Tải bản đầy đủ (.pdf) (208 trang)

Luận án Tiến sĩ Văn học: Thơ mới (1932 - 1945) từ góc nhìn phê bình sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.27 MB, 208 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THỊ THU THỦY

THƠ MỚI (1932 - 1945) TỪ GĨC NHÌN
PHÊ BÌNH SINH THÁI

Ngành: Lí luận Văn học
Mã số: 9 22 01 20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1- PGS. TS Lƣu Khánh Thơ
2- TS. Phạm Phƣơng Chi

Hà Nội, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong
bất cứ cơng trình nào khác
Hà Nội, ngày

tháng

Tác giả luận án

Bùi Thị Thu Thủy


năm 2020


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ....................................... 6
1.1. Nghiên cứu phê bình sinh thái ở nƣớc ngồi ................................................. 6
1.1.1.Phê bình sinh thái ở phương Tây .................................................................. 6
1.1.1.1. Thời kỳ đầu ................................................................................................. 6
1.1.1.2. Thời kỳ phát triển........................................................................................ 7
1.1.2.Phê bình sinh thái các quốc gia ngồi phương Tây ...................................... 9
1.2.Nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam................................................... 13
1.2.1.Cây cối, con vật và những khủng hoảng môi trường trong nghiên cứu văn
học ở Việt Nam ..................................................................................................... 13
1.2.2.Văn học và cơng lí mơi trường trong nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt
Nam ...................................................................................................................... 21
Chƣơng 2: PHÊ BÌNH SINH THÁI NHƢ LÀ MỘT HƢỚNG TIẾP CẬN ...... 31
VĂN HỌC ............................................................................................................ 31
2.1. Phê bình sinh thái lấy trái đất làm trung tâm trong nghiên cứu văn học....... 31
2.1.1. Tiền đề triết học của phê bình sinh thái ..................................................... 31
2.1.2. Phê bình sinh thái và “các câu chuyện có cây cối” .................................... 36
2.2. Diễn trình của phê bình sinh thái ................................................................. 42
2.2.1. Khủng hoảng của phê bình sinh thái cổ điển ............................................. 42
2.2.2. Cơng lí mơi trường trong phê bình sinh thái .............................................. 46
2.2.3. Phê bình sinh thái với cái tồn cầu, sự tuyệt chủng, động vật và tính liên
ngành .................................................................................................................... 51
2.2.3.1. Sự manh nha của phê bình sinh thái làn sóng thứ ba................................. 51
2.2.3.2. Cái tồn cầu, sự tuyệt chủng, động vật và tính liên ngành......................... 52
2.3. Xác định cách tiếp cận văn học từ góc độ phê bình sinh thái ..................... 58
Chƣơng 3: NHỮNG BÌNH DIỆN SINH THÁI CỦA MỐI QUAN HỆ TỰ

NHIÊN VÀ CON NGƢỜI TRONG THƠ MỚI ................................................ 63
3.1. Tự nhiên nhƣ một khách thể ........................................................................ 63
3.1.1. Tự nhiên như là một sinh thể tồn tại bên ngoài con người ........................ 63


3.1.2. Tự nhiên như là phản chiếu những dự cảm bất an về sinh thái của con
người .................................................................................................................... 73
3.2. Tự nhiên nhƣ một chủ thể ............................................................................ 86
3.2.1. Tự nhiên như là lực hút và lực đẩy của chốn đô thị .................................. 86
3.2.2. Tự nhiên như là cõi đi về của con người trong thế giới hiện đại .............. 95
Chƣơng 4: NGÔN NGỮ VÀ BIỂU TƢỢNG SINH THÁI TRONG THƠ MỚI
............................................................................................................................ 105
4.1. Ngôn ngữ sinh thái trong Thơ mới............................................................. 106
4.1.1. Vấn đề ngôn ngữ sinh thái trong thơ ca .................................................. 106
4.1.2. Hệ thống ngôn ngữ sinh thái trong Thơ mới............................................ 107
4.1.2.1. Thơ mới như là những bảng màu sinh thái .............................................. 107
4.1.2.2. Thơ mới như là những khởi đầu của lí thuyết phê bình sinh thái ở Việt Nam
............................................................................................................................ 116
4.1.2.3. Thơ mới như là những tiềm ẩn lí luận bằng thơ về sự chấn thương sinh thái
............................................................................................................................ 122
4.2. Biểu tƣợng sinh thái trong Thơ mới .......................................................... 129
4.2.1. Biểu tượng và biểu tượng “vườn” trong phê bình sinh thái..................... 129
4.2.2. Biểu tượng “vườn” trong Thơ mới ........................................................... 132
4.2.2.1. Vườn - tưởng nhớ cảnh sắc bản địa ........................................................ 132
4.2.2.2. Vườn – nơi cứu rỗi tâm hồn .................................................................... 139
4.2.2.3. Vườn – bám rễ vào trần gian .................................................................. 144
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 148


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XX đến nay, những hiểm họa về suy thối mơi
trường đã trở nên trầm trọng. Điều đó đặt ra những vấn đề liên quan đến sự tồn
vong của nhân loại. Và đây là lí do vì sao trong lĩnh vực kinh tế xuất hiện khái
niệm phát triển bền vững với chủ trương phát triển kinh tế nhưng khơng làm tổn
hại đến mơi trường sinh thái vì các thế hệ tương lai. Trong địa hạt khoa học xã
hội và nhân văn cũng đã xuất hiện khái niệm phê bình sinh thái. Về bản chất đó
là bộ mơn nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Đây được xem
là một hướng nghiên cứu mới có tính liên ngành, ngày càng có ảnh hưởng lớn.
1.2. Phê bình sinh thái cịn gọi là nghiên cứu xanh xuất hiện ở Tây Âu rồi
lan rộng ra toàn cầu. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển phê bình sinh thái thể
hiện rõ những tiềm năng và đã được giới nghiên cứu văn học Việt Nam tiếp
cận, giới thiệu, ứng dụng, nghiên cứu.
1.3. Hiện nay, những nghiên cứu dựa trên nền tảng phê bình sinh thái chủ
yếu hướng đến các sáng tác văn học đương đại, nghiên cứu những sáng tác văn
học trước đó cịn hạn chế, đặc biệt tập trung nghiên cứu nhiều vào thể loại văn
xi mà chưa có nhiều nghiên cứu về thơ. Với lí do đó, chúng tơi muốn soi rọi
lý thuyết phê bình sinh thái vào tìm hiểu một thực thể quan trọng của văn học
Việt Nam thế kỷ XX là Thơ mới.
1.4. Gợi ý từ phê bình sinh thái khi nghiên cứu Thơ mới chúng tôi nhận thấy
theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu có thể xem văn học sinh thái xuất hiện
từ thời kỳ lãng mạn. Đó là thời kỳ chủ nghĩa tư bản với sự phát triển như vũ bão đã
lộ dần mặt trái đen tối của sự tàn phá, hủy hoại môi trường tự nhiên. Các nhà lãng
mạn đã sớm dự cảm về những hư tổn mất mát đó và đưa chúng vào văn học đương
thời. Thơ mới Việt Nam (1932 – 1945) mặc dù xuất hiện muộn hơn so với văn học
lãng mạn phương Tây nhưng cũng ra đời trong bối cảnh thực dân Pháp xâm lược
và khai thác thuộc địa. Nền văn minh công nghiệp xuất hiện đã bước đầu tàn phá
tự nhiên và môi trường sống. Trong văn học lãng mạn có một khuynh hướng viết
về đồng quê. Trong đó, nhiều nghệ sỹ coi sự trở về với thiên nhiên, thôn dã như


