Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác quản lý làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ truyền thống sơn đồng hoài đức hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.32 MB, 73 trang )

Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp

1

TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ VĂN HÓA – NGHỆ THUẬT

GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC QUẢN LÝ LÀNG NGHỀ SƠN ĐIÊU KHẮC MỸ NGHỆ
TRUYỀN THỐNG SƠN ĐỒNG, HỒI ĐỨC, HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ VĂN HÓA – NGHỆ THUẬT

Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Thị Hoa

Lớp

: QLVH 7C



Hà Nội – 2010
Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

1




Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp

2

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài: ................................................................................. 4
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi của đề tài. ........................................ 6
3. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................. 7
4. Phương pháp nghiên cứu. ..................................................................... 7
5. Đóng góp của đề tài .............................................................................. 8
6. Cấu trúc của đề tài ................................................................................ 8
Chƣơng I: Khái quát chung về Làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ .........9
1.1 Giới thiệu chung về làng nghề truyền thống Việt Nam ........................ 9
1.1.1 Khái niệm và tiêu chí để xác định làng nghề truyền thống. ........... 9
1.1.2 Đặc điểm của làng nghề truyền thống trong thời đại hiện nay. ....13
1.1.2.1 Làng nghề truyền thống có quan hệ gắn bó với nơng nghiệp
nhưng ngày càng ít phụ thuộc vào nơng nghiệp. ...............................13
1.1.2.2 Lao động trong làng nghề là sự kết hợp giữa kỹ năng, kỹ thuật
cao với sự khéo léo, tinh xảo của người nghệ nhân. ..........................14
1.1.2.3 Sản phẩm được sản xuất ra có sự kết hợp giữa sản xuất hàng
loạt với sản xuất đơn chiếc mang đậm bản sắc văn hố dân tộc.........15
1.2 Vai trị của làng nghề truyền thống đối với sự phát triển kinh tế xã hội
trong giai đoạn hiện nay. ..........................................................................16
1.2.1 Đẩy mạnh phân công lao động, tạo việc làm, thu hút lao động dư
thừa từ nơng thơn. ................................................................................16

1.2.2 Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, tăng thu nhập,
cải thiện đời sống văn hoá - tinh thần, thu hẹp dần khoảng cách giữa
thành thị và nông thôn. .........................................................................17
1.2.3 Thúc đẩy phát triển kết cấu cơ sở hạ tầng, làm thay đổi bộ mặt
nơng thơn mới ......................................................................................18
1.2.4 Góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và phát triển du lịch ...19
1.3 Làng nghề sơn điêu khắc gỗ mỹ nghệ truyền thống Sơn Đồng ...........20
1.3.1 Cơ sở hình thành làng nghề. ........................................................20
1.3.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế ....................................................20
1.3.1.2 Điều kiện văn hoá, xã hội ......................................................23
1.3.2 Truyền thống của làng nghề. ........................................................27
Chƣơng II: Thực trạng phát triển của làng nghề và ...............................31
2.1 Thực trạng phát triển của làng nghề ...................................................31
2.1.1 Những thành tựu đạt được ...........................................................31
2.1.2 Những hạn chế: ...........................................................................37
2.2. Nguyên nhân của thực trạng trên ......................................................40
2.2.1 Nguyên nhân chủ quan: Công tác quản lý ....................................40
Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

2


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp

3

2.2.1.1 Những điều đã làm được .......................................................40
2.2.1.2 Những hạn chế trong công tác quản lý...................................42

2.2.2 Nguyên nhân khách quan.............................................................47
2.3 Những tiềm năng, cơ hội và thách thức của làng nghề mỹ nghệ truyền
thống Sơn Đồng trước thời hội nhập ........................................................50
2.3.1 Những tiềm năng và cơ hội mới...................................................50
2.3.1 Những thách thức ........................................................................52
Chƣơng III: Những giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả .....54
3.1 Tăng cường sự quan tâm của các cấp chính quyền đại phương đối với
sự phát triển làng nghề. ............................................................................54
3.1.1 Chế độ đãi ngộ các nghệ nhân. ....................................................54
3.1.2 Chính sách khuyến khích đầu tư sản xuất. ...................................55
3.2 Chiến lược phát triển sản phẩm. .........................................................58
3.3 Chiến lược phát triển thị trường, xây dựng thương hiệu cho làng nghề
Sơn Đồng.................................................................................................60
3.4 Đào tạo nguồn nhân lực trẻ, vừa có kỹ năng, kỹ thuật cao đồng thời
tiếp thu tinh hoa của các nghệ nhân. ........................................................63
3.5 Quy hoạch sản xuất đồng thời đa dạng hố các hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh trong làng nghề. .............................................................64
3.6 Phát triển du lịch làng nghề truyền thống. ..........................................66
3.7 Phát triển làng nghề đi đôi với giải quyết an sinh xã hội và bảo vệ môi
trường ......................................................................................................69
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................72

Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

3


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp


4

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ngày nay, trong nhịp độ hoạt động khẩn trương của nền kinh tế thị trường,
trong lúc thông tin và truyền thông đại chúng phát triển ngày càng rộng rãi, tất cả
mọi thứ từ cách ăn ở, sinh hoạt đến làm việc đều dần thay đổi theo tác phong công
nghiệp. Hàng công nghiệp xâm lấn hầu khắp khơng gian, thời gian boie những tiện
ích phong phú mà nó đem lại. Tuy nhiên, đến với làng xã Việt Nam, khó có ai có
thể cưỡng lại được suc hút của các mặt hàng thủ công truyền thống, được làm từ
những đôi bàn tay tinh xảo của những người nơng dân bình dị. Những sản phẩm đó
chứa đựng nét văn hố dân tộc, đơn giản, bình dị nhưng cũng vô cùng cách điệu và
tinh tế. Khi cầm trên tay chiếc vịng cẩm thạch hay sợi dây chuyền có gắn đá quý,
người ta hiểu đó là sản phẩm của làng nghề. Nhìn ngắm những bức tranh dân gian
Đơng Hồ mộc mạc, những sập gụ, tủ, chè, những hoành phi câu đối được chạm
khảm tinh xảo, ta cũng hiểu đó là sản phẩm cuả làng nghề. Bên triền đê hay ven bờ
sông Hồng, sông Cầu, sông Đáy, thỉnh thoảng ta bắt gặp những bãi phơi cơ man
nào là vải sợi, lụa tơ tằm nhuộm màu đủ loại, là chiếu dệt trơn, dệt hoa đủ màu sắc,
kích cỡ, là hàng mây tre đan đủ các kiểu dáng hay những bến thuyền xếp la liệt đồ
gốm... Chúng ta cũng tự hào biết rằng đó là những sản phẩm của làng nghề.
Làng nghề truyền thống là những làng làm nghề thủ công truyền thống từ
lâu đời, vì thế ngay từ đầu ở trong đó đã có hai yếu tố đó là truyền thống văn hoá
và truyền thống làng nghề. Hai yếu tố này hoà quyện vào nhau, bổ sung và chi phối
lẫn nhau tạo nên văn hố làng nghề. Do vậy, khơng là bốc đồng chút nào khi nói
làng nghề truyền thống là sự thể hiện đặc sắc và rõ nét nhất của nền văn hoá dân
tộc Việt.
Những làng nghề truyền thống cùng với những sản phẩm của nó trải qua
chiều dài lịch sử, chứng kiến sự thăng trầm của dân tộc, tham gia vào sự phát triển
kinh tế, xã hội và hơn hết nó làm cho làng xã Việt Nam mang những nét riêng, đặc

Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

4


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp

5

biệt để có thể tồn tại. Đó khơng chỉ là cơng cụ để kiếm sống mà rõ ràng đó là
những di sản quý giá mà các thế hệ cha anh đi trước đã để lại. Trong thời đại hội
nhập toàn cầu hoá, khi mà sự giao lưu văn hoá giữa các quốc gia, châu lục diễn ra
mạnh mẽ thì sự bảo tồn, bảo lưu các giá trị văn hố là vơ cùng cần thiết trong đó có
bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống. Đó là điều kiện để một quốc gia nhỏ
bé như nước ta hồ nhập mà khơng hồ tan.
Các sản phẩm thủ cơng truyền thống khơng chỉ mang trong mình yếu tố văn
hố mà bên cạnh đó là yếu tố kỹ thuật, hàng hóa. Nó tham gia và phục vụ cho sự
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước mà quan trọng nhất là từng bước xây dựng
CNH – HĐH nông thôn, xây dựng nông thôn mới theo chủ trương của Đảng và
Nhà nước. Với vai trò đặc biệt như thế, nhưng các làng nghề truyền thống hiện nay
đang có nguy cơ bị mai một, thậm chí mất đi. Làm thế nào để vừa phát huy được
nét văn hoá dân tộc, bảo tồn nghề truyền thống, vừa tạo việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động, cải thiện đời sống cư dân nơng thơn,... đó là bài toán đang cần
các nhà quản lý làng nghề giải đáp.
Trên khắp đất nước Việt Nam từ vùng núi phía Bắc, đến Đồng bằng Bắc Bộ,
BắcTrung Bộ, Nam Trung Bộ, Đồng bằng Nam bộ, đâu đâu cũng có những làng
nghề. Nơi có nhiều làng nghề nhất phải kể đến là các tỉnh thuộc Đồng bằng châu
thổ sông Hồng như Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nội... và đặc biệt Hà Tây (cũ), nay

đã sát nhập về thủ đô Hà Nội. Theo con số thống kê được, đến thời điểm cuối năm
2009, Hà Nội có 1270 làng nghề, trong đó có 244 làng nghề truyền thống, chiếm
62% trong tổng số 2017 làng nghề và gần 70% làng nghề truyền thống của cả
nước. Đây là một lợi thế cũng là một thách thức không nhỏ đối với các nhà quản lý
làng nghề ở Hà Tây để có thể bảo tồn, phát huy tốt các làng nghề trong công cuộc
xây dựng thủ đô ngày càng xứng đáng là đầu tầu của cả nước.
Trong nhiều năm gần đây, Nhà nước cũng như các bộ, ban ngành liên quan
đều có sự quan tâm đặc biệt đến sự phát triển ở các làng nghề, đặc biệt là làng nghề
Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

5


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp

6

truyền thống. Hà Nội là thành phố đi đầu trong các dự án bảo tồn và phát triển làng
nghề. Tuy nhiên, cơng tác quản lý làng nghề nói chung và làng nghề truyền thống
nói chung cịn rất nhiều điều để bàn. Nhất là công tác quản lý, quan tâm tới từng
làng nghề nói chung cịn chưa đạt được hiểu quả thực sự, khiến cho làng nghề chưa
phát huy được hết lợi thế trong khi đó đang mắc phải một số vấn đề như nguy cơ
mai một và mất nghề, ô nhiễm môi trường làng nghề, sức cạnh tranh ngày càng
giảm... Một trong số những làng nghề đó là làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ
truyền thống Sơn Đồng, Hoài Đức, Hà Nội.
Sản phẩm đặc trưng của làng nghề Sơn Đồng là những đồ thờ, tượng Phật,
hoành phi, câu đối... được sơn son, thếp vàng bạc theo kỹ thuật sơn thếp truyền
thống. Tương truyền những pho tượng La Hán chùa Tây Phương cũng là do các

nghệ nhân Sơn Đồng chế tác ra. Sau một thời gian bị gián đoạn, hiện nay nghề mỹ
nghệ, sơn thếp đồ thờ ở Sơn Đồng đã được khôi phục và từng bước phát triển, tuy
nhiên làng nghề đang gặp nhiều khó khăn do sức ép của thì trường cũng như cơng
tác quản lý làng nghề cịn nhiều bất cập.
Là một người con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Hồi Đức, hiểu vai trị to
lớn mà làng nghề đem lại cho người dân nơi đây, hiểu được những khó khăn, thách
thức mà làng nghề đang gặp phải, người viết muốn góp một phần nhỏ bé của mình
để góp phần phát triển nghề truyền thống, xây dựng q hương ngày càng giàu
đẹp. Vì lý do đó, người viết đã chọn đề tài “Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác quản lý làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ truyền thống Sơn
Đồng, Hoài Đức, Hà Nội” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
2. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi của đề tài.
Ngay khi nhìn vào tên đề tài chúng ta đã có thể nhận thấy đối tượng nghiên
cứu và phạm vi mà người viết muốn hướng tới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ truyền
thống Sơn Đồng, Hoài Đức, Hà Nội, bao gồm việc nghiên cứu về cơ sở hình thành
Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

6


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp

7

làng nghề; hiện trạng phát triển của làng nghề trong thời gian qua, tìm ra ngun
nhân của những thực trạng đó; những cơ hội, thách thức mà làng nghề đang phải
đối mặt và quan trọng nhất là nghiên cứu, tìm hiểu những bất cập và hạn chế trong

công tác quản lý làng nghề, từ đó đưa ra những đề xuất, biện pháp nhằm khắc phục
những hạn chế đó, phát huy những tiềm năng sẵn có.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài được viết nhằm hướng tới nhiều mục tiêu, trong đó bao gồm các mục
tiêu cơ bản sau:
- Qua bài viết người đọc có thể thấy rõ được cơ sở để hình thành lên làng
nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ truyền thống Sơn Đồng, Hoài Đức, Hà Nội và truyền
thống và những đặc trưng của làng nghề.
- Thấy được hiện trạng phát triển của làng nghề, nguyên nhân của những
thực trạng đó và đặc biệt là phân tích được những bất cập, hạn chế trong công tác
quản lý ở làng nghề hiện nay, từ đó có những đề xuất, biện pháp để tiếp tục phát
triển trong thời gian tới.
- Qua bài viết, người đọc cũng nhận thấy được những cơ hội và khó khăn,
thách thức mà làng nghề Sơn Đồng đang phải đối mặt.
Bên cạnh những mục tiêu trên, bài viết còn hướng tới giúp người đọc có cái
nhìn tồng qt, hiểu rõ đặc điểm, vai trò to lớn của làng nghề nói chung và làng
nghề truyền thống nói chung đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để hồn thành bài viết này, tơi đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu
khác nhau, các phương pháp này có sự bổ sung, hỗ trợ cho nhau giúp tơi thuận lợi
hơn trong việc nghiên cứu. Các phương pháp đó là: nghiên cứu các tư liệu, tài liệu
có sẵn trên sách báo, trên mạng, các đề tài về làng nghề từng nghiên cứu, các văn
bản, chính sách của Nhà nước về làng nghề; phương pháp thống kê số liệu thực tế

Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

7


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội


Khoá luận tốt nghiệp

8

bao gồm cả xin số liệu thống kê và thống kê trực tiếp; phương pháp khảo sát, diễn
tả thực tế kết hợp phỏng vấn, điều tra.
5. Đóng góp của đề tài
Việc nghiên cứu của đề tài giúp các nhà quản lý có được cái nhìn bao qt,
vĩ mơ về làng nghề Sơn Đồng, nhận thấy những mặt mạnh, những điểm còn tồn tại
trong công tác quản lý, nhận thức những tiềm năng, thách thức đang phải đối mặt
và đưa ra những giải pháp, đề xuất nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
quản lý làng nghề Sơn Đồng trong thời gian tới.
6. Cấu trúc của đề tài
Cấu trúc của đề tài bao gồm 3 chương:
Chƣơng I: Khái quát chung về làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ truyền
thống Sơn Đồng, Hoài Đức, Hà Nội.
Chƣơng II: Thực trạng phát triển của làng nghề và những hạn chế trong
công tác quản lý.
Chƣơng III: Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của
công tác quản lý làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ Sơn Đồng trong thời gian tới.

Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

8


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp


9

Chƣơng I: Khái quát chung về Làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ
truyền thống Sơn Đồng, Hoài Đức, Hà Nội
1.1 Giới thiệu chung về làng nghề truyền thống Việt Nam
1.1.1 Khái niệm và tiêu chí để xác định làng nghề truyền thống.
Trong quá trình phát triển của lịch sử cũng như hiện nay đều cho thấy, làng
xã Việt Nam có vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất cũng như trong đời sống
của cư dân ở nông thôn. Qua thử thách của thời gian, qua bao biến động thăng trầm
của lịch sử, những lệ làng phép nước và phong tục, tập qn ở nơng thơn vẫn được
duy trì, phát triển đến ngày nay.
Thật vậy, làng xã Việt Nam được phát triển rất lâu đời, nó thường được gắn
chặt với nơng nghiệp và kinh tế nông thôn. Mỗi công xã bao gồm một số gia đình
sống quây quần trong một khu vực địa giới nhất định. Đồng thời, làng là quê
hương, nơi gắn bó các thành viên với nhau bằng khế ước sinh hoạt cộng đồng, tâm
thức tín ngưỡng, lễ hội, tập tục, luật lệ riêng nhằm liên kết cộng đồng với nhau
trong quá trình sản xuất và đời sống.
Từ buổi ban đầu, ngay trong một làng, phần lớn người dân đều làm nơng
nghiệp, càng về sau có những bộ phân cư dân sống bằng nghề khác, họ liên kết
chặt chẽ với nhau, khiến cho nơng thơn Việt Nam có thêm một số tổ chức theo
nghề và tạo thành Phường, Hội như: Phường dệt vải, Phường nhuộm, Phường đúc
đồng, Phường gốm... Từ đó các nghề được lan truyền và phát triển thành làng
nghề, phố nghề, xã nghề. Bên cạnh những người chuyên làm nghề thì đa phần
người dân vẫn vừa sản xuất nông nghiệp vừa làm nghề (nghề phụ). Càng về sau, xu
thế người lao động dần tách khỏi đồng ruộng, chuyển sang nghề thủ công và sống
bằng nghề ngày một tăng lên. Các ngành nghề vì thế ngày càng phát triển ở nông
thôn và số hộ làm nghề cũng tăng lên nhanh chóng. Như vậy, làng xã Việt Nam là
nơi sản sinh ra nghề thủ công truyền thống và các sản phẩm chính là biểu trưng cho


Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

9


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp 10

văn hoá làng xã, cũng là biểu trưng mang nặng dấu ấn tinh hoa của nền văn hoá,
văn minh dân tộc Việt.
Qúa trình phát triển của làng nghề là quá trình phát triển của nghề tiểu thủ
cơng nghiệp ở nơng thơn. Lúc đầu sự phát triển đó từ một vài gia đình rồi đến cả
họ và lan ra cả làng. Thông qua lệ làng mà làng nghề định ra những quy ước như:
không trao truyền nghề cho người làng khác, không truyền nghề cho con gái, chỉ
truyền nghề cho người trong dịng họ, giữ bí mật về bí quyết nghề... Trải qua thời
gian dài của lịch sử, làng nghề Việt Nam cũng có lúc thịnh, lúc suy, có những nghề
được lưu giữ và ngày càng phát triển, có những nghề bị mai một thậm chí bị mất
hẳn đi, có những nghề mới ra đời. Song nhìn chung, các làng nghề Việt Nam cho
đến nay vẫn giữ được những nét thủ cơng tinh xảo, có những nghề đạt tới trình độ
điêu luyện và phân cơng lao động, chun mơn hố ngày càng cao.
Đã có nhiều khái niệm, quan điểm về làng nghề, làng nghề truyền thống
được đưa ra, song trong khuôn khổ bài luận văn này, tôi chỉ đưa ra một số quan
điểm mà được giới khoa và các Giáo sư, tiến sĩ đầu ngành cho là đầy đủ và chính
xác nhất, phù hợp với các tiêu chí đưa ra:
Theo tác giả Trần Minh Yến trong cuốn: “Làng nghề truyền thống trong quá
trình CNH – HĐH” cho rằng: Nghề truyền thống trước hết là nghề tiểu thủ cơng
nghiệp được hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, được sản xuất
tập trung tại một vùng hay một làng nào đó. Từ đó hình thành các làng nghề, phố
nghề, xã nghề. Đặc trưng cơ bản nhất của mỗi nghề truyền thống là phải có kỹ

thuật và cơng nghệ truyền thống, đồng thời có cả nghệ nhân và đội ngũ thợ lành
nghề. Sản phẩm làm ra vừa có tính hàng hố, đồng thời vừa có tính nghệ thuật và
mang đậm bản sắc dân tôc. Nghề truyền thống thường được truyền trong phạm vi
từng làng. Trong những làng có nghề truyền thống thì ở đó đa số người dân biết
làm nghề, ngồi ra họ có thể phát triển những nghề khác nhưng chiếm tỷ trọng nhỏ
hơn nghề truyền thống.
Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

10


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp 11

Tuy nhiên, ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và
công nghệ khiến cho việc sản xuất sản phẩm cũng được trang bị quy trình công
nghệ mới ở một số khâu. Do vậy khái niệm nghề truyền thống cũng được nghiên
cứu và mở rộng hơn. Theo Tiến Sĩ Đỗ Quang Dũng trong Luận án “Phát triển làng
nghề trong q trình CNH – HĐH nơng nghiệp, nông thôn” đã cho rằng: “làng
nghề là làng ở nông thơn có một hay một số nghề thủ cơng hầu như được tách hẳn
ra khỏi nông nghiệp, kinh doanh độc lập và đạt tới một tỷ lệ nhất định về lao động
làm nghề cũng như về mức thu nhập từ nghề so với tổng số lao động và thu nhập
của làng”.
Còn theo quan điểm của Tiến sĩ kinh tế Mai Thế Hởn thì cho rằng: “Làng
nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một thơn, làng có một hay một số nghề
được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các
nghề đó chiếm tỉ trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng”.
Cũng theo Tiến sĩ Mai Thế Hởn, làng nghề truyền thống là những thơn làng
có một hay nhiều nghề thủ công đựơc tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh đó

được truyền từ đời này sang đời khác và thường là nhiều thế hệ. Cùng với thử
thách của thời gian, các làng nghề thủ công ngày nay đã trở thành nghề nổi trội,
một nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán
chuyên nghiệp đã chuyên tâm sản xuất với có quy trình cơng nghệ nhất định và
sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ và trở thành hàng
hoá trên thị trường.
Từ những khái niệm và quan điểm ở trên cho thấy, không phải bất cứ làng
nào có nghề thủ cơng cũng được gọi là làng nghề và làng nghề truyền thống mà
phải dựa trên các tiêu chí nhất định. Đó là tiêu chí về quy mơ số hộ, số gia đình
làm nghề trong làng và sản lượng hay tồng thu nhập từ nghề phải đạt tới một độ
nhất định thì mới được gọi là làng nghề.

Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

11


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp 12

Từ năm 2008, làng nghề được chia ra là làng nghề mới và làng nghề truyền
thống, và mỗi loại làng nghề lại có mức tiêu chí riêng. Đối với làng nghề mới, ví
dụ như làng dệt kim La Phù, làng chế biến lâm sản Đồng Nhân..., làng phải có từ
70% số hộ có nghề khác nơng nghiệp và dịch vụ, trong đó có nghề tiêu biểu chiếm
hơn 50% số nghề, và tổng giá trị sản phẩm của tất cả các nghề phải đạt trên 70%,
tổng giá trị sản lượng của nghề chính đạt từ 50% trở lên. Cịn đối với làng nghề
truyền thống, tiêu chí trên có thấp hơn. Trong làng có tối thiểu 50% số hộ làm nghề
khác nơng nghiệp, trong đó số hộ làm nghề truyền thống tối thiểu là 30%; gía trị
tổng sản lượng của nghề đạt từ 30% trở lên. Ngoài ra, để xác đinh một làng nghề là

làng nghề truyền thống thì yếu tố khơng thể thiếu là làng đó phải có Cụ tổ nghề,
nghề đã tồn tại trong lịch sử từ lâu đời, khoảng từ 100 năm trở lên.
Sở dĩ có sự phân biệt và ưu tiên về tiêu chí cơng nhận làng nghề truyền
thống như trên vì nghề truyền thống của ta mang những nét đặc sắc độc đáo thường
đạt đến độ tinh xảo cao, người thợ đã trở thành nghệ nhân, trong khi đó lại đang
dần bị mai một và mất đi. Việc công nhận là làng nghề truyền thống sẽ khiến cho
nghề có cơ hội được Nhà nước ưu tiên quan tâm, có cơ hội được khơi phục và phát
triển. Đây cũng là một mục tiêu quan trọng của nước ta trong quá trình CNH –
HĐH đất nước, mà trước hết là q trình CNH – HĐH nơng thơn. Ngồi ra, cả làng
nghề mới và làng nghề cũ đều phải đạt các tiêu chí về quy định như: phải được
cơng nhận là làng văn hố,có trên 70% số hộ đạt danh hiệu “Gia đình văn hố”,
tn thủ các đường lối, chính sách pháp luật của Nhà nước...
Hiện nay trong cả nước có 2017 làng nghề trong đó có khoảng hơn 15% là
làng nghề truyền thống đã được Nhà nước công nhận với lịch sử lâu đời, được xác
định theo đầy đủ các tiêu chí như trên. Hà Nội là tỉnh thành có nhiều làng nghề
nhất cả nước với 1270 làng nghề, chiếm 62% làng nghề của cả nước với 244 làng
nghề truyền thống (số liệu thống kê đến cuối 2009). Điều này cho thấy rõ mức độ
quan tâm của nhà nước đối với vấn đề khôi phục và phát triển làng nghề truyền
Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

12


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp 13

thống và tầm quan trọng to lớn của nó đối với sự phát triển của nước ta trong thời
đại mới, thời đại hội nhập tồn cầu hố khi nước ta đã ra nhập thị trường thương
mại thế giới WTO.

1.1.2 Đặc điểm của làng nghề truyền thống trong thời đại hiện nay.
Làng nghề truyền thống là những làng làm nghề tiểu thủ cơng nghiệp có
lịch sử từ lâu đời, từ 100 năm trở lên, có Cụ tổ nghề, ở đó cịn lại những nghệ nhân
với kỹ thuật tinh xảo, với đôi bàn tay khéo léo, là vật báu sống quý hiếm của cả
dân tộc ta. Các làng nghề sản xuất chủ yếu theo phương thức hộ gia đình, sản xuất
nhỏ, tận dụng khơng gian sản xuất và lao đơng gia đình, do vậy cách thức truyền
nghề và giữ nghề cũng ở trong quy mơ gia đình. Trong các làng nghề thường có
các quy định, luật tục riêng trong việc trao truyền nghề như khơng truyền nghề cho
người ngồi làng, khơng truyền nghề cho con gái... Ngoài những đặc điểm trên,
làng nghề truyền thống trong công cuộc CNH – HĐH đất nước hiện nay còn mạng
một số đặc điểm như sau:
1.1.2.1 Làng nghề truyền thống có quan hệ gắn bó với nơng nghiệp
nhƣng ngày càng ít phụ thuộc vào nơng nghiệp.
Làng nghề đều có nguồn gốc từ làng nơng nghiệp, lấy làng quê làm địa
điểm sản xuất. Do vậy, giữa nghề nông và nghề tiểu thủ cơng nghiệp có mối quan
hệ gắn bó, bổ sung cho nhau. Sự phát triển của ngành tiểu thủ công nghiệp phụ
thuộc lớn vào ngành nông nghiệp. Phần đa các loại nguyên liệu làm nghề đều do
nông nghiệp tạo ra, một phần vốn hình thành làng nghề ban đầu có nguồn vốn tích
luỹ từ nơng nghiệp. Sản phẩm của làng nghề tạo ra cũng trước hết là để phục vụ
nơng nghiệp và cư dân nơng thơn, ví dụ như nón Chng, quạt Vác, gốm Bát
Tràng... Ngồi ra, bên cạnh những hộ dân trong làng chuyên làm nghề thì phần lớn
các hộ vẫn vừa làm nơng nghiệp kiêm tiểu thủ cơng nghiệp. Vì thế lao động làm
nghề chỉ được huy động lớn nhất lúc nông nhàn.

Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

13


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội


Khoá luận tốt nghiệp 14

Khi kinh tế xã hội ngày càng phát triển, sự độc lập giữa làng nghề với nông
nghiệp ngày càng thể hiện rõ nét. Trước đây, sản phẩm thủ công truyền thống chủ
yếu sản xuất để phục vụ đời sống thường ngày như cái rổ, cái rá, quạt giấy hay
chiếc nón đội đầu. Nguồn nguyên liệu ban đầu cũng chủ yếu từ nơng nghiệp,
những nơng sản có sẵn. Nhưng càng về sau, các nguyên liệu làm nghề ngày càng
phong phú, đa dạng hơn. Ngồi những ngun liệu từ nơng nghiệp có sẵn, thì
nguyên liệu được lấy từ nhiều nơi khác, sản phẩm làm ra không chỉ phục vụ đời
sống người dân trong làng mà cịn đem ra ngồi làng, ngồi tỉnh thậm chí đem xuất
khẩu. Làng nghề được phát triển có sự tác động đầu tư trở lại nông nghiệp về kỹ
thuật, máy móc làm cho nơng nghiệp cũng ngày càng được chun mơn hố, cơ
giới hố. Lao động làng nghề vì thế cũng được chủ động hơn nhờ sự phân công lao
động và lao động từ nơi khác đến. Thực tế cho thấy, tỷ lệ lao động mang tính địa
phương giảm xuống, số lao động ngoại tình tăng lên. Nhiều lao động tay nghề cao,
mang tính chuyên gia cũng đến làm việc tại các làng nghề.
1.1.2.2 Lao động trong làng nghề là sự kết hợp giữa kỹ năng, kỹ thuật
cao với sự khéo léo, tinh xảo của ngƣời nghệ nhân.
Cùng với xu thế mở cửa, hội nhập, giao lưu hàng hoá, nguyên liệu và sản
phẩm làm ra của làng nghề sẽ được trao đổi trên thị trường, thậm chí được xuất
nhập khẩu từ nhiều quốc gia trên thế giới. Các khâu sản xuất khơng phải làm hồn
tồn bằng thủ cơng mà đã được cải tiến cơng nghệ, cơ giới hố ở một số cơng
đoạn. Do đó, tất yếu lao động làng nghề cũng phải được nâng cao trình độ, tiếp cận
khoa học kỹ thuật, các máy móc hiện đại để làm ra các sản phẩm đủ sức cạnh tranh
trên thị trường. Điều này có ý nghĩa quyết định tới sự tồn tại hay không tồn tại của
sản phẩm truyền thống trên thị trường.
Nhờ sự cơ giới hoá, năng suất lao động ngày càng tăng lên, làm giảm giá
thành sản phẩm, đồng thời cũng làm giảm sự nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm cho
người lao động. Tuy nhiên, sản phẩm thủ công độc đáo của làng nghề lại được tạo

Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

14


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp 15

ra bởi sư kết hợp giữa sự khéo léo, tinh xảo, đầu óc sáng tạo của ngưịi thợ thủ
cơng với những kinh nghiệm được tích luỹ qua nhiều thế hệ. Những kinh nghiệm
ấy trải qua thời gian, được tích luỹ thành bí quyết, là điều kiện để tạo nên sắc thái
riêng cho sản phẩm. Dù đã được trang bị hiện đại hố ở một số khâu, thì máy móc
cũng khơng thể thay thế bàn tay nghệ nhân trong sản phẩm thủ công của làng nghề.
Bởi vậy, lao động trong làng nghề hiện nay vừa là những bàn tay giỏi vừa có trình
độ kỹ thuật cao để đáp ứng u cầu trong thời kỳ mới. Ngồi ra, ngưịi lao động
nhất là trong các hộ gia đình làm nghề, cịn phải là những người có kiến thức văn
hố, khoa học kỹ thuật, đặc biệt là kiến thức về công nghệ thông tin, khả năng tìm
kiếm thị trường, nắm bắt nhu cầu thị trường để đáp ứng những nhu cầu đó một
cách có chiến lược, khoa học hơn.
1.1.2.3 Sản phẩm đƣợc sản xuất ra có sự kết hợp giữa sản xuất hàng
loạt với sản xuất đơn chiếc mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc.
Trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố, hội nhập kinh tế quốc tế,
nhất là khi Việt Nam đã gia nhập WTO, sản phẩm của làng nghề sản xuất ra phải
cạnh tranh bình đẳng với các làng khác, với sản phẩm của nứơc ngồi. Do vậy, để
có thể đứng vững trên thị trường, sản phẩm làng nghề không chỉ phải nâng cao
cạnh tranh bằng cách nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành, thay đổi mẫu
mã cho phù hợp với thị trường, tăng độ đồng đều cho sản phẩm mà cần thiết phải
tạo ra được sự độc đáo, đơn chiếc. Những sản phẩm có một khơng hai, nhưng vẫn
mang đậm bản sắc văn hố của ngưịi Việt Nam sẽ là lợi thế cạnh tranh lớn nhất

cho sản phẩm của làng nghề bước vào thị trường khu vực và trên thế giới.
Năm 2002, sản phẩm nón Chng do nghệ nhân 81 tuổi Trần Văn Canh có
đường kính 2m, được đem đi dự triển lãm ở Beclin, Đức đã làm bao con mắt của
ký giả nước ngoài phải ngưỡng mộ vì bản sắc riêng có của ngưịi Việt Nam. Nó đã
làm nên niềm tự hào của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhiều sản phẩm thủ công

Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

15


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp 16

truyền thống của Việt Nam cũng sẽ làm được như thế nếu tận dụng tốt được lợi thế
về sự độc đáo và nét đậm đà bản sắc dân tộc Việt trong sản phẩm
1.2 Vai trò của làng nghề truyền thống đối với sự phát triển kinh tế xã
hội trong giai đoạn hiện nay.
Từ sự phân tích các đặc điểm ở trên, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy vai
trị to lớn của làng nghề truyên thống đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở thời kỳ
mới. Nó khơng chỉ cịn bó buộc trong khn khổ một làng, mà với số lượng gần
2000 làng nghề như hiện nay, nó đóng một phần khơng nhỏ vào tổng thu nhập
quốc dân, giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động, làm cải thiện đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân, chuẩn bị về mặt thể chất, kỹ thuật cho đội ngũ lao
động nước ta tiến dần vào thời đại CNH – HĐH.
Vai trò của làng nghề được thể hiện ở một số mặt chủ yếu sau đây:
1.2.1 Đẩy mạnh phân công lao động, tạo việc làm, thu hút lao động dƣ
thừa từ nông thôn.
Kinh tế xã hội ngày càng phát triển, một số khâu trong nghề thủ công đã

được thay thế làm việc bằng các loại máy móc hiện đại, làm tăng năng suất lao
động, trình độ chun mơn hố ngày càng cao. Ví dụ như trong nghề thủ công mỹ
nghệ, một số công đoạn đã được chuyên môn hố, có xưởng chun gia cơng, có
xưởng chun hồn thiện, cũng đã có khâu giới thiệu sản phẩm và bán hàng riêng.
Nếu trước đây các công đoạn chế tác đều làm hồn tồn bằng tay thì nay đã có sự
hỗ trợ của các loại máy móc như máy cưa, máy bào, máy xẻ gỗ, máy phun sơn,
công nghệ dát vàng, bạc...làm nên những sản phẩm có độ sáng bóng, trau truốt
hơn, mà lại giảm đi những phần công lao động nặng nhọc, hạ giá thành sản phẩm.
Năm 2008, theo số liệu của cục Thống kê, các làng nghề ở Đồng bằng sông
Hồng đã thu hút khoảng hơn 600.000 lao động từ nơi khác đến, trong đó, làng gốm
Bát Tràng ngồi những lao động tại chỗ thu hút khoảng từ 3000 – 5000 lao động;
Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

16


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp 17

làng gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ thu hút khoảng trên 1500 lao động... Tính đến năm
2006, tồn tỉnh Hà Tây có 219 làng được Nhà nước cơng nhận là làng nghề, thu hút
hơn 82.000 hộ gia đình làm nghề, chiếm gần 80% tổng số hộ trong các làng, với
khoảng 197.000 lao động thường xuyên, chiếm khoảng 72% số lao động nông
thôn. Đây quả là một con số đáng mừng.
Hiện nay ở nước ta vấn đề lao động đang là vấn đề hết sức bức xúc, được cả
Nhà nước quan tâm. Tính đến năm 2008, trong cả nước tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức
cao là khoảng 17%, trong đó chủ yếu là lao động nơng thơn. Vì vậy, phát triển làng
nghề sẽ là một hướng đi đúng để tạo việc làm và thu hút lao động dư thừa từ nông
thôn. Khơng những thế, việc phát triển làng nghề cịn kéo theo một số ngành dịch

vụ mới, tạo nghề mới, sản phẩm mới. Ngồi những lao động chính chun làm
nghề sẽ có những lao động làm thêm, bán thời gian. Qúa trình này cũng sẽ làm đẩy
nhanh q trình phân cơng lao động, làm cho lao động nước ta dần được trang bị
kỹ thuật, kiến thức, rèn luyện tác phong công nghiệp để tiến vào thời đại CNH –
HĐH.
1.2.2 Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, tăng thu nhập,
cải thiện đời sống văn hoá - tinh thần, thu hẹp dần khoảng cách giữa thành thị
và nông thôn.
Từ những làng chỉ chuyên làm nghề nông, chuyển dần sang có một số hộ
làm nghề tiểu thủ cơng, rồi thành ra cả làng làm nghề thủ công. Ban đầu cũng chỉ
có một số hộ chun làm nghề, cịn các hộ khác vừa làm nghề kiêm nơng
nghiệp.Làng nghề phát triển, tích luỹ kinh tế tăng lên, người dân có cơ hội đầu tư
trở lại nơng nghiệp với trình độ kỹ thuật, cơ giới hố cao hơn. Từ đó những ngành
nghề dịch vụ cũng nối tiếp ra đời như dịch vụ cơ khí, máy móc, dịch vụ bán và giới
thiệu sản phẩm, các dịch vụ ăn theo phục vụ khách du lịch như cafe, quán ăn, nhà
nghỉ, khách sạn... Cơ cấu kinh tế có sự chuyển đổi rõ nét, đa dạng hố các ngành
nghề, thu hút nhiều lao động từ nơi khác đến.
Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

