng với một con số gây sửng sốt 300 triệu

18



_Nhóm kinh tế phát triển III_
người. Điều này đã gây ra những khó khăn nghiêm trọng bởi sự phát triển kinh tế, xã hội của
đất nước không thể đáp ứng nổi cho số lượng người tăng nhanh như vậy.Theo báo cáo của Uỷ
ban dân số và Kế hoạch gia đình Trung Quốc, trong khoảng ba thập kỉ nữa dân số Trung Quốc
sẽ tăng thêm 200 triệu người và đạt tới ngưỡng 1,5 tỉ người vào năm 2033. Theo dự đoán thì
dân số của Trung Quốc sẽ đạt 1,36 tỉ người vào năm 2010 và 1,45 tỉ người vào năm 2020,
trong đó sẽ có gần 1,01 tỉ người trong độ tuổi lao động cao hơn so với tất cả các nước phát
triển gộp lại.
Những sinh viên Trung Quốc hiện nay đang phải chịu một áp lức rất lớn. Họ tự đề ra cho
mình một chương trình học hết sức nặng nề, để có thể đạt được bằng cấp cao. Bởi để kiếm
được một công việc trong tương lai là vô cùng khó khăn. Họ phải cạnh tranh hết sức khốc liệt
mới mong có được một cơng việc. Năm 2006 Trung Quốc có 4,13 triệu sinh viên tốt nghiệp
đại học nhưng 30% trong số đó vẫn đang thất nghiệp. Tỉ lệ thất ghiệp cũng ở mức rất cao
trong số những người không tốt nghiệp đại học. Cùng với sự gia tăng của dân số thì tỉ lệ
người thất nghiệp cũng ngày càng gia tăng. Hàng năm có thêm hàng triệu người khơng có
việc làm. Số người thất nghiệp ngày càng nhiều trong khi những nỗ lực tạo thêm việc làm cho
người dân của chính quyền chỉ đem lại kết quả khơng đang kể. Số người khơng có việc làm
ngày càng tăng lên chính là nguyên nhân làm cho các tệ nạn xã hội như : trộm cắp, cướp giật,
cờ bạc…cũng ngày càng gia tăng. Làm cho đời sống xã hội bất ổn định, đạo đức suy thối.
Có một thực trạng đang xảy ra với những người chuẩn bị hoặc mới về hưu của Trung
Quốc là : họ đổ xơ đi tìm việc làm, tại một thị trường lao động mà tỉ lệ thất nghiệp hiện ở mức
rất cao. Trong khi ở các nước phát triển phương tây làm việc sau khi quá độ tuổi lao động
được xem như là một cơ hội dể thỏa mãn những tham vọng lâu dài thì đối với một số đơng
người ở Trung Quốc việc tìm kiếm cơng việc làm thêm được trả lương trong vịng một hoặc
hai thập kỉ nữa là vấn đề mang tính chất sống còn. Một thực tế đáng buồn là khi bước sang
tuổi 50, cái tuổi mà đang lẽ ra con người ta phải được nghỉ ngơi quây quần bên con cháu thì
giờ đây hàng triệu người già ở Trung Quốc lại phải bắt đầu tìm một cơng việc mới. Việc giải
quyết nạn thất nghiệp cho những người trong độ tuổi lao động đã là bài tốn chưa tìm được
lời giải, thì giờ đây nó lại càng đi vào thế bế tắc.


19


_Nhóm kinh tế phát triển III_

4. Vấn đề ơ nhiễm môi trường nghiêm trọng, thiếu hụt tài nguyên ở Trung
Quốc:
Không thể phủ nhận cùng với nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, điều kiện sống của nguời
dân Trung Quốc đang có những tiến triển tích cực. Các nhà máy, coong trình xây dựng, các
khu chế suất được xây dựng ngày càng nhiều. Kinh tế Trung Quốc đã có những bước nhảy vọt
đáng kển hưng cái giá phải trả của nó cũng không hề nhỏ. Trung Quốc hiện đang phải đứng
trước những vấn đề về ô nhiễm nguồn nước, biến đổi khí hậu, nhiều loại động vật q hiếm bị
đe dọa…Khơng những vậy vấn đề dân số quá đông cũng đặt ra vấn đề thiếu hụt lương thực ở
quốc gia đông dân nhất thế giới này. Trung Quốc có thể sẽ phải đối mặt với nạn ô nhiễm nước
trầm trọng trong 25 năm tới do nước này hiện nay chỉ quan tâm tới tốc độ phát triển kinh tế
mà không bảo vệ môi trường.