1


một nẻo đường tìm kiếm sự bình yên, thể hiện thái độ phản ứng lại sự ngột ngạt
của đời sống đơ thị. Chúng ta có thể tìm thấy ở Thơ mới một tấm mạng sinh thái
mê đắm lòng người, thế giới vạn vật hữu linh giao cảm hài hòa…Những vần thơ
viết về thiên nhiên, tự nhiên trong Thơ mới cũng có ý nghĩa đánh thức sự gắn kết
giữa con người với mơi trường nhân tính của tự nhiên, thanh tẩy, ngăn cho con
người khơng trượt vào con đường tha hóa, để từ đây rung lên hồi chuông cảnh tỉnh
về khủng hoảng sinh thái.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài xem xét phê bình sinh thái, một hướng tiếp cận văn học xuất phát từ
phương Tây sẽ có những thích hợp hay sự khác biệt gì khi được nhìn nhận
trong sự tương quan với văn học Việt Nam, đặc biệt là với Thơ mới.
Đề tài muốn khám phá Thơ mới từ một góc nhìn mới, đó là sự gắn kết của
trường phái thơ này với các vấn đề môi sinh, môi trường và tự nhiên. Từ đó, đề
tài khẳng định giá trị trường tồn và sự đa diện của Thơ mới. Thơ mới có giá trị
ngay cả khi được khám phá dưới những cách tiếp cận xuất hiện sau sự ra đời và
phát triển của nó rất nhiều.
Đưa ra các cách hiểu về phê bình sinh thái như vậy, chúng tơi muốn
khẳng định rằng phê bình sinh thái cũng chỉ là một hướng tiếp cận mới đối với
Thơ mới, giống như các cách tiếp cận khác đã từng được dùng để tiếp cận bộ
phận thơ ca đó. Luận án của chúng tơi khơng nhằm xác định Thơ mới như một
chỉnh thể sinh thái. Bởi lẽ trọng tâm của Thơ mới là bộc lộ cái tôi cá nhân và sự
cô đơn của con người. Nhưng nghiên cứu trào lưu văn học này với cơng cụ là
phê bình sinh thái chúng tôi muốn khám phá thêm các ý nghĩa, giá trị của Thơ
mới. Do vậy, lí thuyết phê bình sinh thái sẽ góp phần soi tỏ những khía cạnh
khác nhau của khuynh hướng văn chương sinh thái trong Thơ mới. Theo đó,
Thơ mới được hình dung như một trường hợp để chứng minh sự hữu dụng của

phê bình sinh thái trong việc nghiên cứu thực tiễn văn học Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái trên thế giới
và ở Việt Nam.

2


- Phân tích sự ra đời và phát triển phê bình sinh thái trên thế giới, từ đó
đưa ra nhận định riêng về sự phát triển và nội hàm của phê bình sinh thái.
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong Thơ mới.
- Tìm hiểu ngôn ngữ và biểu tượng trong Thơ mới.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận án xác định đối tượng nghiên cứu là những tác phẩm trực tiếp, gián
tiếp thể hiện mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong Thơ mới.
-Vận dụng những tri thức của phê bình sinh thái để cắt nghĩa lý giải mối
quan hệ giữa tự nhiên và con người trong Thơ mới. Từ đó khẳng định những
đóng góp của Thơ mới một cách đầy đủ, toàn diện hơn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án của chúng tôi được thực hiện dựa trên sự khảo sát chính ở tuyển
tập: Thơ mới 1932 – 1945 tác giả và tác phẩm, Lại Nguyên Ân (biên soạn),
1999, NXB Hội nhà văn, Hà Nội - (tập 1, tập 2 - 1401 trang).
Ngoài khảo sát các diễn ngơn phê bình sinh thái trong Thơ mới chúng tơi
cũng khảo sát mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong văn học các giai
đoạn trước và sau nó, nhằm làm nổi bật cũng như rõ hơn sự khác biệt của mối
quan hệ trên trong Thơ mới.
4. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên nền tảng của các tri thức nghiên cứu hiện đại trong khoa học xã
hội và nhân văn, dựa trên tri thức của phê bình sinh thái và những đặc trưng cơ

bản của bối cảnh lịch sử đã sản sinh ra Thơ mới, chúng tôi lựa chọn các phương
pháp nghiên cứu:
- Phương pháp hệ thống: Nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa các yếu
tố cấu thành nên hệ thống, trên cơ sở hệ thống hóa các yếu tố, tính chỉnh thể sẽ
được bộc lộ rõ. Áp dụng phương pháp này, chúng tôi tiếp cận một cách hệ
thống các yếu tố cấu thành tạo nên chỉnh thể Thơ mới từ phương diện nội dung
và nghệ thuật từ đó cho thấy cái nhìn khái quát, tổng thể về Thơ mới dưới sự soi
chiếu của lý thuyết phê bình sinh thái.

3


- Phương pháp thống kê: Bằng quá trình thống kê chi tiết, cụ thể những
dấu hiệu sinh thái trong các sáng tác Thơ mới, phương pháp này giúp chúng tôi
phân loại, mô tả được tổng thể mối quan hệ giữa tự nhiên và con người cũng
như bao quát rõ hơn những yếu tố ngôn ngữ và biểu tượng sinh thái trong các
tác phẩm Thơ mới.
- Phương pháp liên ngành: Luận án vận dụng kết quả của nhiều chuyên ngành
như: triết học, văn hóa học, tâm lý học, sinh học, sử học, địa lý, chính trị, đạo đức...
Bởi lẽ, phê bình sinh thái vốn dĩ là một phương pháp nghiên cứu mang tính liên
ngành. Kết hợp tri thức các ngành khoa học trên đề tài mong muốn hướng đến khái
quát một bức tranh đa diện về mối quan hệ tự nhiên và con người những năm 1932
– 1945 của giai đoạn Thơ mới ra đời và cũng để tránh cái nhìn đơn giản, một chiều
cho những kết luận rút ra trong q trình nghiên cứu.
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Vận dụng phương pháp tiếp cận văn hóa
học trong nghiên cứu, luận án muốn đề cập đến vấn đề con người trong Thơ mới
nhìn từ góc độ văn hóa ứng xử với tự nhiên. Trong cách ứng xử giữa con người với
tự nhiên qua các giai đoạn văn học từ văn học dân gian sang văn học trung đại và
hiện đại đã có sự thay đổi do văn hóa cũng biến chuyển theo thời gian.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Thi pháp học hiện đại cũng giúp

nhìn nhận rõ hơn tác giả, lịch sử văn học, giọng điệu...là những căn cứ chân
thực để soi rọi Thơ mới từ góc nhìn phê bình sinh thái.
- Phương pháp so sánh: Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên trong Thơ mới, luận án cũng tiến hành so sánh với văn học dân gian, văn
học trung đại và văn học hiện đại, đương đại nhằm tìm ra những nét tương
đồng cũng như khác biệt trong mối quan hệ trên.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về Thơ
mới từ lý thuyết phê bình sinh thái.
Luận án đã tổng thuật, phân tích, đánh giá chi tiết, cụ thể các cơng trình
nghiên cứu phê bình sinh thái trên thế giới và Việt Nam, chỉ ra vị trí và xu
hướng phát triển của phê bình sinh thái nước nhà trong thời gian hiện nay.

4


Luận án khơng nhằm trả lời Thơ mới có phải là văn học sinh thái hay
không mà chủ yếu chỉ ra những giá trị đa diện, ý nghĩa của Thơ mới dưới sự soi
chiếu của lý thuyết phê bình sinh thái.
Dưới lý thuyết phê bình sinh thái, luận án đã khám phá trên những bình
diện cơ bản về mối quan hệ con người và tự nhiên trong Thơ mới: Tự nhiên với
tư cách như một khách thể và như là chủ thể; Đồng thời, luận án đã khám phá
hệ thống ngôn ngữ sinh thái cùng biểu tượng cơ bản trong Thơ mới tiêu biểu là
biểu tượng vườn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Luận án tập trung trả lời câu hỏi Thơ mới có thể đóng
góp gì cho phê bình sinh thái, tức là khi được xét trong trường hợp cụ thể là thơ
ca về thiên nhiên của Thơ mới thì phê bình sinh thái có thể cần phải bổ sung
điều gì; từ trường hợp của Thơ mới, có thể bình luận, bàn luận thêm gì về phê
bình sinh thái. Một lí thuyết của thế giới, được sinh ra trong một bối cảnh lịch

sử xã hội khác Việt Nam, khi đem quy chiếu đến thơ ca Việt Nam - vốn cũng
được ra đời trong một bối cảnh lịch sử xã hội đặc trưng - chắc chắn sẽ có nhiều
điểm phát hiện mới, khám phá mới. Nghiên cứu Thơ mới từ góc nhìn phê bình
sinh thái để phần nào cho thấy sự mới mẻ này sẽ là một đóng góp về lí luận của
đề tài và Thơ mới vì thế cũng có thêm giá trị lí luận.
Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm
và nghiên cứu về phê bình sinh thái cũng như muốn khám phá thêm những giá
trị của Thơ mới (1932 -1945).
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung
chính của luận án gồm 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Phê bình sinh thái như là một hướng tiếp cận văn học
Chương 3: Những bình diện sinh thái của mối quan hệ tự nhiên và con
người trong Thơ mới
Chương 4: Ngôn ngữ và biểu tượng sinh thái trong Thơ mới

