Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 – 2014 từ góc nhìn phê bình sinh thái (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.38 KB, 168 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THÙY TRANG

TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 – 2014
TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số

: 62 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS.TS ĐỖ LAI THÚY
2. TS. TÔN THẤT DỤNG

HUẾ - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan luận án này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các kết quả nghiên cứu,
đoạn trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận án đều đƣợc dẫn nguồn và có độ chính
xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.
TP. Huế, tháng 8 năm 2018
Ngƣời viết cam đoan

Nguyễn Thùy Trang



Lời Cảm Ơn
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS Đỗ Lai Thúy và
TS. Tôn Thất Dụng, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên, khích lệ tôi

trong suốt quá trình thực hiện luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Khoa Ngữ Văn và Phòng Đào tạo Sau Đại
học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện
thuận lợi trong suốt quá trình tôi theo học Nghiên cứu sinh, khóa 2014-2017.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư
phạm Huế, Ban Chủ nhiệm và các đồng nghiệp Khoa Ngữ Văn đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã khích lệ, ủng hộ tôi trong
suốt thời gian thực hiện luận án.
TP. Huế, tháng 8 năm 2018
Tác giả

Nguyễn Thùy Trang


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................1
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................2
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu ...........................................................................................2
2.2. Phạm vi nghiên cứu ..............................................................................................2
3. Cơ sở lí thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu ...........................................................2
3.1. Cơ sở lí thuyết.......................................................................................................2
3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................................3

4. Đóng góp của luận án...............................................................................................4
5. Kết cấu luận án ........................................................................................................4
NỘI DUNG ................................................................................................................5
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...................................5
1.1. Nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái ................................................................5
1.1.1. Nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái trên thế giới ........................................5
1.1.2. Nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái ở Việt Nam ......................................15
1.2. Nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 nhìn từ lí thuyết phê bình sinh thái .23
1.2.1. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 – quá trình đổi mới và tiến dần đến văn học
sinh thái .....................................................................................................................23
1.2.2. Phê bình sinh thái – một lối tiếp cận mới vào tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 ....27
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và hƣớng triển khai đề tài .................................29
1.3.1. Về tình hình nghiên cứu ..................................................................................29
1.3.2. Hƣớng triển khai đề tài....................................................................................30
CHƢƠNG 2. MỘT CÁI NHÌN HẬU/ GIẢI CẤU TRÚC VỀ PHÊ BÌNH SINH
THÁI TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 – 2014 ...........32
2.1. Phê bình sinh thái và đặc tính hậu/ giải cấu trúc ................................................32
2.1.1. Về khái niệm và cội nguồn của phê bình sinh thái .........................................32
2.1.2. Đặc tính hậu/ giải cấu trúc của phê bình sinh thái ..........................................38
2.2. Những phƣơng diện hậu/ giải cấu trúc của phê bình sinh thái trong tiểu thuyết Việt
Nam sau 1986 ............................................................................................................42


2.2.1. Phi trung tâm – dạng thức tồn tại của văn hóa hậu hiện đại ...............................42
2.2.2. Cái chết của chủ thể - tính liên chủ thể ...........................................................47
2.2.3. Tính đối thoại – phƣơng thức kết nối với thế giới tự nhiên ............................53
CHƢƠNG 3. ĐỊNH GIÁ CHUẨN TẮC ĐẠO ĐỨC SINH THÁI TỪ HỆ
THỐNG NHÂN VẬT ..............................................................................................60
3.1. Kiểu nhân vật xâm phạm tự nhiên – khát vọng bành trƣớng .............................60
3.1.1. Tƣ tƣởng nhân loại trung tâm và sai lạc hành vi.......................................................... 61