4.1 Đáp ứng nhu cầu lương thực khổng lồ và những hậu quả tất yếu của nó:
Với dân số đông đúc 1,3 tỉ người, người dân Trung Quốc có một nhu cầu khổng lồ về
lương thực, thực phẩm trong khi diện tích đất canh tác đã giảm đi đáng kể. Trong vịng 50
năm trở lại đây, diện tích canh tác sinh sống của cư dân Trung Quốc đã giảm đi một nửa,
trong khi dân số lại tăng lên gấp đôi. Sa mạc đang ăn dần đất liền, càng ngày càng lớn. Đáng
nói là điều này khơng chỉ xảy ra ở những nơi khơ cằn mà nó cịn tác động trực tiếp tới các khu
vực đông dân.
Việc canh tác đất nông nghiệp bất hợp lý, làm đường giao thông, xây dựng cảng biển, và
lấy đất xây dựng đô thị bằng cách lấy đẩt lấp khô đầm lầy lại càng đẩy nhanh q trình hoang
mạc hố. Gần 1/3 đất nơng nghiệp bị cạn kiệt chất dinh dưỡng vì phong hóa và thâm canh quá
mức. Theo Cục bảo vệ môi trường TQ, diện tích sa mạc hiện đã là 2,4 triệu km2 và đang tăng
với tốc độ 3000 km2 /năm. Do hiện tượng sa mạc hoá, bão cát ngày càng xuất hiện nhiều hơn
và mạnh hơn. Những cơn gió mùa xuân thổi qua các sa mạc của Mông Cổ và TQ, tạo ra các

đám mây cát bụi khổng lồ di chuyển qua cả châu Á và thế giới. Nồng độ bụi cao trong khơng
khí gây ra những nguy cơ nghiêm trọng cho sức khỏe và môi trường. Các cơn bão bụi cũng
làm phong hóa lớp đất bề mặt, lấy mất chất dinh dưỡng, ngăn cản ánh nắng Mặt Trời chiếu
xuống cây trồng và gây ra những hiện tượng thời tiết bất thường.
Hiện tượng phong hóa đất làm cho các tác động của lụt lội càng trở nên nặng hơn. Năm
1998, các bờ sơng bị phong hóa đã làm cho trận lụt ở sông Giang Tử trở thành một thảm họa
với hàng nghìn người chết, hàng triệu người bị mất nhà cửa. Nhu cầu về nguồn nước tăng

20


_Nhóm kinh tế phát triển III_
mạnh nên các hồ chứa nước ở Trung Quốc bị rút cạn nhanh chóng, lượng mưa lại không ổn
định. Trung Quốc đang phải gánh chịu tình trạng khơ hạn và lũ lụt chưa từng thấy ở nhiều
vùng khác nhau trong cả nước

4.2 Ơ nhiễm mơi trường nghiêm trọng :
Từng giờ từng phút hiện nay người dân Trung Quốc đang phải đối mặt với việc không có
nước sạch để sử dụng cùng với việc phải thở trong một bầu khơng khí bị ơ nhiễm nặng nề.
Chính phủ Trung Quốc đã phải chi nhiều khoản tiền cho việc cải thiện môi trường. Theo số
liệu thống kê của Trung Quốc, trong số 300 triệu người, chủ yếu tại các vùng nông thôn, 63
triệu người phải sử dụng nước có hàm lượng flo cao, 2 triệu người sử dụng nước có độc tố
arsen, 38 triệu người sử dụng nước đắng và mặn, 190 triệu người sử dụng nước có hàm lượng
chất gây hại cao.. Hầu như tất cả các dịng sơng của quốc gia này đều bị ơ nhiễm ở các mức
độ khác nhau, và một nửa dân số thiếu nước sạch. Theo một cuộc khảo sát gần đây, khoảng
90% các thành phố Trung Quốc có sử dụng nước ngầm cũng bị nhiễm bẩn. Hiện có khoảng
400 trong số 660 thành phố của Trung Quốc thiếu nước sinh hoạt, trong đó, 136 thành phố
khác gặp tình trạng thiếu nước nghiêm trọng.Khan hiếm nước cũng là một vấn đề. Thêm vào
đó mưa a-xít đã đổ xuống 1/3 lãnh thổ Trung Quốc, một nửa lượng nước tại 7 con sơng lớn
hồn tồn khơng thể sử dụng, trong khi 1/4 dân số không được tiếp cận với nước sạch, 1/3 dân