5


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.Nghiên cứu phê bình sinh thái ở nƣớc ngồi
1.1.1.Phê bình sinh thái ở phương Tây
Cho đến nay phê bình sinh thái đã trở thành một xu hướng nghiên cứu liên
ngành và không ngừng mở rộng.Trên đại thể, phê bình sinh thái đã trải qua hai
giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất gắn với thời kỳ lãng mạn; Giai đoạn thứ hai là sự
gặp gỡ các diễn ngôn sinh thái và diễn ngôn hậu thực dân sinh thái. Đây là
hướng nghiên cứu văn học khởi nguồn từ Mỹ vào những năm 1960 - 1970 và
mở rộng ra các nước phương Tây. Phê bình sinh thái nghiên cứu mối quan hệ

giữa văn học và môi trường tự nhiên. Nếu như phê bình nữ quyền xem xét ngơn
ngữ với văn học dưới góc độ của ý thức về giới, phê bình Marxist đưa ý thức về
các hình thái sản xuất và các tầng lớp kinh tế vào việc đọc văn bản thì phê bình
sinh thái lại lấy cách tiếp cận lấy trái đất - tự nhiên làm trung tâm khi phân tích
tác phẩm văn học.
Mặc dù phê bình sinh thái đã manh nha từ trước, nhưng phải đến những
năm 70 của thế kỷ XX, khi Joseph W. Meeker cho xuất bản Sinh thái học của
văn học chính thức đề xuất tên gọi sinh thái học văn học (literary ecology) thì
các nhà nghiên cứu bắt đầu quan tâm sâu sắc đến mối quan hệ giữa văn hóa và
văn học với mơi trường. Cũng từ đây phê bình sinh thái trở thành một lĩnh vực
nghiên cứu văn học được quan tâm trên thế giới.
1.1.1.1. Thời kỳ đầu
Năm 1973, Raymond Williams – học giả người Anh công bố cuốn Nông
thôn và thành thị (The country and the city). Đây là công trình được xem là
khởi đầu của nghiên cứu phê bình sinh thái ở nước Anh.Tác giả đã làm rõ mối
quan hệ giữa thành thị và nông thôn trong văn học Anh từ lập trường của chủ
nghĩa chỉnh thể sinh thái. Ông đã chỉ rõ đó là mối quan hệ vừa chứa đựng sự
mâu thuẫn lại vừa thống nhất.
Năm 1985, Frederick O. Waage cho ra đời cuốn sách Dạy văn học môi
trường: tài liệu, phương pháp và tiềm năng phát triển (Teaching environmental
literature materials methods resources). Với “mục đích thúc đẩy mọi người

6


tăng cường quan hệ và hiểu biết sâu hơn về vấn đề môi trường trong văn học”
[143] cuốn sách đã như một gợi ý cho các giáo sư Mĩ mở các môn học liên
quan đến văn học sinh thái và tiến hành nghiên cứu lĩnh vực này.
Năm 1989, tại Mỹ đã dành một bản tin có tên Bản tin sáng tác về đề tài tự
nhiên trong văn học Mỹ (The American nature writing newsletter) để đăng tải

những bài viết về phê bình sinh thái. Và cũng năm này, trong Đại hội “Hội văn
học miền Tây”, học giả Cheryll Glotfelty công bố báo cáo Vì một nền phê bình
văn học sinh thái (Toward an ecological literary criticism) và Lough với bài
Định giá lại tự nhiên: Vì một nền phê bình sinh thái học (Revaluing nature:
Toward and ecological criticism), với hai báo cáo nói trên các học giả đã góp
phần đề xướng và làm sống lại thuật ngữ phê bình sinh thái.
Năm 1990 đánh dấu sự ra đời bộ sách đồ sộ có tên Cuốn sách viết về tự nhiên
(The norton: book of nature writing) do Robert Finch và John Elder chủ biên.
Cuốn sách dày gần 1000 trang đã giới thiệu những tác phẩm quan trọng viết về tự
nhiên của các nhà văn Âu Mĩ từ thế kỉ XVIII. Đây có thể xem như là một tài liệu
quý bổ sung hữu ích cho người nghiên cứu tìm hiểu về văn học sinh thái.
Có thể nhận thấy, thời kỳ đầu những nghiên cứu về văn học và môi trường
đã bắt đầu được chú ý và ngày càng gia tăng trên thế giới. Song hầu như chỉ tập
trung vào các nghiên cứu ở Anh và Mỹ đặc biệt là miền Tây nước này. Nhiều
công trình tập trung viết về cái hoang dại, sự hiển linh của cá nhân, chỉ ra sự hài
hòa, cân bằng giữa con người với thiên nhiên – những thứ thực ra là do văn hóa
con người và ngơn ngữ con người tạo ra chứ không phải là thực tế thiên nhiên
có như vậy. Chính vì thế, các nhà phê bình sinh thái gọi đây là giai đoạn tụng ca
phê bình sinh thái.
1.1.1.2. Thời kỳ phát triển
Phê bình sinh thái ra đời ở Hoa Kì và bắt đầu phát triển mạnh vào những năm
90. Đặc biệt là sự ra đời của Hội nghiên cứu văn học và môi trường (The
Association for the study of study of literature and environment), gọi tắt là
ASLE được thành lập ở trường đại học Nevada Mĩ vào năm 1992. Đây là một
tổ chức học thuật phê bình sinh thái mang tính quốc tế, thường xun tổ chức

7


các cuộc thảo luận, xuất bản các tập san của hội, giới thiệu những thành quả phê

bình sinh thái mới nhất.
Năm 1993, tạp chí Nghiên cứu liên ngành văn học và môi trường
(Interdisciplinary studies in literature and environment) gọi tắt là ISLE ra đời.
Tạp chí sau đó trở thành cuốn sách học thuật có tính hạt nhân trong lĩnh vực
phê bình sinh thái, mỗi số đều có dung lượng hàng trăm trang. Cùng với sự ra
đời của ASLE, ISLE đã làm tăng tính học thuật cho các thành quả nghiên cứu
phê bình sinh thái.
Năm 1998, tại Ln Đơn, R. Kerridge và N. Sammells chủ biên tuyển tập
Viết về môi trường: Phê bình sinh thái và văn học (Writing the
environment:Ecocriticism and literature). Tác giả là những nhà phê bình sinh
thái Âu Mỹ đã giới thiệu phê bình sinh thái từ góc độ nhân văn, thể hiện nhiều
lập trường nghiên cứu của các nhà phê bình sinh thái.
Phê bình sinh thái phát triển thực sự mạnh mẽ và sâu rộng. Hàng loạt các
cơng trình nghiên cứu ra đời khiến văn học mơi trường trở thành hiện tượng văn
học mang tính tồn cầu. Đặc biệt phê bình sinh thái cịn trở thành mơn học
trong nhiều trường đại học ở Anh và Mỹ. Đại học Naveda là trung tâm giảng
dạy và nghiên cứu văn học sinh thái của toàn nước Mỹ. Ở đây tập hợp nhiều
giáo sư, nghiên cứu sinh chuyên nghiên cứu văn học sinh thái. Bên cạnh đó là
các trường đại học như Virginia, Arizona, Georgia, Oregen….đều là cơ sở quan
trọng của phê bình sinh thái.
Năm 2000, cũng là năm phát triển mạnh của phê bình sinh thái với sự
cơng bố hàng loạt cơng trình phê bình sinh thái xuất sắc như Tính đa ngành
trong nghiên cứu văn học viết về tự nhiên (Father afield in the study of nature –
oriented literature) của Patrick D. Murphy; Cuốn Chủ nghĩa môi trường trong
văn học Mỹ (American literary environmentalism) của David Mazel; Bài ca trái
đất (The song of the earth) của Jonathan Bate; Tuyển tập nghiên cứu xanh; từ
chủ nghĩa lãng mạn đến phê bình sinh thái (The green studies reader: From
romanticism to ecocriticism) của Laurence Coupe; Ý thức nơi chốn của
Thoreau: Những tiểu luận về văn học môi trường Mỹ (Thoreau’s sense of pace:
Essays in American environmental writing) của Richard J. Schneider …Với sự