17


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp 18

Thực tế cho thấy thu nhập từ làm nghề cao hơn nhiều so với làm nông
nghiệp, thường từ khoảng 3,5 đến 7 lần. Đời sống nhân dân vì thế ngày càng được
cải thiện, nhiều hộ có mức thu nhập cao, tích luỹ hàng năm lên tới hàng trăm triệu
đồng trở thành hộ giàu. Ở các làng nghề hiện nay, hầu hết tỷ lệ hộ nghèo đã giảm,

thậm chí khơng cịn hộ nghèo, đã xây dựng được nhiều nhà kiên cố, tỷ lệ gia đình
có các thiết bị vơ tuyến, truyền hình, đầu đĩa đạt tới gần như 100%. So với những
làng làm thuần nơng thì làng nghề bao giờ cũng có mức thu nhập bình qn đầu
người cao hơn. Cũng nhờ có kinh tế ổn định mà người dân có cơ hội tiếp xúc với
nhiều loại hình văn hố, tinh thần giải trí khiến đời sống thêm phong phú. Điều này
có ý nghĩa lớn trong việc thu hẹp dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, tạo
sự đồng đều trong nền kinh tế xã hội giữa các vùng và trong cả nước.
1.2.3 Thúc đẩy phát triển kết cấu cơ sở hạ tầng, làm thay đổi bộ mặt
nông thôn mới
CNH – HĐH là con đường tất yếu mà các nước đi lên sản xuất lớn đều phải
trải qua. Đối với nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên xây dựng CNXH
thì CNH – HĐH là vấn đề có ý nghĩa chiến lược mà trước hết là CNH – HĐH nông
nghiệp nông thôn. Một trong những chiến lược quan trong của CNH – HĐH nông
nghiệp nông thôn là khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống. Đây là một
chủ trương lớn đúng đắn của Nhà nước đang được các cấp chính quyền và người
dân nhiệt tình hưởng ứng.
Để phát triển làng nghể, một trong những điều kiện tiên quyết là phải xây
dựng được kết cấu cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống nhà xưởng, hệ thống điện và
đường giao thông. Làng nghề ngày càng được phát triển sẽ tạo điều kiện đầu tư trở
lại cơ sở hạ tầng. Hệ thống nhà xưởng được xây dựng khang trang hơn, với đầy đủ
trang bị kỹ thuật bảo hộ, được cơ khí hố. Những con đường lưu thơng huyết mạch
được sửa sang, làm mới kiên cố hoá khiến việc giao thông, vận chuyển đi lại được
dễ dàng. Không những thế, hệ thống thơng tin liên lạc, thậm chí là Internet cũng
Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

18


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội


Khoá luận tốt nghiệp 19

ngày càng phát triển tới từng hộ gia đình. Bộ mặt nơng thơn mới vì thế cũng được
khởi sắc.
Kinh tề phát triển đem lại nguồn lợi không chỉ cho người dân mà đem lại
nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước va địa phương. Từ đó, địa phương có sự
đầu tư trở lại đối với các cơng trình cơng cộng, đầu tư về giáo dục, y tế, điện,
đường, trường, trạm, cải thiện mặt bằng chung của bộ mặt nông thôn, xây dựng
nông thôn mới theo chiến lược phát triển của cả nước.
1.2.4 Góp phần giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc và phát triển du lịch
Một số sản phẩm làng nghề nhất là làng nghề truyền thống mang tính nghệ
thuật cao, tinh xảo nhờ bàn tay tài nghệ của các nghệ nhân. Nó mang đặc tính riêng
có của làng nghề và sản phẩm đó trở thành sản phẩm văn hoá, được coi là biểu
tượng của cái đẹp mang truyền thống dân tộc. Sản phẩm truyền thống của làng
nghề là nét đặc sắc, biểu trưng cho nền văn hoá cộng đồng lãng xã Việt Nam.
Người nước ngoài biết đến Việt Nam qua nhiều mặt hàng thủ công truyền thống.
Nghề truyền thống chính là di sản q giá mà cha ơng để lại cho đời sau,
cho nên phát triển làng nghề đặc biệt là làng nghề truyền thống chính là giữ gìn
bản sắc văn hố dân tộc. Điều đó rất quan trọng vì suy cho cùng nền văn hố mỗi
dân tộc sẽ quyết định sự tồn tại của dân tộc đó. Qua làng nghề, người ta có thể hiểu
thêm về văn hoá của nghề, hiểu thêm một phương diện của con người, một sắc thái
văn hoá của con người, của quê hương, đất nước. Nhưng việc phát triển làng nghề
giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc cần gắn với hiện đại hoá để tăng khả năng cạnh
tranh của sản phẩm, để sản phẩm có thể đứng vững được trên thị trường.
Bên cạnh những vai trò như trên, du lịch làng nghề đang ngày càng phát
triển và là thế mạnh của nhiều vùng miền vốn trước đây chỉ quen với nông nghiệp.
Hà Tây (cũ) nay là Hà Nội là một vùng đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống
với hơn 200 làng nghề truyền thống là tỉnh có nhiều làng nghề nhất nước ta. Cùng
với những di tích như chùa Thầy, chùa Tây Phương, chùa Trăm Gian, rồi Thành cổ
Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT


19


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp 20

Sơn Tây, làng cổ Đường Lâm, Đền Và, chùa Hương..., du lịch làng nghề Hà Tây
với những làng nghề nổi tiếng như khảm trai Chuyên Mỹ (Phú Xuyên), mây tre
đan Phú Vinh (Đan Phượng), quạt Vác, nón Chng (Thanh Oai), làng sơn điêu
khắc gỗ mỹ nghệ Sơn Đồng, làng nhiếp ảnh truyền thống Lai Xá (Hoài Đức)...
đang là điểm đến và thu hút một lượng lớn khách du lịch không chỉ trong nước mà
bao gồm nhiều khách du lịch nước ngoài. Nếu tận dụng tốt ưu thế này sẽ là thuận
lợi lớn để tăng thu nhập quốc dân, quảng bá hình ảnh nước Việt Nam xinh đẹp mà
giàu truyền thống ra với bạn bè thế giới.
1.3 Làng nghề sơn điêu khắc gỗ mỹ nghệ truyền thống Sơn Đồng
1.3.1 Cơ sở hình thành làng nghề.
1.3.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế
Hồi Đức là một huyện thuộc phía Tây Bắc Hà Tây (cũ), với 20 xã, thị trấn,
phía Bắc giáp Đan Phượng, phía Nam giáp Thanh Oai, Hà Đơng, phía Tây giáp
Quốc Oai, phía Đơng giáp Từ Liêm. Hồi Đức là cửa ngõ, là đầu mối giao thông
quan trọng của Thủ đô, là nơi chuyển tiếp nền văn hố xứ Đồi với kinh thành
Thăng Long ngàn năm văn hiến. Nơi đây là một vùng đất giàu tài nguyên, giàu văn
hoá truyền thống. Huyện có 2 làng Khoa bảng là làng Sơn Đồng và An Hội, là 2
trong số 13 làng khoa bảng của Hà Tây.
Hồi Đức là nơi khơng nổi tiếng với nhiều điểm di tích hay điểm du lịch
như Sơn Tây với làng cổ Đường Lâm, với đền Và, chùa Mía, Thành cổ Sơn Tây,
hay Như Thạch Thất với chùa Tây Phương, Quốc Oai với chùa Thầy, Mỹ Đức với
chùa Hương... và các khu du lịch sinh thái nổi tiếng như Khoang Xanh, Suối Ngọc,