cư đô thị phải hít thở khơng khí bị ơ nhiễm.
Tác dụng phụ tiêu cực của q trình phát triển cơng nghiệp nhanh của Trung Quốc là sự
tình trạng gia tăng ơ nhiễm. Một báo cáo năm 1998 của Tổ chức Y tế Thế giới về chất lượng
khơng khí ở 272 thành phố trên thế giới đã kết luận rằng 7/10 thành phố ô nhiễm nhất nằm ở
Trung Quốc. Theo đánh giá riêng của Trung Quốc, 2/3 trong số 338 thành phố có số liệu về
chất lượng khơng khí được coi là bị ơ nhiễm, 2/3 trong số đó ơ nhiễm vừa phải hay nghiêm
trọng. Các bệnh đường hô hấp và bệnh tim liên quan đến ơ nhiễm khơng khí là những nguyên
nhân hàng đầu gây ra tử vong ở Trung Quốc.Chỉ tính riêng ở Bắc Kinh, 70-80% các ca ung
thư phổi đều có liên quan đến mơi trường.
Từ cuối thập niên 1970, những doanh nghiệp hương thơn (TVE), được chính phủ khuyến
khích thành lập để thu hút sức lao động nơng thôn và hạn chế hiện tượng di dân đến đô thị, đã
khiến cho công nghiệp phân tán rộng khắp đất nước TQ. phần lớn chỉ quan tâm đến thị trường
và rất ít quan tâm đến vấn đề bảo vệ mơi trường. Hiện tại, các TVE này đã vượt các nhà máy
quốc doanh để trở thành những nguồn gây ô nhiễm công nghiệp hàng đầu của TQ. Hầu hết

21


_Nhóm kinh tế phát triển III_
phế thải của các TVE đều được đổ bỏ một cách bừa bãi, phần lớn là đổ xuống sông. Không ai
quan tâm và chi tiền cho việc bảo vệ môi trường.
Do thu nhập tăng, trong thời gian 1995 - 2000, nhu cầu xe ôtô của người dân đã tăng 30 %/
năm. Hiện nay lượng xe ôtô của Trung Quốc (trung bình 1 xe/ 70 người dân đơ thị) cịn rất
khiêm tốn so với Mỹ (trung bình 1 xe/ 2 người dân đơ thị). Nhưng trong những năm tới, tác
động của xe ôtô đối với môi trường TQ sẽ tăng mạnh. Hiện tại, khí thải từ ôtô đã là nguồn
phát tán NO2 và CO lớn nhất đối với khơng khí đơ thị ở đây.
ác số liệu của Ngân hàng Thế giới cho thấy nạn ô nhiễm môi trường đang khiến cho Trung
quốc thiệt hại hơn 54 tỉ đô la mỗi năm và nhiều chuyên gia môi trường cho rằng Trung quốc
đang trên đà trở thành một nước xuất khẩu ô nhiễm hàng đầu thế giới, như họ đã trở thành
nước xuất khẩu hàng đầu của nhiều loại sản phẩm khác nhau, từ đồ chơi, giày dép, hàng may

mặc cho đến các mặt hàng điện tử.

4.3 Nguồn tài nguyên cạn kiệt :
Với dân số quá lớn 1.3 tỉ người, Trung Quốc đã phải khai thác quá mức nguồn tài nguyên
phục vụ cho các nhu cầu nhà ở, sản xuất lương thực, thực phẩm, sản xuất công nghiệp…Nhu
cầu về nguồn nước tăng mạnh nên các hồ chứa nước ở Trung Quốc bị rút cạn nhanh chóng,
lượng mưa lại khơng ổn định. Trung Quốc đang phải gánh chịu tình trạng khô hạn và lũ lụt
chưa từng thấy ở nhiều vùng khác nhau trong cả nước. Năm 1998, một trận lụt thế kỷ đã xảy
ra trên sông Dương Tử đã cướp đi hơn 3.650 sinh mạng, phá huỷ 5,7 triệu ngôi nhà và làm hư
hại hơn 7 triệu căn nhà khác, 14 triệu người buộc phải di chuyển chỗ ở. Thiệt hại kinh tế lên
đến 31 tỷ USD. Rừng đầu nguồn bị chặt phá làm dòng nước dâng lên quá nhanh, tàn phá một
vùng rộng lớn hai bên bờ sông.
Trong năm 2005 Trung quốc tiêu thụ 26% thép, 37% bông vải và 47% xi măng của cả thế
giới. Vấn đề này cịn trở nên tệ hại hơn vì việc xử dụng năng lượng thiếu hiệu quả ở Trung
quốc. Theo các chuyên gia kinh tế, số năng lượng mà Trung quốc dùng để sản xuất một đơn
vị GDP cao gấp 4,7 lần con số của Hoa kỳ. Trong vài năm qua, Trung quốc đã trở thành quốc
gia nhập khẩu lâm sản lớn hàng thứ nhì thế giới. Từ những năm cuối của thập niên 1990,
chính phủ ở Bắc kinh đã ra lệnh cấm khai thác gỗ sau khi họ nhận ra rằng nạn phá rừng đã
gây ra những vụ lụt lội dữ dội, ảnh hưởng tới hơn 200 triệu người và làm tốn kém nhiều tỉ đô
la mỗi năm. Chỉ tiêu của tỷ lệ thu hồi khai thác, tỷ lệ làm nghèo và tỷ lệ thu hồi quặng tuyển
của nhiều khu mỏ miền Tây rất thấp, mức độ lãng phí nguồn tài nguyên rất nghiêm trọng. Có