8


ra đời của rất nhiều các tác phẩm phê bình sinh thái nói trên đã cho thấy tiềm
năng phát triển của lĩnh vực nghiên cứu này.
Năm 2008, Scott Slovic cho xuất bản cuốn sách Đi xa để suy nghĩ: Nhập
thế, xuất thế và trách nhiệm của phê bình sinh thái (Going away to think:
Engagement, retreat, and ecocritical responsibility). Tại đây, tác giả đã đề xuất
trách nhiệm của sinh thái chính là sự dung hợp của hai luồng tư tưởng “nhập
thế” và “xuất thế”, nghĩa là nhà phê bình sinh thái cần tham gia vào việc hưởng
thụ tự nhiên nhưng cũng nêu cao tinh thần chăm sóc và bảo vệ tự nhiên.
Năm 2009, Peter Barry cung cấp thêm một cơng trình có đề cập đến một vấn
đề lý thuyết mới của phê bình sinh thái bao gồm các vấn đề như: chủ nghĩa nhân
văn tự do, chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hậu cấu trúc… Lý thuyết nhập môn: Giới
thiệu về lý thuyết văn học và văn hóa (Beginning theory: An introduction to
literary and cultural theory). Cũng trong năm này nhiều chun luận đã đề cập đến
phê bình sinh thái đơ thị như Tự nhiên của đơ thị: Phê bình sinh thái và môi
trường đô thị (The nature of cities: Ecocriticism and urban environments)của
Michael Bennett và David W. Teague; Xem xét lại công viên đô thị: Không gian
công cộng và đa dạng văn hóa (Rethinking urban parks: Public space and cultural
diversity) của Setha Low, Dana Taplin và Suzanne Scheld.
Khởi nguồn ở Anh và Mỹ, phê bình sinh thái đã mở rộng nghiên cứu ra
tồn cầu. Nếu như phê bình sinh thái manh nha hình thành khoảng từ những
năm 70 của thế kỉ XX, phát triển mạnh khoảng từ năm 1990 đến năm 2007 thì
sang khoảng năm 2008 vẫn trên đà phát triển đó phê bình sinh thái đã có nhiều
sự chuyển hướng trong nghiên cứu, mở rộng nhiều hơn tới các vấn đề giới,
chủng tộc và giai cấp cũng như nhấn mạnh đến các góc nhìn liên văn
hóa…Điều đó càng chứng tỏ sự hứa hẹn phê bình sinh thái là một hướng nghiên
cứu phát triển và mang tính tồn cầu. Song trên hết, chúng ta phải thừa nhận ý

nghĩa đúng đắn của sứ mệnh phê bình sinh thái: “Góp phần thay đổi thái độ
nhân loại với tự nhiên”.[76]
1.1.2. Phê bình sinh thái các quốc gia ngoài phương Tây
Việc mở rộng kinh điển sinh thái để bao gồm tất cả các nền văn học trên
thế giới với sự đóng góp của các nhà phê bình tồn cầu được coi như là một cột

9


mốc gần đây nhất trong thực hành phê bình sinh thái. Mặc dù, thành viên của
Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trường (ASLE) cho đến nay phần lớn là
các học giả nổi tiếng Anh, làm việc trên các văn bản tiếng Anh nhưng cũng đã
có những nỗ lực đáng chú ý nhằm khám phá các vấn đề môi trường và hướng
đến phê bình mơi trường trong các truyền thống văn học ở Châu Á, đặc biệt là
Nhật Bản, Hàn Quốc, hay các nền văn học tiếng Hán. Nói cách khác, phê bình
sinh thái có gốc gác trong các tác phẩm lý thuyết cuối thế kỷ XX của Raymond
Williams ở Anh, Lawrence Buell ở Hoa Kỳ, Kate Rigby và những học giả khác
ở Úc nghiên cứu phê bình sinh thái cổ điển chủ yếu dựa trên văn bản tiếng Anh.
Phải đến bộ tuyển tập gần đây Phê bình sinh thái Đơng Á: Tuyển tập có phê
bình: Các nền văn học, các nền văn hóa, và mơi trường (East Asian
ecocriticisms: A critical reader (literatures, cultures, and the environment. New
York: Palgrave Macmillan, 2013) của S. Estok và W. Kim mới có chú ý tới các
tác phẩm văn học và nhà văn của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Trung
Quốc. Bên cạnh đó, cuốn Mơ hồ sinh thái: Khủng hoảng mơi trường và văn học
Đông Á (Ecoambiguity: environmental crises and East Asian literatures,
University of Michigan Press, 2012) của Karen Thornber phân tích khủng
hoảng mơi trường trong văn học Đơng Á, đặc biệt, cuốn sách tập trung phân
tích vào văn học mang tính sinh thái của tồn bộ khu vực này từ thời cổ điển
cho đến hiện tại. Bà nhấn mạnh đặc tính “nước đơi” hay là sự “nghịch lí” trong
các xã hội Đông Á, nhất là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, trong quan niệm

của họ về tự nhiên. Bà đưa ra một ví dụ về việc song hành tơn kính thiên nhiên và
việc khai thác hay bóc lột thiên nhiên trong văn hóa các nước Đơng Á. Cái nghịch lí
sinh thái đó tiếp tục thách thức các xã hội trên tồn thế giới [139]. Cuốn Phê bình
sinh thái Đơng Nam Á: Lí thuyết, thực hành và triển vọng (Southeast Asian
Ecocriticism: Theories, practices, prospects, Maryland: Lexington Books, 2018) do
John Ryan biên tập bao gồm các bài viết phân tích các tác phẩm văn học các nước
Đơng Nam Á từ góc nhìn của phê bình sinh thái.
Cịn nữa, trên thế giới đã có vơ số các cơng trình nghiên cứu tập trung khai
thác văn học của các khu vực phi phương Tây và thuộc nhiều thời kì khác nhau
từ góc độ phê bình sinh thái. Có thể kể ra đây bài viết nghiên cứu của Scott

10


Slovic, người sáng lập Hội văn học và môi trường thế giới, Phong cảnh trong
phê bình sinh thái và văn học môi trường Trung Quốc: Sự xuất hiện của một
nền văn minh sinh thái mới (Landmarks in Chinese ecocriticism and
environmental literature:the emergence of a new ecological civilization) đăng
trên tờ Khoa học xã hội Trung Quốc ngày nay (Chinese social sciences today
press) số ra ngày 31/7/2013. Bài viết tập trung phân tích các vấn đề sinh thái,
thế giới mơi trường trong truyền thống thơ Trung Quốc - từ thơ Đường cho đến
thơ hiện đại, thơ đương đại Trung Quốc. Trong bài viết, tác giả đề cập đến một
loạt các trung tâm nghiên cứu và hội thảo nghiên cứu văn học, văn hóa qua các
thời đại của Trung Hoa từ góc độ phê bình sinh thái.
Thú vị hơn là đã có nhiều cơng trình nghiên cứu các tác phẩm văn học cổ
đại của Ấn Độ, như sử thi Ramayana, từ góc độ phê bình sinh thái. Có thể kể ra
đây cuốn sách Phê bình sinh thái và sử thi Ramayana của Tulsidasa (LAP
Lambert Acad. Publ., 2011) của Pankaj Sharma, bài nghiên cứu Phê bình sinh
thái trong các truyền thống phương Tây và phương Đông (IUP Journal of
English Studies Vol. 7, No. 1, March 2012) của Mishra, Raj Kumar nghiên cứu

