Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

BÀI TIỂU LUẬN môn TIẾP cận văn học THEO đặc TRƯNG THỂ LOẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.15 KB, 9 trang )

BÀI TIỂU LUẬN MÔN
TIẾP CẬN TÁC PHẨM VĂN HỌC THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI

Họ và tên:
Lớp: Đại học Ngữ Văn K20

ĐỀ BÀI
Chọn một tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn phổ thông để tiếp
cận và làm rõ đặc trưng thi pháp thể loại của tác phẩm ấy.
Bài làm
Như dịng sơng chở nặng phù sa đời đời bồi đắp cho đất đai màu mỡ, như
dòng sữa ngọt lành chất chứa những tinh hoa, dòng đời của văn học cứ miên viễn
mãi không ngừng. Mỗi thời đại đi qua, văn học lại khoác lên màu áo mới nhưng
chiếc áo cũ vẫn lưu dấu những nét đẹp một thời tựa như hồn thiêng của cha ông.
“Thời đại nào, văn học ấy”. Chẳng ai trong chúng ta quên đi một thời văn học trung
đại đượm đầy những tinh túy, cao đẹp. Có thể nói, Nguyễn Khuyến là lớp nhà Nho
cuối cùng cịn vận dụng triệt để thi pháp văn học vào trong tác phẩm thi ca. Thơ
ông nhuần nhị, uyển chuyển, thể hiện được sức mạnh của thi pháp trung đại mà
không làm mất đi tính bình dị, gần gũi và thân thuộc của đời sống nông thôn Việt

1


Nam. Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến (Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm) thể hiện
tinh tế, sâu sắc và hiệu quả thi pháp ấy.
Nhắc đến một nền văn học trước tiên là đề cập đến thi pháp của nền văn học
ấy. “Thi pháp” được hiểu là phép tắc làm thơ. “Thi pháp trung đại” là thuật ngữ chỉ
lĩnh vực nghiên cứu văn học với tư cách là một nghệ thuật, nghiên cứu cấu tạo của
tác phẩm văn học và tác giả của một thời kì từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX. Nó nêu ra
rạch rịi những ngun tắc mà bất kì người nghệ sĩ nào trong thời đại đó cũng phải
tuân theo. Văn học trung đại có tính ước lệ, cao quý và thanh nhã. Trong tính ước lệ


lại bao gồm tính uyên bác, sùng cổ và tính phi ngã. Mỗi đặc tính như một phần của
cây cổ thụ – thiếu đi sẽ mất đi vẻ cổ kính, uyên thâm của một nền văn học. Tất cả
những đặc điểm được tổng hòa để cùng được chạm trổ lên những bức tượng đài vĩ
đại – những tác phẩm kinh điển ghi dấu tinh hoa một thời tưởng như đã qua nhưng
mãi vàng son trong đời sống văn học; ghi dấu tài hoa, ý chí của người nghệ sĩ với
cuộc đời.
Đặc điểm của một nền văn học phản ánh nhu cầu thẩm mỹ, quan niệm về
cuộc sống của những giai cấp làm chủ trong xã hội. Văn học trung đại mang tính
un bác vì đối tượng sáng tác và đối tượng thưởng thức đều là những người có
vốn học vấn uyên thâm “làu thông Đông Tây kim cổ”. Thi thánh Đỗ Phủ từng nói:
“Năm mươi sáu chữ trong một bài thờ Đường luật phải là những ông thánh hiền
tuyện nhiên khơng lọt một chú bn thịt”. Chính vì thế mà thể loại thơ quy định rất
chặt chẽ, nghiêm ngặt: đề – thực – luận – kết rõ ràng và cách gieo vần, ngắt nhịp
cũng phải nhịp nhàng, đúng theo khuôn khổ.
Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến được viết bằng chữ Nôm, theo thể thất
ngôn bát cú Đường luật. Mỗi bài là một phác thảo với nét bút hội họa phương
Đông, không rườm rà, sặc sỡ mà cũng không gị bó, khn sáo. Nhà thơ – họa sĩ họ
Nguyễn đã đưa chúng ta về một vùng quê quanh năm ngập nước của đất Hà Nam
đầu thế kỉ XIX vào độ thu sang. “Thu vịnh” là những đường nét phác họa khái quát
những đặc điểm nổi bật về mùa thu. “Thu điếu” dừng lại ở không gian và thời gian
2