Vua Bà ở Sơn Tây, Ba Vì, nhưng lại là huyện có điểm di tích lịch sử văn hố được
Nhà nước cơng nhận là lớn nhất với các đình, đền, chùa, miếu và các từ đường
dịng họ. Theo cuốn Di tích Hà Tây do Sở Văn hố Thơng Tin Hà Tây xuất bản
năm 1999 thì Hồi Đức có tới 57 di tích được Nhà nước xếp hạng công nhận,
Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

20


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp 21

nhưng tính đến nay bao gồm cả những di tích đã xếp hạng và chưa xếp hạng, cả
huyện có gần 200 di tích lớn nhỏ, đứng đầu trong tồn tỉnh. Sở dĩ có điều này là vì
ở đây sống theo phong tục thơn làng, làng nào cũng có đình, chùa cũng có các lễ
hội riêng, phong tục riêng và có những nét văn hố riêng biệt. Ví dụ như chỉ tính
riêng xã Vân Cơn có 7 thơn thì mỗi thơn đều có những di tích lịch sử được Nhà
nước cơng nhận, mỗi thơn đều có đình, đền, chùa, có những lễ hội riêng, thờ thành
hoàng làng riêng. Điều này đã tạo nên sự đa dạng văn hoá cho vùng đất Hoài Đức
này.
Hoài Đức cũng nổi tiếng với nhiều làng nghề thủ công truyền thống như
làng điêu khắc gỗ mỹ nghệ Sơn Đồng, làng Nhiếp ảnh truyền thống Lai Xá... Nói
đến làng nhiếp ảnh Lai Xá, đó là nơi có cụ Tổ nghề nhiếp ảnh Việt Nam, cụ
Nguyễn Đình Khánh. Cụ đã từng dạy chụp ảnh cho biết bao nhiêu thế hệ nhiếp ảnh
gia Việt Nam trong đó có Bác Hồ. Hầu hết các của hàng nhiếp ảnh từ Bắc vào Nam
đều có người xuất thân từ làng Lai Xá.
Xã Sơn Đồng nằm về phía tây bắc huyện Hồi Đức. Sơn Đồng có hai thơn:
thơn Nội và thơn Ngoại. Theo cuốn “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XX” do
Viện Hán Nôm biên dịch từ sách “Các Trấn tổng danh bị lãm” viết vào đầu thời

Nguyễn, xã Sơn Đồng thuộc tổng Sơn Đồng, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai,
trấn Sơn Tây. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta đã phân chia lại địa giới hành
chính các tỉnh. Địa bàn huyện Đan Phượng trong đó có xã Sơn Đồng được tách ra
chuyển về tỉnh Hà Đông. Đến tháng 10 năm 1948, bốn xã là Sơn Đồng, Phương
Bảng, Phương Sơn và Lại Yên hợp nhất thành xã Phương Sơn huyện Liên Bắc.
Tháng 4 năm 1954, huyện Liên Bắc được tách ra thành huyện Đan Phượng và Hoài
Đức, xã Phương Sơn cũng được tách ra thành ba xã là Song Phương, Lại Yên và
Sơn Đồng. Từ đó, địa giới xã Sơn Đồng được ổn định cho đến ngày nay. Diện tích
đất tự nhiên của xã là 328 ha, trong đó đất canh tác là 209,35 ha. Phía Đơng của xã
tiếp giáp với xã Kim Chung, phía Tây giáp với Cát Quế và Yên Sở, phía Nam giáp
Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

21


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp 22

Lại Yên, Song Phương, phía Bắc là Đức Giang. Dân số của Sơn Đồng nếu tính ở
thời điểm trước cách mạng là khoảng 700 hộ với khoảng 3000 nhân khẩu.
Cũng như nhiều làng xã khác của huyện Hoài Đức, vùng đất Sơn Đồng
thuộc nền văn minh lúa nước ở đồng bằng châu thổ sơng Hồng. Đây là vùng đất
sớm có cư dân sinh sống. Liền kề Sơn Đồng là xã Cát Quế. Vào những năm 1966,
các nhà khảo cổ đã khai quật tại đây, cách mặt đất 1,7m – 1,8m phát hiện những đồ
vật bằng đá của người Việt cổ gồm rừu hình thang, bàn mài, khuyên tai, các đồ vật
bằng đồng như mũi giáo, mũi tên, mũi lao... Những đồ vật này có niên đại thuộc
văn hố Gị Mun cách đây khoảng trên 3500 năm. Những kết quả khảo sát đó đã
chứng tỏ bề dày trong văn hố vùng đất này.
Xét về vị trí địa lý, xưa kia vùng đất Sơn Đồng không gần với các tuyến

đường giao thông quan trọng. Địa bàn xã Sơn Đồng cách Hà Nội về phía Tây 18
km, cách thị xã Hà Đơng về phía Bắc 15 km, cách thị trấn Phùng gần 10km, cách
thị trấn Trơi ngày nay về phía Đơng và cách đê sơng Đáy ở phía Tây khoảng 3km.
Con đường huyết mạch duy nhất từ đê sông Đáy, lên Sơn Đồng, qua Kim Chung
và Đức Giang tới Trạm Trôi, gặp đường 70, nay là Đường 32 nối Hà Nội với Sơn
Tây chỉ là con đường rất nhỏ hẹp. Con đường từ An Hội (Cát Quế) qua Sơn Đồng
đi ngã tư Canh cịn là con đường đất liên thơn. Từ trước giải phóng, có thể nói Sơn
Đồng gặp rất nhiều khó khăn trong việc giao thông đi lại và giao lưu buôn bán với
bên ngoài.
Từ nhừng năm 60 của thế kỷ XX, do việc làm thuỷ lợi gắn với việc mở
mang giao thơng nơng thơn nên con đường nhỏ hẹp đó dần được nắn thẳng, mở
rộng trở thành con đường giao thông liên xã, liên huyện. Cho đến nay nó đã được
trải nhựa, nối từ chân đê Đáy lên Trạm Trôi gặp đường 32, hoặc qua Lại yên gặp
đường cao tốc Láng – Hoà Lạc. Hai tuyến đường này tạo ra một ngã tư Sơn Đồng
vốn đã sầm uất với chợ chiều Đức Giang nay lại thêm náo nhiệt.

Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

22


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp 23

Từ xa xưa, giống như bao làng xã khác ở đồng bằng châu thổ sông Hồng, xã
Sơn Đồng cũng chủ yếu làm nơng nghiệp, đời sống nhân dân cịn gặp nhiều khó
khăn. Vốn đất chật người đơng, nếu tính theo nhân khẩu thì đất canh tác mỗi nhân
khẩu nhận được cho đến thời điểm năm 1992 chưa đến một sào bắc bộ. Đời sống
khó khăn, ngồi nghề nơng, người dân phải làm thêm các nghề phụ nghề tiểu thủ