tác phẩm của Kalidasa và Valmiki từ lăng kính của phê bình sinh thái. Học giả
Aiyer, K. R. có một loạt bài viết nghiên cứu sử thi Mahabharata từ góc nhìn
sinh thái, đó là bài nghiên cứu Đạo trong Mahabharata như là cách phản ứng
đối với sự khủng hoảng môi trường: một dự đoán (Dharma in the Mahabharata
as a response to ecological crises: A speculation. The Trumpeter, số 9 năm
2009) và bài viết Một cái nhìn sinh thái xã hội về vài đoạn trong sử thi
Mahabharata (A social ecological perspective on some episodes from the
Mahabharata, Indian Journal of Eco-criticism 2 năm 2009).
Trong bài viết gây tiếng vang Quá trình xanh về sự phản kháng trong thơ
Ả rập: Diễn giải một số bài thơ Ả rập chọn lọc từ góc độ phê bình sinh thái
(Greening of resistance in Arabic poetry: An ecocritical interpretation of
selected Arabic poems, The Southeast Asian Journalof English Language
Studies – Vol 21(1): 13 – 22), Hamoud y’ahya Ahmed phân tích một số bài thơ
Ả rập từ lăng kính phê bình sinh thái để khám phá cách thức môi trường tự
nhiên là một lực định hình cá thể và góp phần vào sự xanh hóa phong trào phản

11


kháng thông qua các cộng đồng sinh học trong thế giới Ả rập. Tiền đề của bài
báo xuất phát từ những khẳng định của phê bình sinh thái gần đây về ranh giới
linh hoạt mềm dẻo, có thể tràn qua được, của lĩnh vực này và về khả năng ứng
dụng của nó như là một lăng kính mà qua đó chúng ta có thể đọc bất cứ văn bản
văn học nào. Bài viết tập trung vào các bài thơ Ả rập để xem xem các nhà thơ
Ả rập đã gắn bó với mơi trường tự nhiên và được thể hiện ra sao trong các bài
thơ của mình. Bài viết dựng lại việc những nhà thơ Ả rập đã nỗ lực như thế nào
để biểu hiện theo kiểu sinh thái về sự phản kháng trong thơ Ả rập. Từ đó, bài
viết kết luận về sự hiện diện sâu sắc và gắn bó của thế giới tự nhiên trong việc
miêu tả những phản kháng của con người đối với việc lấn chiếm đất đai.
Sự phát triển của phê bình sinh thái ở các nước bên ngoài phương Tây thể

hiện rõ nhất ở việc xuất hiện các hội văn học và môi trường ở các nước như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, và Trung Quốc. Các nhánh của ASLE đã được
thành lập tại Nhật Bản, Anh, Úc/New Zealand, Hàn Quốc, Ấn Độ và Đài Loan,
với các hiệp hội liên kết ở Châu Âu và Canada. ASLE đã tổ chức lần đầu tiên
hội nghị bên ngoài Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 2017 tại Victoria, British
Columbia. Điều này có nghĩa, ở bên ngồi trung tâm Anh và Mỹ đã hình thành
nhánh hay trường phái phê bình riêng của họ và được hàm ẩn ở các cụm từ,
đồng thời cũng là tiêu đề của nhiều bài báo, nhiều cơng trình sách học thuật như
“Phê bình sinh thái Nhật Bản”, “Phê bình sinh thái Trung Quốc”, “Phê bình
sinh thái Đài Loan”, v.v… (mà khơng phải là “Phê bình sinh thái ở Nhật Bản”,
“Phê bình sinh thái ở Trung Quốc” hay “Phê bình sinh thái ở Đài Loan”). Điều
đó có nghĩa, đây là những nhánh phê bình sinh thái và chúng có những đặc
trưng riêng cho từng nền văn hóa, từng nền văn học cũng là phê bình sinh thái
của riêng nền văn hóa, nền văn học đó. Cụ thể, các nhóm hay nhánh phê bình
sinh thái này dù là xuất phát từ truyền thống, niềm tin của người bản địa về mối
liên hệ giữa văn chương và thiên nhiên thì chỉ trở thành một lí thuyết phê bình
văn học khi được tiếp nhận từ Hoa Kì và Anh quốc từ những năm 1990. Và
điều này cấu tạo nên lịch sử đặc trưng của các nhánh phê bình sinh thái đó:
chúng có những giai đoạn chuyển biến, chúng gắn với nền văn học và với tình
hình chính trị, xã hội và lịch sử bản địa.

12


Nhưng, với các nhà lí thuyết phê bình sinh thái, mặc dù phê bình sinh thái
đã có những “mầm chồi” hiện đang mọc lên trên khắp hành tinh và “nhiều chồi
đã ra hoa” [106, 108] ở bên ngoài Anh - Mỹ, nhưng có một số câu hỏi cơ bản
được giải quyết, trong đó phổ biến nhất là các câu hỏi: Liệu lý thuyết và thực
hành phê bình sinh thái có được hiểu ở các nước bên ngoài Anh - Mỹ giống như
là ở Anh - Mỹ? Những khái niệm trung tâm của phê bình sinh thái như thiên

nhiên, đồng quê, hoang dã có nghĩa giống với các khái niệm đó trong phê bình
sinh thái ở Mỹ và Anh? Thách thức nào đặt ra trong việc dịch các thuật ngữ và
các khái niệm của phê bình sinh thái sang các ngơn ngữ và văn hóa khác? Việc
nghiên cứu các truyền thống văn hóa và văn học khơng phải tiếng Anh có làm
thay đổi hay có tác động gì đối với hình thức phê bình sinh thái ở Anh - Mỹ vốn
chủ yếu dựa trên nền văn hóa, văn học bằng tiếng Anh? Và liệu việc nghiên cứu
phê bình sinh thái ở các nền văn hóa, văn học khơng phải tiếng Anh có thể đem
lại một diện mạo mới cho lí thuyết phê bình thái để khơng bị trói buộc vào ngơn
ngữ tiếng Anh và mơ hình văn học và văn hóa Anh - Mỹ?[106, 108 -122].
Phần sau của chương này nói riêng và các phần tiếp theo của cả luận án
nói chung hi vọng góp phần giải đáp lại phần nào các câu hỏi trên của các nhà lí
thuyết phê bình sinh thái. Điều đó có nghĩa, việc khảo sát phê bình sinh thái ở
Việt Nam cũng như việc tiếp cận Thơ mới từ góc độ phê bình sinh thái ở đây
được đặt trong mối tương quan với các câu hỏi về sự phát triển của phê bình
sinh thái trên thế giới.
1.2. Nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam
1.2.1. Cây cối, con vật và những khủng hoảng môi trường trong nghiên
cứu văn học ở Việt Nam
Nằm trong xu hướng “trổ mầm” và “nở hoa” của phê bình sinh thái ở các
nước bên ngồi Anh - Mỹ, phê bình sinh thái cũng xuất hiện và phát triển ở
Việt Nam như là một hướng tiếp cận văn học. Người viết sẽ khảo sát các tài liệu
về phê bình sinh thái Việt Nam và những cơng trình dịch, tổng thuật, giới thiệu,
viết về lí thuyết phê bình sinh thái để xác định vị trí của phê bình sinh thái trong
nghiên cứu văn học sinh thái nói riêng và trong đời sống nghiên cứu văn học
nói chung ở nước nhà. Việc khảo sát tài liệu ở đây bao gồm việc tổng hợp, phân