cụ thể đó là trên một ao thu, vào một chiều thu có ngư ơng trên thuyền thả mồi đợi
cá. Sang đến “Thu ẩm” là sự quan sát cảnh thu trong nhiều thời điểm khác nhau để
thâu tóm những nét nên thơ nhất.
Thiên nhiên trong thơ trung đại được ví như người tình khơng thể thiếu trong
cuộc u đương. Sơn thủy hữu tình là đề tài ưa chuộng của nghệ thuật phương
Đơng, nó như một bức tranh thủy mặc với những đường nét thanh cao, màu sắc
thanh đạm, hướng đến những điều thanh sạch trong đời thường. Cảnh thu trong

“Thu vịnh” đã được cụ Tam Nguyên phác họa như thế nào?
Phần lớn dung lượng bài thơ (6/8 câu) là thơ tả cảnh. Biên độ không gian và
thời gian không hạn chế: một buổi sáng, một cảnh chiều, một đêm trăng đượm màu
mùa thu. Ta bắt gặp “trời” (câu 1, câu 2), “nước” (câu 3), “hoa” (câu 5) có điểm
xuyết âm thanh vọng lại từ không trung cao vút nhưng điệu thơ, hồn hơ thì đã vượt
khỏi khn sáo kiểu tứ thời, tứ thú, tứ quý… của nét bút thơ và họa cổ điển. Nét
thu quán xuyến tất cả là bầu trời thu không ủ dột, quẩn quanh tù túng mà cao vời
vợi, cao ngất mấy tầng, cao hút tầm mắt:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”
Chỉ một nét điểm xuyết, phác họa cùng một cây cọ màu xanh mà vẫn thấy
được tầng tầng lớp lớp màu xanh da trời. Tầng tầng lớp lớp mà vẫn chan hòa với
nhau để tạo thành vòm trời vừa cao rộng, vừa sâu lắng. Sang đến “Thu điếu”, cảnh
vật cũng được phác họa bởi trời thu:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”
Màu xanh gợi nhắc lại như cái điệp khúc của bầu trời một độ vào thu, “tầng
mây lơ lừng trời xanh ngắt” là màu xanh phân vân trước cái cao rộng của bầu trời
dường như những áng mây thưa thớt quá nên chẳng thể phủ kín bầu trời xanh ngắt
thênh thang. Bầu trời được phân làm hai lớp: phần trên là màu xanh rộng rãi bao
la, phần dưới lãng đãng màu mây trắng. Cả hai màu sắc hợp hòa bên nhau, làm nổi
bật lên nhau tạo nên những đường nét thật trong sáng. Chính cái màu xanh ngắt –

3


một màu xanh, rất xanh – có tác dụng nâng bầu trời lên cao hơn, rộng hơn, lại hiện
diện một lần nữa trong bài “Thu ẩm”:
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”
Da trời không ai nhuộm mà xanh. Đúng là trời thu Việt Nam – nhất là ở vùng
Bắc Bộ bao giờ cũng đẹp đẽ trong sáng như viên ngọc giữa lòng đại dương. Màu
trời ấy lồng ánh qua tâm hồn rất hữu tình của Nguyễn Khuyến càng xanh biếc, càng