3.1.2. Sự mơ hồ sinh thái – những ngộ nhận trong quy luật sinh tồn .......................67
3.2. Kiểu nhân vật nạn nhân sinh thái – hậu quả của văn minh ................................74
3.2.1. Nông dân, ngƣời nghèo và dấu ấn của sinh thái giai cấp ................................75
3.2.2. Thị dân, trí thức và làn sóng sinh thái đô thị...................................................81
3.2.3. Nữ giới và những thấu chạm sinh thái nữ quyền ............................................86
3.3. Kiểu nhân vật thức tỉnh – ý niệm về sự hợp nhất ..............................................91
3.3.1. Sám hối, trăn trở – niềm kính sợ sinh mệnh ...................................................91
3.3.2. Bảo vệ tự nhiên – nỗ lực tái thiết Trái đất.......................................................95
3.3.3. Hƣớng đến lối sống điền viên – cuộc hành hƣơng về với tự nhiên ..............100
CHƢƠNG 4. PHỤC HƢNG TINH THẦN SINH THÁI TỪQUYỀN LỰC VĂN
HÓA ........................................................................................................................105
4.1. Quyền lực của diễn ngôn – những khai mở nhãn quan văn minhđƣơng đại ...107
4.1.1. Định hình diễn ngôn lãng mạn tự nhiên trong tầm nhận thức mới .......................... 108
4.1.2. Kiến tạo diễn ngôn sinh thái hiện đại – tƣởng tƣợng khác về môi trƣờng............... 117
4.2. Quyền lực liên văn bản – tạo liên kết với tổng thể sống linh thiêng trong vũ trụ .124
4.2.1. Sự biện chứng giữa văn chƣơng và thực tế ...................................................124
4.2.2. Những huyền tích, tập tục nhƣ cách thức điều chỉnh tƣ duy về Trái đất ................. 131
KẾT LUẬN ............................................................................................................141
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................145
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................146
PHẦN PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bƣớc sang thế kỉ XXI, khi khoa học kĩ thuật – công nghệ và văn minh nhân loại
đã đạt những thành tựu vƣợt bậc, và khi con ngƣời trở thành “bá chủ” trong hành tinh
Trái đất, thì cũng chính là lúc nhân loại phải đối mặt với một vấn nạn bức thiết: sự hủy
hoại môi trƣờng sinh thái ngày càng tàn khốc. Cái giá mà nhân loại phải trả cho những

phƣơng tiện máy móc tân tiến, thiết bị điện tử thông minh, từng tòa cao ốc chọc trời,
các nhà máy có quy mô đồ sộ… là sự biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trƣờng sống, cạn
kiệt nguồn nƣớc, thiên tai khó lƣờng, rừng biến mất, dịch bệnh tràn lan… Đó là những
hệ lụy đau lòng, khiến con ngƣời phải nhìn nhận lại hành động và trách nhiệm của
chính mình đối với hệ sinh thái trong bối cảnh hiện nay. Khi Trái đất đang bị đe dọa
nghiêm trọng, không thể nói rằng văn học hoàn toàn vô cảm trong sự phá hủy ấy.
Ra đời từ những năm 70 của thế kỉ XX, phê bình sinh thái là kết quả của chuỗi
“phản ứng muộn màng” (so với các ngành khoa học xã hội – nhân văn khác) đối với nguy
cơ sinh thái. Mãi đến những năm 90, phê bình sinh thái mới thực sự phát triển sâu rộng,
sôi nổi khi các hoạt động văn học gắn kết với môi trƣờng liên tục diễn ra: Hội thảo “Phê
bình sinh thái: làm xanh lại nghiên cứu văn học” (1991), thành lập “Hội nghiên cứu văn
học và môi trƣờng” (1992), xuất bản công trình Nghiên cứu liên ngành về văn học và môi
trường (1993), ấn phẩm kỉ niệm hai mƣơi năm thành lập Hội nghiên cứu Văn học và Môi
trƣờng – Sổ tay Oxford Phê bình sinh thái (2013)… Những hoạt động trên đã khiến phê
bình sinh thái trở thành một phong trào có tiếng vang trong giới học thuật.
Giáo sƣ Laurence Buell nhận định: “Văn học sinh thái là văn học viết về nguy cơ
của thế giới”. Ở Việt Nam, có thể thấy rõ dấu ấn của văn chƣơng sinh thái qua những tiểu
thuyết tiêu biểu nhƣ: Trăm năm còn lại (Trần Duy Phiên), Thập giá giữa rừng sâu
(Nguyễn Khắc Phê), Chó Bi, đời lưu lạc (Ma Văn Kháng), Họ vẫn chưa về (Nguyễn Thế
Hùng), Sông (Nguyễn Ngọc Tƣ), Gần như là sống, Ruồi là ruồi (Đỗ Phấn), Săn cá thần
(Đặng Thiều Quang), Dòng sông chết (Thiên Sơn), Nhắm mắt nhìn trời (Nguyễn Xuân
Thủy), Thân xác (A Sáng), Thiên đường ảo vọng (Nguyễn Trí), Chúa đất (Đỗ Bích
Thúy), Vết thương hoa hồng (Nguyễn Văn Học), Con chim joong bay từ A đến Z (Đỗ
Tiến Thụy)… Với số lƣợng tác phẩm đáng kể, các nhà văn Việt Nam đã thể hiện đƣợc sự
nhạy bén của mình trong việc tri nhận những vấn đề thời sự mang tính nhân loại.