13


tích, diễn giải các tài liệu thứ cấp cùng các cơng trình dịch và viết về phê bình

sinh thái ở Việt Nam. Cụ thể, các tài liệu được khảo sát là các cơng trình phân
tích văn học từ góc độ phê bình sinh thái, các tài liệu diễn giải về phê bình sinh
thái bằng tiếng Việt. Loại của tài liệu được khảo sát bao gồm sách, bài tạp chí
đăng trên báo giấy, bài tạp chí trên báo điện tử, các luận văn thạc sĩ, các luận án
hướng đến lí thuyết phê bình sinh thái hay nghiên cứu văn học Việt Nam với sự
tập trung tồn bộ hay phần nào đó vào các phương diện môi trường của các tác
phẩm. Tổng số tài liệu nghiên cứu văn học Việt Nam về phê bình sinh thái từ
góc độ lí thuyết là 27 bài (Bảng 1 đính kèm) và ứng dụng nghiên cứu phê bình
sinh thái được khảo sát bao gồm 77 tài liệu (Bảng 2 đính kèm).
Qua khảo sát hai bảng, người viết nhận ra hướng tiếp cận văn học trong
mối liên quan đến mơi trường ở Việt Nam có sự tương hợp với nội dung của
phê bình sinh thái ở giai đoạn thứ nhất, đó là sự quan tâm đến quang cảnh thiên
nhiên, đến sự đối lập giữa văn hóa (đơ thị - hiện đại hóa) với thiên nhiên (đồng
quê - hoang dã). Điều thể hiện này cũng là nguyên nhân ở sự tiếp nhận phê bình
sinh thái Việt Nam (dịch thuật, tổng thuật) chủ yếu hướng tới nội dung thiên
nhiên của phê bình sinh thái cổ điển.
Cụ thể, bảng 1 cho thấy phê bình sinh thái đã được giới thiệu (dịch thuật,
tổng thuật), phân tích (các bài viết mang tính lí luận) ở Việt Nam, dù khơng
sớm nhưng khá dồi dào và cập nhật. Cơng trình Phê bình sinh thái – cội nguồn
và sự phát triển của tác giả Đỗ Văn Hiểu năm 2012 là một bản tổng hợp dịch
thuật cơng phu từ tiếng Trung có tên Tuyển tập văn luận văn học sinh thái
Trung Quốc và thế giới của nhiều tác giả. Trong bản tổng thuật này, Đỗ Văn
Hiểu giúp cho độc giả Việt Nam hiểu thêm những định nghĩa kinh điển của
phương Tây về phê bình sinh thái, đó là định nghĩa của Cheryll Glotfelty, Karl
Kroeber, Jonathan Levin, và Donald Worster. Trên cơ sở các định nghĩa về phê
bình sinh thái của các học giả, cuốn sách có những lược thuật sự phát triển,
phân tích cội nguồn tư tưởng sâu xa của phê bình sinh thái. Quan niệm con
người sống hài hòa với tự nhiên được người dịch nhấn mạnh có gốc gác từ quan
điểm triết học cổ đại đến các các học giả của trào lưu lãng mạn Phương Tây và


14


các nhà sinh vật học, các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt tư tưởng
sinh thái phương Đông cổ đại.
Năm 2015, Đỗ Văn Hiểu tiếp tục công bố bản dịch Văn học sinh thái và lí
luận phê bình sinh thái, dịch từ cuốn Đương đại tây phương tối tân văn luận
giáo trình của Vương Nhạc Xuyên. Bản dịch đã góp phần chỉ ra nguyên nhân
xuất hiện của văn hóa sinh thái chính là do từ sự mất gốc của văn hóa hiện đại
và căn bệnh của chủ nghĩa tiêu dùng. Đồng thời chỉ ra tính thực tiễn của văn
hóa sinh thái. Thơng qua bản dịch chúng ta thấy tác giả bài viết cũng miêu tả tỉ
mỉ quỹ tích phát triển của lí luận sinh thái và chỉ ra được 6 đặc trưng cơ bản của
phê bình sinh thái và khẳng định “Tóm lại, phê bình sinh thái coi quan hệ giữa
văn học và môi trường tự nhiên là lĩnh vực nghiên cứu của mình, một mặt nó
buộc phải nghiên cứu “tính văn học”, mặc khác lại phải tiếp cận vấn đề “tính
sinh thái”[85, 6]. Trong bài viết khác như Phê bình sinh thái khuynh hướng
nghiên cứu văn học mang tính cách tân (2012), Tính “khả dụng” của phê bình
sinh thái (2016), Phê bình sinh thái ở Trung Quốc nhìn từ Việt Nam (2017), tác
giả đã làm rõ phê bình sinh thái là một hướng nghiên cứu văn học mang tính
cách tân trên nhiều phương diện, trước hết đó là sự cách tân về tư tưởng nịng
cốt. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra rằng phê bình sinh thái mang một sứ mệnh
mới là nhìn nhận lại văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán văn hóa, chỉ ra căn
nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái. Đồng thời phê bình sinh
thái cũng được xây dựng trên nguyên tắc mĩ học riêng, chủ trương của mĩ học sinh
thái là thống nhất hài hòa giữa con người và tự nhiên. Sự tập hợp này cho thấy các
cơng trình lí thuyết phê bình sinh thái ở Việt Nam đã bao phủ một cách toàn diện
và cập nhật quan điểm của học giả phương Tây về sự phát triển (liên ngành, sự
phát triển bên ngoài phương Tây, và sự mở rộng đến các vấn đề bên ngoài thiên
nhiên đến các vấn đề nữ quyền, hậu thuộc địa) của phê bình sinh thái. Đặc biệt,
qua các cơng trình nghiên cứu nêu trên, điểm chung nhất là các tác giả đều cố gắng

xác lập lý thuyết về phê bình sinh thái, bước đầu chỉ ra phương pháp nghiên cứu và
định hướng thực hành phê bình sinh thái. Đặc biệt các học giả đều nỗ lực cổ vũ
ứng dụng, nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam bởi phê bình sinh thái có
nhiều tiềm năng để khai thác hay mang tính cách tân và có tính khả dụng cao trong

15


nghiên cứu hiện nay. Có thể thấy, những cơng trình dịch thuật về phê bình sinh
thái của Đỗ Văn Hiểu là một sự “đánh động” hay là một sự mời gọi hấp dẫn đối
với tư duy về nghiên cứu văn học đã có ở Việt Nam để từ đó sẵn sàng đón nhận
một hướng tiếp cận văn học mới.
Đến cuốn Phê bình sinh thái là gì ? (2017) do Viện văn học chủ trương
xuất bản, phê bình sinh thái ở Việt Nam đã được tiếp cận với diện mạo đa dạng.
Cuốn sách mang tính biên dịch đã tập hợp các bản dịch và tổng thuật một số
cơng trình khoa học của các nhà phê bình sinh thái uy tín trên thế giới nhằm
góp phần giới thiệu phê bình sinh thái một cách có hệ thống với bạn đọc trong
nước đồng thời tổng quát và cập nhật các quan điểm phê bình sinh thái của các
nhà lí luận phê bình sinh thái phương Tây. Hầu hết các bản dịch đã tổng quan
về văn học sinh thái và phê bình sinh thái từ nguyên nhân hình thành, cội nguồn
tư tưởng và lịch sử phát triển, các bản dịch cũng góp phần giới thiệu những nhà
nghiên cứu trong và ngoài khu vực về diễn ngôn môi trường, thiên nhiên trong
văn chương Đông Á.
Qua các bản dịch và tổng thuật ở đây, có thể thấy rằng nội dung được tiếp
nhận của phê bình sinh thái ở Việt Nam chủ yếu là mối quan hệ giữa con người
và thiên nhiên. Theo đó, các vấn đề liên quan đến sự hòa hợp của thiên nhiên
được nhấn mạnh và quan tâm nhất. Phải đến cuốn sách do Viện văn học thực
hiện, những chuyển biến gần đây của phê bình sinh thái – hướng tới các vấn đề
thuộc chính trị, xã hội, lịch sử - mới được giới thiệu. Vì vậy, sự liên đới giữa
mơi trường và vấn đề giai cấp, nữ quyền, dân tộc, được quan tâm về mặt lí

thuyết. Và điều này hứa hẹn một xu hướng áp dụng và phát triển phê bình sinh
thái mới ở Việt Nam.
Về sự tiếp cận văn học Việt Nam từ góc độ phê bình sinh thái, bảng 2 cho
thấy thiên nhiên là một phương diện quan trọng trong tiểu thuyết, truyện ngắn
và thơ ca Việt Nam, bao gồm cả văn học dân gian, văn học trung đại, văn học
hiện đại và đương đại. Tức là văn học giờ đây được các nhà nghiên cứu Việt
Nam, với góc nhìn của phê bình sinh thái cổ điển, nhìn nhận trong sự liên hệ
với cây cối, chim muông, hoa lá. Điều này có thể thấy rõ qua cuốn kỉ yếu Hội
thảo quốc tế Phê bình sinh thái: tiếng nói bản địa, tiếng nói tồn cầu (NXB