đẹp như sắc ngọc lưu ly xuyên suốt ba bài thơ thu.
Giữa trời thu bao la như nới rộng cả khơng gian ấy, một khóm tre xa xa từ
thơn vắng thả ngọn theo gió thu nhẹ nhàng uyển chuyển càng tơ thêm sắc thu:
“Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”
Cái vẻ “lơ phơ” của trúc còn gợi lên nét rất tỉ mỉ như những nét bút lồng của
họa sĩ. Trúc được xem như là một trong tứ bình của lồi hoa “tùng – trúc – cúc –
mai”, bởi nét thanh tao, mảnh khảnh của nó. “Gió hắt hiu” gợi đúng cái gió heo
may se lạnh của miền Bắc. Giữa trúc và gió hình như có sự chan hịa, thấm quyện
vào nhau. Cành trúc còn gợi cái hồn của làng cảnh Việt Nam tự ngàn đời:
“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Trên là trời xanh bát ngát, dưới là ngõ trúc trầm mặc quạnh quẽ, hai chữ
‘quanh co” như một nét vẽ linh hoạt tạo nên một đường uốn lượn chuyển động,
đồng thời cũng gợi cảm giác heo hút cô đơn. Thơ trung đại thường “tả cảnh ngụ
tình”, đem cái buồn trong lòng người mà trút ra thành thơ. “Khách vắng teo” – càng
làm tăng thêm sự tĩnh mịch tột cùng của cảnh: khơng một bóng người, khơng một
tiếng động. Cảnh vật như lặng thinh, thời gian như ngưng đọng nhường chỗ cho
một ý thu mênh mông bát ngát.
Đối xứng với trời thu là ao thu vào sáng tinh mơ, lúc màn đêm đã vén hay
vào buổi chiều tà, lúc bóng ô vừa ngậm non đoài, thời điểm “long lanh đáy nước in
trời”; nước biếc dội lên màu xanh thơ mộng tạc nên ảo ảnh màn khói mênh mơng
mà các nhà thơ cổ điển thường gọi là “yên ba giang thượng”. Trời thu và nước thu:
“Nước biếc trơng như tầng khói phủ” hay “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí” tựu chung
4


đều là những vẻ đẹp mơ hồ, rất khẽ khàng của cảnh sắc mùa thu. Nước thu vẫn
“trong veo” nhưng màu trong xanh bây giờ dường như đã trộn lẫn với màu nhàn
nhạt của sương chiều. Màu chiều xuống thấp đọng trên làn sương nhẹ bay là trên
mặt nước tạo nên cảm giác kì lạ khó phân biệt được ranh giới giữa làn nước xanh
và màu sương nhạt.

Sau thu thiên, thu thủy là thu nguyệt. Trăng thu sáng dịu dàng trong trẻo
tuyệt trần xưa nay vốn là bạn của thi nhân. Trăng là kẻ đồng hành: “Chè trên, nước
ghín, nguyệt đeo về” (Nguyễn Trãi), “Một trong một bóng một người hóa ba”
(Nguyễn Huy Tự). Nguyễn Khuyến khơng cài song để đón trăng và ngắm trăng,
chẳng biết trăng ở đây có vào địi thơ Tam Ngun n Đổ hay khơng mà sao thơ
mộng đến thế:
“Song thưa để mặc ánh trăng vào”
Có một sự chuyển động rất khẽ khàng của thời gian và bóng trăng bước vào
thơ như một người tri kỉ. “Song thưa” – một khung cửa mở rộng. Thời gian bước
nhẹ từng bước làm khơng gian cũng chuyển mình, cảnh vật như mờ dần và tựa hồ
như “bóng trăng loe” in hằn trên “làn ao lóng lánh”, ánh trăng chậm rãi bước vào
song cửa, người và trăng như ùa vào nhau, chan hòa lẫn nhau. Cảnh vật im ắng
chứa một chiều sâu vừa tĩnh mịch, vừa khoáng đạt bao la lạ thường. Bây giờ lại đến
hoa thu:
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngối”
Phải chăng vì người xưa quan niệm thời gian tuần hoàn “Ngán nỗi xuân đi
xuân lại lại” nên thời gian trong thơ Nguyễn Khuyến chầm chậm êm trôi thậm chí
dừng lại trong suy tưởng. Dưới bóng trăng “mấy chùm trước giậu” bước vào cảnh
vật như một nỗi gợi nhớ, nhắc nhở; tác giả nhắc đến hoa nhưng không phải để tả
cảnh nên hoa khơng có màu sắc, hoa chỉ làm minh chứng cho sự tuần hoàn của năm
tháng và hoa chỉ thấm đượm màu sắc của thời gian. Giữa thực và hư khơng có ranh
giới nên chùm hoa trước giậu bỗng mang bóng dáng của “chùm hoa năm ngoái…”.