công để kiếm sống như dệt vải, làm ghế mây... và nổi tiếng nhất cho đến ngày nay
là nghề làm đồ mỹ nghệ, đồ thờ tượng phật. Đầu tiên cũng chỉ có một vài hộ làm
nghề rồi dần dần lan sang cả làng làm nghề. Cuộc sống khó khăn khiến người dân
phải bươn trải, và trong cái khó lại ló cái khơn. Họ cần cù miệt mài và đã tìm ra
con đường đi riêng cho mình. Cũng nhờ thế mà ngày nay chúng ta được thừa
hưởng kho tàng sản phẩm làng nghề thủ công nổi tiếng: làng sơn điêu khắc mỹ
nghệ truyền thống Sơn Đồng.
1.3.1.2 Điều kiện văn hoá, xã hội
Với diện tích 328ha bao gồm cả đất canh tác và đất thổ cư, hiện nay dân số
Sơn Đồng là 8550 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động là 4159, chiếm
48.5% dân số (Nguồn số liệu: Phòng Thống kê huyện Hồi Đức tính đến cuối
tháng 12 năm 2009). Cơ cấu dân số trẻ, đây là một thách thức đối với Sơn Đồng
trong vấn đề giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, song đồng thời cũng
là một thuận lợi lớn để Sơn Đồng có thể đào tạo, sử dụng nguồn lao động tại chỗ
phục vụ cho sản xuất của làng nghề.
Người dân Sơn Đồng từ xưa đã nổi tiếng với truyền thống cần cù hiếu học,
là một trong 13 làng khoa bảng nổi tiếng của Hà Tây. Theo sử sách ghi lại, làng
Sơn Đồng có tám người đỗ tiến sĩ trong đó có 1 Thám hoa, 2 Hoàng giáp, và 5 Tam
giáp, làm quan từ các thời Lý - Trần, Lê Sơ đến Lê Trịnh và thời Nguyễn. Có một
vị tiến sĩ đã làm quan tới chức Tể tướng, Thượng thư bộ Lại, Tả thị lang bộ Lại,
Thượng thư bộ Hình là Nguyễn Viết Thứ, đỗ Thám Hoa năm 1664. Họ Nguyễn
cịn có 4 ngưịi đỗ Tiến sĩ nữa là bố của Nguyễn Viết Thứ là Nguyễn Viết Quảng
Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

23


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp 24


(đỗ năm 1660), hai anh em con chú con bác là Nguyễn Trí Cung (đỗ năm 1703),
Nguyễn Trí Lợi (đỗ năm 1712), Nguyễn Trung Khuyến (đỗ năm 1889). Họ Nguyễn
là dịng họ có nhiều người đỗ tiến sĩ nhất làng. Đây là một niềm tự hào về vùng đất
giàu truyền thống văn hố và con người, đã có nhiều đóng góp trong cơng cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước trong hàng ngàn năm lịch sử.
Phát huy truyền thống hiếu học đó, ngày nay nhiều thế hệ thanh niên Sơn
Đồng cũng đang miệt mài học tập và đạt nhiều thành tích cao trong các kỳ thi
tuyền sinh, đại học, cao đẳng, nhiều ngưòi đã trưởng thành và trở thành những
doanh nhân thành đạt.
Sơn Đồng cũng là vùng đất có nhiều di tích lịch sử nổi tiếng đã được Nhà
nước cơng nhận và xếp hạng. Cả xã hiện nay có 6 Di tích đã được xếp hạng cấp
Quốc gia là: Đình Sơn Đồng, Chùa Diên Phúc, chùa Kỳ Đà, Đền Thượng, nhà thờ
Tổ và Từ Vũ của dòng họ Nguyễn (dòng họ có ngưịi đỗ Tiến sĩ nhiều nhất).
Đình Sơn Đồng nằm trên trục đường chính phân định hai thơn: thơn Nội và
thơn Ngoại của xã Sơn Đồng, nhưng là đình chung của hai thơn, ngưịi dân thường
quen gọi là đình Hát. Đình nhìn về phía Tây Nam, xung quanh có rất nhiều cây cổ
thụ, thường là nơi tụ tập của các cụ già và thanh niên trai gái trong làng. Nhìn bề
ngồi hiện nay trơng đình có vẻ mới q nhưng sự thực đây là một ngơi đình có
nhiều bề dày lịch sử. Tương truyền, xưa kia Sơn Đồng có vị thế như hình con rồng,
và đình làng được toạ lạc trên trán rồng. Có lẽ vì thế mà đến nay ở sân đình vẫn
cịn lại tấm bia nhỏ ghi lại lời nguyền của cư dân hai thôn nhân dịp sửa đình: “Từ
sứ mả rền long mạch chạy dài về phía đình, khơng ai được làm thương tổn đứt
đoạn, từ nay về sau cấm đào bới. Ai không tuân theo sẽ bị thần linh tru diệt. Cùng
thế.” (Được xác định ghi lại vào năm Duy Tân thứ 7 – 1913). Trên xà trái của Hậu
cung trong đình có ghi lại: Ngơi đình gốc vốn được xây dựng từ ngày 22 tháng 4
năm Ất Hợi, niên hiệu Chính Hồ thứ 16 (tức năm 1695), được tu tạo lại năm Đinh
Sửu 1817 đời Gia Long.
Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT


24


Trường Đại học Văn hoá Hà Nội

Khoá luận tốt nghiệp 25

Đền Thượng cũng là ngôi đền chung của hai thôn Nội và Ngoại, nằm ở
đằng sau chùa Diên Phúc. Tương truyền trước đây khuôn viên ngôi đền bao gồm
cả hai khu chuà Diên Phúc và Kỳ Đà, có bề thế uy nghi. Sau đó do sợ mạn phép
vua đã phải xây dựng thêm chùa để che bớt. Trong cuốn ngọc Phả đền Thượng
cũng ghi lại, ban đầu đền Thượng chỉ là miếu thờ, xây dựng vào năm 1485. Về sau,
vua Lê Thái Tổ ban cho vàng bạc để xây dựng, tu sửa lại thành đền thờ lớn như
ngày nay. Đền được xây dựng theo lối kiến trúc kiểu chữ Nôm, gồm Đại bái và
Hậu cung ơ phía sau, hai bên sân có Tả - Hữu mạc. Đặc biệt đền có kiến trúc 6
mái, một lối kiến trúc rất hiếm gặp ở Việt Nam. Đền Thượng có một số hiện vật
quý như hai tượng thờ đá đeo chuông ở hiên trước hậu cung, hai tượng nghê đá ở
hai ban thờ trong cung cấm, chiếc hương án trạm tứ linh và đôi hạc thờ ở hai nhà
Đại bái. Ngồi ra cịn có một số hồnh phi tơn vinh đức Thánh và kèm theo những
câu đối. Đặc biệt, trong đền còn giữ lại cuốn “Ngọc phả” do Nguyễn Bính soạn
năm 1572 và được sao lại năm 1740. Theo ngọc phả, đền Thượng thờ quan Thái
phi Đào Trực đã giúp vua Lê Đại Hành đánh thắng đạo quân xâm lược nhà Tống,
sau lại mở trường dạy học cho dân làng Sơn Đồng. Trong đền vẫn cịn lại tượng
quan trên đầu đội bạch kim có khắc chữ: “Tiền triều Thái phó Lê tướng cơng”, bên
ngồi có ghi câu đối:
“Danh lam cổ tích tự
Thượng đẳng tối linh từ”
Dịch là:

( Danh lam cịn ghi sự tích cổ

Ngơi đình Thượng đẳng rất anh linh )

Chùa Kỳ Đà được xây dựng trước chùa Diên Phúc, theo kiến trúc cổ hình
chữ Đinh. Chùa được xây dựng trên một khu đất cao có thế Tam bảo giống như
trên lưng con kỳ đà nên dân làng gọi là chùa Kỳ Đà. Còn chùa Diên Phúc, hiêụ là
“Diên Phúc tự”. Diên Phúc cũng là tên gọi nôm của làng Sơn Đồng. Theo dân làng
kể lại, chùa Diên Phúc được rời từ khu vực xóm Rảnh về trước đền Thượng, nằm
Nguyễn Thị Hoa - Lớp quản lý 7C – Khoa QLVH – NT

25


×