22


_Nhóm kinh tế phát triển III_
rất nhiều xí nghiệp khai thác khơng có đăng ký, do khơng được phê chuẩn và thiết kế đúng
qui cách, chỉ khai thác quặng miếng ở tầng sâu bề mặt, không khai thác mạch quặng mỏng và
bỏ đi một khối lương lớn bột quặng ; cá biệt có một số xí nghiệp khai thác nơi không được
phép của nhà nước, sử dụng khai thác bằng phương pháp nổ mìn, dẫn tới ngun liệu có chất

lượng tốt và môi trường sinh thái bị phá hoại nặng nề, làm tiêu hao nghiêm trọng nguồn tài
nguyên.

4.4 Tác động tới hệ động thực vật :
Với một hệ sinh thái đa dạng và phong phú, Trung Quốc hiện đang sở hữu một hệ động
thực vật hoang dã độc đáo trên thế giới. Nhưng 300 loài động vật và 410 loại thực vật ở nước
này đang có nguy cơ bị biến mất do sự tàn phá môi trường thiên nhiên. Rõ ràng môi trường ô
nhiễm quá lớn đã ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống tự nhiên của các loài động thực vật.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang ngày càng chú ý đến các vấn đề môi trường
nghiêm trọng của quốc gia.Trong những năm gần đây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã
củng cố các quy định pháp luật về môi trường và đạt một số tiến bộ bước đầu trong việc ngăn
chặn sự xuống cấp của môi trường. Năm 1999, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đầu tư hơn
1% GDP cho công tác bảo vệ môi trường, một tỷ lệ có khả năng tăng trong những năm tới.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 10, Trung Quốc dự kiến giảm mức xả chất thải 10%. Đặc
biệt Bắc Kinh đã đầu tư nhiều cho cơng tác kiểm sốt ơ nhiễm như một phần của chiến
dịch thành công để giành được quyền đăng cai Thế vận hội năm 2008.

23


_Nhóm kinh tế phát triển III_

Phần III: Đánh giá vấn đề dân số trong tình trạng nền kinh tế hiện nay
của việt nam
I. Liên hệ với Việt Nam
Với hơn 84 triệu người, Việt Nam là một trong những nước có dân số đông nhất trên
thế giới. Cũng giống như Trung Quốc, đân số đông vừa là lợi thế nhưng cũng vừa là những
điều bất lợi đối với nền kinh tế Việt Nam.
Dân số đông tạo nên những tiền đề thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
Trước hết đó là nguồn lao động dồi dào,Việt Nam cũng nổi tiếng là nước có nguồn lao động

đơng, rẻ. Lực lương lao động bổ xung cho nền kinh tế lớn.
Không những vậy, dân số đơng cịn tạo nên một thị trường tiêu thụ rộng lớn, thúc đẩy
sự phát triển của nền sản xuất trong nước,thu hút vốn đầu tư từ nước ngồi.
Tuy nhiên, dân số đơng cũng gây nên khơng ít khó khăn cho nền kinh tế vốn chậm
phát triển của Việt Nam. Tình trạng thất nghiệp vẫn là căn bệnh khó chữa đối với những nước
chậm phát triển, nhất là đối với một nước đông dân như Việt Nam. Mặc dù dân số đông
nhưng chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam lại rất thấp. Hầu hết lao động xuất phát từ
nơng nghiệp, ít được đào tạo qua trường lớp, chủ yếu là lao động chân tay dẫn đến năng suất
lao động không cao. Các nhà tuyển dụng nước ngoài cũng chưa mặn mà lắm với lao động
Việt Nam do hầu hết sau khi tuyển dụng, họ lại phải đào tạo lại lao động cho phù hợp với
cơng việc.
Tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng. Nguồn tài ngun thì có hạn,
đặc biệt là tài ngun đất. Dân số tăng nhanh khiến cho mật độ dân cư ngày càng lớn, nhất là
ở các khu đô thị lớn. Không đủ đất cho việc xử lý rác thải, công nghệ xử lý lạc hậu, trong khi
rác thải sinh hoạt, rác thải từ các khu sản xuất, khu công nghiệp ngày càng nhiều. Tình trạng
ơ nhiễm mơi trường cũng gây khơng ít khó khăn cho nền kinh tế, ví dụ như ô nhiễm môi
trường biển khiến cho nguồn thuỷ sản bị thiệt hại nặng nề.