5


Bóng trăng khơng chỉ soi tỏa con nước mà cịn phủ thứ ánh sáng bàng bạc trên
những giậu hoa gợi nên những màn “khói nhạt” giăng mắc giữa khơng trung.
Cảnh vật càng hữu tình tựa như bức tranh thủy mặc được chấm phá bởi một
tâm hồn tự tại, ung dung đắm mình trong thiên nhiên. Nguyễn Khuyến – nhà thơ

của làng cảnh Việt Nam đã đem cả non sông nước biếc với bao nhiêu phong cảnh
hữu tình vào thơ như một kho tàng quý báu. Như người nghệ sĩ chấm phá bức tranh
bằng cây cọ truyền thống, thi pháp trung đại được Tam Nguyên Yên Đổ sử dụng
như một cây cọ thần phủ lên cảnh vật màu sắc tươi tắn, sinh động, mà cũng rất đỗi
nhẹ nhàng, nên thơ.
Văn học trung đại cũng mang đậm sự cao quý và thanh nhã như cốt cách con
người thuở xưa. Xã hội phong kiến là xã hội với nhiều lễ nghi chính vì thế mà văn
chương có mục đích quan trọng là giáo hóa, người sáng tác nghiêm trang, dù viết ra
để chơi vui, thù ứng thơng thường cũng khơng thể nói càn, mà gần hay xa đều
nhắm đến xúc cảm, suy nghĩ của mình, ngày xưa cho đó là cái chí, cái tình, cái tâm
của người làm thơ. Cái tâm ấy hướng theo một cái đạo nhất định. Trong thơ cụ
Nguyễn, cái “đạo” ấy là nỗi niềm yêu nước khôn nguôi của người sống trên quê
hương nhưng lại thiếu vắng quê hương:
“Một tiếng trên không ngỗng nước nào”
Câu thơ 5 – 6 trong bài “Thu vịnh” này cùng một mạch liên tưởng với nhau:
chùm hoa xưa gợi nhớ nỗi niềm nước nhà; tiếng chim kêu càng làm tâm trạng u
hoài, sầu cổ. Giữa bầu trời cao rộng, im ắng chợt vang lên một tiếng kêu thê thảm
của một con ngỗng lạc bầy. Trong khoảnh khắc, âm thanh dường như xé cả không
gian rồi chìm đắm, mất hút… Cảnh lại càng cơ tịch như vết kéo dài của tiếng trống
canh hằn lên trong tâm hồn nhà thơ.
Ngỗng trời là loại di điểu bay xa, mỗi cuối mùa thu, trời sắp lập đông, chim
phải rời miền Bắc đề xuôi về miền Nam trốn rét. “Ngỗng nước nào” gợi lên cảm
giác man mác, quạnh quẽ trong tâm hồn thi nhân. Hỏi “Ngỗng nước nào?” phải
chăng nhà thơ thấy mình như cánh chim lạc bầy, như vùng trời này khơng cịn là
6


của đất nước mình nữa. Nhớ chùm hoa năm ngối và đau xót khi nhìn lại đất nước
của mình hơn nay. Tả cảnh thu mà lòng người cũng mênh mang, chan chứa tình
người, ắp đầy những tâm sự. Tâm sự dù chẳng bng một lời nhưng người ta nghe

có tiếng thở dài của người quá tuổi tìm đến rượu như thứ men tráng lấp những nỗi
niềm:
“Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè”
Câu thơ trước đọng lại trong mạch thơ như giọt lệ lưng tròng “Mắt lão không
vầy cũng đỏ hoe” – giọt lệ như sương của tuổi già rơm rớm như một nỗi đau âm ỉ.
Một bầu trời tâm sự nước non chỉ còn cách mượn rượu để giải sầu. Uống rượu tiêu
sầu mà sầu có đứt, ở ẩn tìm qn mà nỗi nước nhà có lúc nào ngi? Càng uống thi
nhân càng “say nhè”. Thế là một mình nhà thơ đối diện với bầu rượu trong đêm
thu. Sau “năm ba chén”, tâm tư đã nhòa ra, thẩm thấu vào cảnh vật khiến cho sắc
thu, dáng thu, hồn thu đều cùng lảo đảo trong cơn say. Người đã “khấp khểnh ba
chân dở tỉnh dở say” thế mà nỗi buồn vận nước vẫn bứt rứt mãi trong lòng.
Cụ Tam Nguyên từng mượn rượu để giải khuây, bây giờ lại mượn thú câu cá
cho vơi bớt nỗi niềm mất nước:
“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Cả bài thơ “Thu điếu” là một nốt nhạc trầm lặng chỉ duy nhất một thanh cao
chen ngang giữa bản nhạc êm ắng nơi cuối bài. Nhà thơ dường như đang giật mình
trước tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”. Từ “cá đâu” là cách hỏi vừa tạo sự mơ hồ
trong không gian vừa gợi sự ngỡ ngàng của lòng người. Nhà thơ dường như mất
cảm giác về khơng gian thực tại mà chìm đắm trong không gian suy tưởng. Câu cá
chẳng phải để bắt cá. Người xưa có kẻ lấy câu cá làm việc đợi thời, đợi người hay
để câu nhàn, “lánh đục về trong”. Trong văn thơ truyền thống, người xưa lấy việc
câu cá để từ chối việc làm quan và coi câu cá là việc “câu người”, “câu quạnh”,
“câu lười”.
7