16


Văn học, 2017). Đây là một hội thảo tầm cỡ chuyên sâu về phê bình sinh thái
thu hút nhiều học giả trong và ngoài nước tham gia. Với gần 90 bài tham luận
được in trong kỷ yếu hội thảo đã cho thấy sự quan tâm mạnh mẽ của giới
nghiên cứu về phê bình sinh thái. Qua khảo sát, có thể nhận ra các bài viết tập
trung đọc những phương diện của sinh thái môi trường trong đa dạng các thể
loại văn học (thơ, kịch, văn xi), các loại hình nghệ thuật (văn học, điện ảnh,
âm nhạc), ở nhiều thời kì (dân gian, trung đại, hiện đại và đương đại). Đối
tượng khảo sát là văn học Việt Nam, khám phá phương diện sinh thái, môi
trường trong văn học dân gian như Biểu tượng lúa trong thần thoại và nghi lễ các
dân tộc thiểu số Việt Nam (Tiếp cận từ góc độ sinh thái học nhân văn) của Nguyễn
Huy Bỉnh...; trong văn học trung đại Sáng tác của Trần Nhân Tông dưới góc nhìn
phê bình sinh thái của Trần Thị Nhung...; trong văn học hiện đại như Mối quan hệ
giữa con người với môi trường sinh thái trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 1945 của Trần Mạnh Tiến...,văn học đương đại Người nông dân trong văn xuôi
Việt Nam đương đại từ góc nhìn phê bình sinh thái của Trần Thị Ánh Nguyệt...
Các học giả Việt Nam cũng tiếp cận văn học nước ngồi từ góc nhìn phê bình sinh
thái. Đó là Phạm Phương Chi với bài Phê bình sinh thái như là một nội dung của
phê bình hậu thuộc địa – Đọc tiểu thuyết Thủy triều đói (the Hungry Tide, 2005

của Amitav Ghosh; Vua gấu xám của James Oliver Curwood và vấn đề giáo dục ý
thức sinh thái cho trẻ em của Lê Trà My...
Phân tích sâu hơn vào bảng 2 cho thấy, các cơng trình lấy đối tượng là văn
học dân gian, văn học trung đại và văn học hiện đại làm chất liệu nghiên cứu thì
hướng tiếp cận chủ yếu theo phê bình sinh thái ở làn sóng thứ nhất. Đó là những
khám phá về sự hịa hợp và sự tôn trọng giữa con người và tự nhiên. Cụ thể, đó
là các cơng trình khám phá câu chuyện bọc trăm trứng, biểu tượng lúa trong
thần thoại, cảnh sinh hoạt trong sử thi từ góc độ sinh thái, motif hơn nhân
người - vật trong truyện cổ tích (Đinh Hồng Hà, Nguyễn Huy Bỉnh, Lê Ngọc
Bính, Dương Nguyệt Vân) để tìm hiểu mối quan hệ “vạn vật hữu linh” như là
một tiền đề của cảm quan sinh thái trong đời sống dân gian Việt Nam. Ngay cả
các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Trần Nhân Tông, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Du
cũng được các học giả Việt Nam như Hoàng Trọng Quyền, Trần Thị Thanh

17


Nhị, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thanh Tú, Đoàn Thu Vân, Trần Thị
Nhung đọc như là những văn học thiên nhiên (nature writing) với hệ sinh thái
bao gồm các lớp động vật, thực vật đặc trưng và những hàm ẩn về sự chan hịa
và trân trọng thiên nhiên.
Sự phân tích sâu hơn của các cơng trình nghiên cứu, phê bình văn học Việt
Nam với sự tập trung vào vấn đề mơi trường (như tóm tắt trong bảng 2) cho
thấy thiên nhiên là một lĩnh vực được quan tâm chú ý trong các sách học thuật,
các luận văn và các bài tạp chí. Với cụm từ “từ góc nhìn phê bình sinh thái”
xuất hiện trong hầu hết tiêu đề của các cơng trình nghiên cứu đã cho thấy thiên
nhiên trong các tác phẩm văn học Việt Nam được nhìn nhận trong một lăng
kính khác, khơng cịn là đối tượng để khai thác, hay như là một nguồn tài
nguyên, như là một cái phông nền để con người thể hiện sức mạnh chinh phục.
Thay vào đó, với cơng cụ là lí thuyết phê bình sinh thái, các tác giả Việt Nam

dường như đã đặt câu hỏi: có hay khơng cây cối, con vật hay thiên nhiên nói
chung trong tác phẩm văn học được khai thác và vai trò trung tâm của các yếu
tố thiên nhiên ấy trong những tác phẩm văn học.
Nói đúng hơn, trong các cơng trình nghiên cứu của mình, các học giả Việt
Nam đã đặt thiên nhiên là nhân vật trung tâm, là chìa khóa để nhìn nhận các
mối quan hệ chủ đề khác của tác phẩm. Ví dụ, cơng trình luận án tiến sĩ Con
người và tự nhiên trong văn xi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình
sinh thái (2015) của Trần Thị Ánh Nguyệt chứng minh sau năm 1975, đặc biệt
là sau năm 1986 có một khuynh hướng văn xi sinh thái ở Việt Nam. Tác giả
chỉ ra những đặc điểm của văn xuôi sinh thái như là một xu hướng văn học có
tầm quan trọng xã hội thẩm mĩ và chứa đựng những nhân tố cách tân nghệ
thuật. Tác giả khảo sát hai bình diện của khuynh hướng văn xi sinh thái cho
văn chương đương đại, đó là cảm hứng phê phán trên tinh thần sinh thái và xác
lập đạo đức sinh thái. Bài viết Tư tưởng sinh thái trong truyện ngắn của Trần
Duy Phiên của Nguyễn Thị Tịnh Thy trên Tạp chí Sơng Hương, số 317, tháng
07 năm 2015 phân tích cuộc đối đầu giữa con người và côn trùng (kiến, mối,
nhện); trong cuộc chiến đó, như tác giả diễn giả, con người tự mãn sẽ thuần
hóa, trừng trị những cơn trùng nhỏ bé; ngược lại, con người lại thất bại thảm

18


hại, từ đó đặt ra vấn đề giải cấu trúc nhân loại trung tâm. Bài viết Bước đầu tìm
hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ điểm nhìn phê bình sinh thái (2016)
đăng trên Vietvan.vn của Đại học Văn hóa Hà Nội, đã chỉ ra sự thất bại của con
người trước tự nhiên, mặc dù con người luôn khát khao chinh phục. Hay bài
viết Sinh thái môi trường trong văn xuôi Đồn Giỏi trên Tạp chí khoa học Đại
học Văn Hiến, tập 5, số 1 năm 2017 của Nguyễn Thị Quế Vân và Lâm Hoàng
Phúc khảo sát con người và tự nhiên trong các tác phẩm Những chuyện lạ về cá,
Rừng đêm xào xạc; Đất rừng phương nam của Đoàn Giỏi. Nghiên cứu chỉ ra