24


_Nhóm kinh tế phát triển III_

II. Bài học cho Việt Nam rút ra từ thực trạng dân số ở Trung Quốc
Tài liệu của LHQ nói về các bài học tổng quát về thành công trong công tác DS-KHHGĐ
nêu lên 3 bài học đầu tiên là: 1) Tăng cường sự cam kết chính trị của Chính phủ; 2) Phải có
chiến lược DS-KHHGĐ và chương trình quốc gia; 3) Tăng cường đầu tư nguồn lực.
Ở Việt Nam công tác dân số từ 1961 được tổ chức dưới hình thức Ban chỉ đạo hướng dẫn
sinh đẻ kế hoạch do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm trưởng ban với cơ quan chuyên trách đặt
trong Bộ Y tế. Từ 1970 thành lập Uỷ ban bảo vệ bà mẹ trẻ em do bà Đinh Thị Cẩn làm chủ

nhiệm. Năm 1974 do yêu cầu đơn giản tổ chức, Uỷ ban này giải thể và bộ phận thường trực
đưa lại về Bộ Y Tế, lúc đầu do Phó chủ tịch HĐBT Võ Nguyên Giáp, sau này là PCT thường
trực HĐBT Võ Văn Kiệt làm chủ tịch. Năm 1991 tách ra thành cơ quan độc lập và vẫn do
PCT Võ Văn Kiệt làm chủ tịch.
Về tăng cường nguồn lực cho công tác DS-KHHGĐ của Trung Quốc. Quyết định liên tịch
của Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản và Quốc vụ viện Trung Quốc về tăng cường tồn diện
cơng tác DS-KHHGĐ ban hành ngày 17/12/2006 (quyết định này dựa trên kết quả nghiên cứu
trong hơn 2 năm, từ 2/2004 đến 4/2006 của hơn 300 chuyên gia và học giả và gồm 9 chương)
đã nêu: "...đưa nguồn lực cho công tác dân số tính theo đầu người là 30 nhân dân tệ (gần 4
USD), trong đó 22 tệ do ngân sách TW, 8 tệ từ ngân sách địa phương (gấp hai lần mức kiến
nghị của hội nghị dân số quốc tế tại Cai Rơ 1994). Để so sánh, kinh phí chi cho công tác DSKHHGĐ Việt Nam, bao gồm cả viện trợ là khoảng 0,4-0,5 USD/ người; Vào những năm
1993-1997, khi chương trình dân số Việt Nam đã đạt được những kết quả tiền đề rất tốt thì
mức đầu tư cũng chỉ mới khoảng 0,2-0,3 USD/người. Qua bốn lần cải cách hành chính, hiện
nay Trung Quốc chỉ có 23 bộ và cơ quan ngang bộ, trong đó có Uỷ ban nhà nước Trung Quốc
về DS-KHHGĐ, giải quyết toàn diện vấn đề dân số mà không chỉ giới hạn về KHHGĐ. Sở dĩ
các nhà lãnh đạo Đảng và nhà nước Trung Quốc nhận thức được và quyết tâm thực hiện
chương trình DS-KHHGĐ vì trong thực tế,Trung Quốc đã có hai bài học phải trả giá bằng
nhiều chục năm tụt hậu. Năm 1961, tổng tỷ suất sinh của Trung Quốc đã giảm xuống mức
3,287 con, nhưng do biến động xã hội đã tăng lên và chỉ khôi phục trở lại vào năm 1976 với
mức 3,235 con (mất 15 năm). Lần thứ hai là năm 1980 đã đạt tổng tỷ suất sinh là 2,31 con,
nhưng lại tăng trở lại và chỉ khôi phục lại đúng mức 2,31 con vào năm 1990 (mất 10 năm).

25


×