Bài thơ “Thu điếu” không chỉ chất chứa nỗi buồn thế sự của một tấm lòng
yêu nước mà còn thể hiện khát vọng câu thanh, câu vắng cho tâm hồn của một thi

nhân có phẩm chất thanh cao.
Thi pháp trung đại cịn mang tính chất sùng cổ, nghĩa là đề cao cái cổ, cái
xưa. THời tốt đẹp nhất phải là thời Nghiêu, Thuấn; quá khứ bao giờ cũng là mẫu
mực cho văn chương, cho con người soi vào. Người ta quan niệm “xưa sao nay
vậy”, “không ai mặc áo qua khỏi đầu”. Con người phải tự hạ mình đến mức tối đa,
xem mình là tài hèn sức mọn. Chẳng vì thế mà ta thấy Phạm Ngũ Lão đã từng
khiêm nhường: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu” – thể hiện một chữ “thẹn” đầy
thanh cao.
Nguyễn Khuyến cũng vậy:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”
Nếu chúng ta hiểu thái độ của Nguyễn Khuyến trong tư cách là kẻ sĩ, trước
quyết định xuất -xử đầy tỉnh táo, dứt khốt của Đào Tiềm, thì ta khơng những sẽ
hiểu mà càng trân trọng và kính ngưỡng nỗi hổ thẹn đáng quý của ông. Một con
người đâu chỉ vẹn trọn một lòng yêu nước mà còn thanh sạch, đầy nhân phẩm, cốt
cách cao đẹp. Nguyễn Khuyến là một trong những cây cổ thụ của văn học dân tộc.
Tuy bóng mát của cây đại thụ ấy khơng rợp bóng thời gian suốt bao thế kỉ như
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du nhưng gốc rễ của nó ăn sâu vào đất Việt, góp phần tạo
nên tâm hồn Việt bởi thơ ông vẹn đầy những đường nét thi pháp của một thời và
con người ông mang tầm vóc của con người thời đại bởi cốt cách thanh cao, trong
sạch. Ba bài thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến đã vẽ nên bức tranh quê hương bình
dị, đằm thắm tình người, tình đời.
Trở thành thơ văn để đời, vượt qua sự đào thải khắc nghiệt của thời gian,
người nghệ sĩ cần phải có cái tài, cái trải nghiệm, cái cảm sâu sắc; phải hội tụ hùng
tâm tráng chí của thời đại để làm nên những tác phẩm bất hủ. Có được như vậy, văn
chương mới bất tử cùng thời gian. Thi pháp trung đại dẫn cho người đọc đương
8


thời và thế hệ sau con đường đi đến cách cảm, cách nghĩ, những đường nét văn hóa

và đặc biệt là chạm vào hồn cốt con người một thời. Đi sâu vào các đặc điểm tính
uyên bác, tính ước lệ, tính sùng cổ, tính phi ngã, ta càng thấy một bầu trời văn
chương như nới rộng ra bởi cảm quan của người xưa trước thiên nhiên, ta thấy
được tầm vóc con người cũng như nhân cách, khí tiết và nỗi lòng miên man của
tiền nhân ẩn sau từng con chữ. Dòng văn học trung đại chẳng những làm nền tảng
cho văn học dân tộc mà còn làm giàu thêm tinh thần nhân bản, tình u nước và có
tác dụng như tiếng nói mở đầu cho văn học viết của dân tộc.

9



×