thơng điệp trong văn chương Đồn Giỏi là sự thay đổi trong nhận thức về mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên, từ quan niệm “nhân loại trung tâm luận”
sang xác lập quan niệm “tự nhiên trung tâm luận”. Trần Văn Tồn đã phân tích
truyện ngắn Một lần đối chứng, Phiên chợ Giát, Sống mãi với cây xanh của
Nguyễn Minh Châu và truyện Muối của rừng của Nguyễn Huy Thiệp để khẳng
định luận điểm giải nhị phân người/tự nhiên đã khiến con – người trở thành đối
tượng của sự miêu tả trong văn học. Như vậy nhân tính đã được kiến tạo từ
điểm nhìn của tự nhiên và như thế con người hồn tồn có thể lắng nghe, thấu
cảm sự lên tiếng của tự nhiên Giải nhị phân người/tự nhiên và diễn ngơn mới về
nhân tính (“Đọc những truyện ngắn về tự nhiên của Nguyễn Minh Châu và
Nguyễn Huy Thiệp”), Phê bình sinh thái – tiếng nói bản địa, tiếng nói tồn cầu
(Nhà xuất bản Văn học, 2017)).
Có thể nói, với lăng kính của phê bình sinh thái, các học giả nước nhà đã
khám phá vị trí làm chủ thể của thiên nhiên trong mối quan hệ với con người trong
văn học Việt Nam. Đây là một hướng đi mới trong phê bình, nghiên cứu văn học
trên một đối tượng vốn thường được nhìn nhận như là một cấu trúc ngôn từ, nơi
khám phá thế giới con người với tất cả những phức tạp, tinh vi của nó.
Nhấn mạnh vị trí trung tâm của thiên nhiên, mơi trường sinh thái trong các
cơng trình nghiên cứu cho thấy sự lan tỏa của cái nhìn phê bình sinh thái trong
đời sống văn chương ở Việt Nam. Một điểm nổi bật khác có thể nhận ra trong
việc nghiên cứu văn học, cụ thể hơn, từ góc độ phê bình sinh thái ở Việt Nam là
sự đối lập giữa con người và thiên nhiên – một luận điểm trung tâm của phê
bình sinh thái ở làn sóng đầu. Có thể kể đến Nguyễn Đăng Điệp với bài viết

19


Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa in trong cuốn Thơ Việt Nam hiện đại
tiến trình và hiện tượng, (NXB Văn học, Hà Nội, 2014, tr 31- 46): tác giả tìm
hiểu tấm mạng sinh thái: bức tranh phong cảnh thiên nhiên với tư cách Mẹ và

vẻ đẹp thanh tân; bức tranh làng quê; nơi chốn (bầu trời, mặt đất, con đường,
dịng sơng, ánh trời chiều, ánh trăng thanh); vườn (đặc trưng vẻ đẹp vùng miền,
là chốn cư ngụ, là không gian tinh thần). Trần Thị Ánh Nguyệt trong bài: Thiên
nhiên – nguồn cảm hứng bất tận của văn chương Phương Đơng in trên (Tạp chí
khoa học ĐHSP TPHCM, số 60 - 2014) khám phá thiên nhiên trong thơ ca
Phương Đông (cỏ cây, hoa lá, động vật...), ở đó con người và thiên nhiên sống hài
hịa, giao cảm. Nhã Thuyên với bài viết Khí quyển thơ – sinh thái của Mai Văn
Phấn: Thơ, bầu trời và những linh hồn (Toquoc.vn, 2/12/2018) tìm hiểu hệ sinh thái
trong thơ Mai Văn Phấn: bầu trời, linh hồn...; sự hài hòa giữa con người và tự nhiên
bao bọc xung quanh cuộc sống. Tác giả Trần Mạnh Tiến với bài viết Mối quan hệ
giữa con người với môi trường sinh thái trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945 in trong Phê bình sinh thái – tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu (Nhà xuất
bản Văn học, 2017) khám phá thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sự sống, tràn đầy mĩ
cảm trong văn xi hiện đại Việt Nam: đó là thiên nhiên nhiều màu sắc (bờ cỏ xanh
non, cánh rừng nhấp nhô, hoa trái rực rỡ, nắng vàng lấp lánh...); đủ các âm thanh
(chim kêu ríu rít: chim gõ kiến, chim gầm nhì; chim họa mi; chim cu, chim bạc má,
sáo, yểng, vẹt, tiếng côn trùng rủ rỉ...). Tác giả đặc biệt đi sâu khai thác hình ảnh
thiên nhiên hoang sơ, huyền ảo (núi rừng, hang động, sông suối, cây cỏ, hoa lá, chim
mng, khí hậu, thời tiết...) đó là những vận động không ngừng của sự sống trong
Truyện đường rừng.
Cũng trong cuốn Phê bình sinh thái – tiếng nói bản địa, tiếng nói tồn
cầu, tác giả Hồ Thế Hà bài viết Những tiêu điểm thẩm mỹ thơ Trịnh Cơng Lộc
nhìn từ quan hệ sinh thái , tác giả Văn Giá Thơ của niềm “trinh tĩnh” đầu
nguồn, tác giả Phạm Phương Mai Cảm quan sinh thái trong ca từ Trịnh Công
Sơn, tác giả Nguyễn Thị Hải Phương, Nguyễn Thị Linh Chi Sự thức tỉnh ý thức
sinh thái trong sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần... đều tập trung
khai thác xu hướng tiếp cận giải lịch sử (dehistoricized approach) đối với "thiên
nhiên", họ bỏ qua các phương diện chính trị và lí thuyết để hướng tới một cách

20



tiếp cận đầy hân hoan với văn học viết về cái hoang dã và về thiên nhiên. Hồ
Thế Hà phân tích hình ảnh thiên nhiên (đại ngàn, biển, than, đá và nước, rừng
đảo, ..) mang bức thơng điệp về tình yêu quê hương, đất nước trong thơ Trịnh
Công Lộc. Trong khi đó, Văn Giá khám phá hình ảnh làng q (vườn chè, vạt
mía, bờ vườn, rừng trăng, cánh đồng, bó lạt, lưỡi hái, cánh đồng, dịng sơng,
đống dấm, ...); ( rau dền gai, rau sam tím, sên đen, đom đóm ma, con trâu, con
cua càng, con dế mèn..) thiên nhiên như một sinh quyển – thi quyển với số
lượng lớn, phổ khắp tràn đầy trong thơ Trần Hùng. Còn Nguyễn Thị Hải
Phương và Nguyễn Thị Linh Chi phân tích các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Thuần, nhận ra thế giới thiên nhiên như khu vườn, lồi hoa cánh đồng, khu
rừng, dịng sông; con dế, con thằn lằn, con gà, con nhện...hiện lên trong truyện
Nguyễn Ngọc Thuần viết cho thiếu nhi; các tác giả tập trung vào cách nhà văn
tạo dựng thế giới trong lành, tươi mát, đầy sức sống; thiên nhiên là bạn với trẻ
thơ, trẻ nâng niu, bảo vệ tự nhiên. Và Phạm Mai Phương phân tích lời bài hát
của Trịnh Cơng Sơn, từ đó nhận ra một thế giới quan mà ở đó các hiện tượng
thiên nhiên như giọt sương, giọt mưa, nụ hoa đều có linh hồn và con người
muốn trở về với tự nhiên, với nguồn cội thuần khiết.
Có thể thấy rõ các học giả Việt Nam khám phá văn học Việt Nam từ góc
nhìn phê bình sinh thái ở làn sóng đầu tiên, đó là cái nhìn có nguồn gốc sâu xa
từ sinh thái bề sâu (deep ecology), nó gắn liền với sự bảo vệ và bảo tồn thiên
nhiên. Các tác giả đề cao sự ổn định tĩnh tại của thiên nhiên và mối quan hệ
biện chứng của nó với con người; họ nhận ra và đề cao khái niệm mang tính
phổ qt tồn vũ trụ về thiên nhiên và tập trung vào các văn bản viết về thiên
nhiên, cây cối một cách hiển lộ.
1.2.2. Văn học và cơng lí mơi trường trong nghiên cứu phê bình sinh thái ở
Việt Nam
Phần này của chương sẽ nói về sự hiện diện của phê bình sinh thái trong
đời sống nghiên cứu văn học ở Việt Nam như là một biểu hiện của phê bình

sinh thái ở làn sóng thứ hai. Phê bình sinh thái tiếp tục ở làn sóng thứ hai có
một đặc trưng là rời xa châu Âu trung tâm luận, hướng tới khám phá văn bản
thuộc thế giới bên ngồi châu Âu; phê bình sinh thái trở thành một hướng tiếp

21


×