1


Hƣớng đến môi trƣờng, phải chăng văn học đang hƣớng đến sự sống còn của toàn

nhân loại? Đó cũng chính là sứ mệnh của văn học sinh thái. Vì lẽ đó, chúng tôi lựa chọn
đề tài: Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 – 2014 từ góc nhìn phê bình sinh thái. Hƣớng
nghiên cứu này sẽ góp phần khỏa lấp mảng trống của phê bình sinh thái trong văn học
Việt Nam; đồng thời thúc đẩy các nhà văn chú ý nhiều hơn đến đề tài môi trƣờng và mối
quan hệ giữa văn học với môi trƣờng, trách nhiệm của nhà văn với giới tự nhiên và sự an
nguy, tồn vong của dân tộc, nhân loại; thể hiện sự gắn kết giữa khoa học với thực tiễn,
đƣa văn học Việt Nam hội nhập và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn sau 1986.
Đặc biệt luận án khảo sát những tiểu thuyết của một số tác giả mà cảm thức sinh thái
hiện lên khá rõ nét, tiêu biểu nhƣ: Đỗ Phấn (Gần như là sống; Ruồi là ruồi, Rụng xuống
ngày hư ảo), Nguyễn Khắc Phê (Thập giá giữa rừng sâu); Trần Duy Phiên (Trăm năm
còn lại); Nguyễn Ngọc Tƣ (Sông); Đỗ Bích Thúy (Bóng của cây sồi, Chúa đất), Ma Văn
Kháng (Chó Bi, đời lưu lạc), Nguyễn Thế Hùng (Họ vẫn chưa về), Đặng Thiều Quang
(Săn cá thần), Bùi Ngọc Tấn (Biển và chim bói cá), Nguyễn Xuân Thủy (Nhắm mắt
nhìn trời), A Sáng (Thân xác), Đỗ Tiến Thụy (Con chim joong bay từ A đến Z)… Danh
mục cụ thể các tác phẩm khảo sát trong luận án chúng tôi sẽ đƣa vào phần Phụ lục 1.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Dù luận án có tên: Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 – 2014 từ góc nhìn phê
bình sinh thái, nhƣng mốc giai đoạn 1986 – 2014 chỉ mang tính chất đánh dấubƣớc khởi
đầu một thời kì văn học sau Đổi mới cho đến năm 2014 – là thời điểm chúng tôi tiếp nhận
đề tài nghiên cứu. Về cơ bản, những vấn đề sinh thái trong tiểu thuyết Việt Nam thể hiện
rõ nét vào những năm đầu thế kỉ XXI cho đến tận bây giờ. Vì thế, chúng tôi cũng khảo sát
thêm cả những tiểu thuyết sau năm 2014 (cụ thể là 2015, 2016, 2017).
Luận án tập trung nghiên cứu những yếu tố thể hiện dấu ấn sinh thái trong tiểu
thuyết Việt Nam giai đoạn sau 1986 đến nay trên các phƣơng diện cơ bản sau: hệ sinh
thái, hình tƣợng con ngƣời và các hình thức nghệ thuật thể hiện góc nhìn sinh thái.
3. Cơ sở lí thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lí thuyết

Để nghiên cứu đề tài Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 – 2014 từ góc nhìn
phê bình sinh thái, chúng tôi hệ thống hóa lí thuyết phê bình sinh thái trong văn học đã
đƣợc các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc công bố trên các chuyên luận, các tạp
2


chí có uy tín. Bên cạnh đó, chúng tôi xem xét những sáng tác thuộc thể loại tiểu thuyết
giai đoạn Đổi mới đến nay nằm trong sự vận động, giao lƣu giữa văn học đƣơng đại
với các nền văn học khác trên thế giới. Đặc biệt, chúng tôi chú ý dấu ấn và ảnh hƣởng
của lí thuyết phê bình sinh thái trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này, những yếu tố
đậm nhạt thể hiện góc nhìn sinh thái ở những tác giả, tác phẩm cụ thể, riêng lẻ.
Từ đó, chúng tôi tổng hợp, đánh giá khách quan những vấn đề chung liên quan
đến lí thuyết phê bình sinh thái trong tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại. Đồng thời, trong
quá trình thực hiện đề tài chúng tôi chú trọng đến những đặc điểm nổi bật nhất của một
số cây bút tiểu thuyết đƣơng đại trong sự giao thoa với những đặc trƣng cơ bản của
văn học hậu hiện đại.
3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Đây là phƣơng pháp giúp chúng tôi định hình,
đặt các yếu tố tƣơng quan, có những dấu hiệu lặp lại và đồng đẳng với nhau trong một chỉnh
thể thống nhất, nhằm minh giải cho các phƣơng diện của luận án. Cụ thể, chúng tôi sẽ luận
giải khuynh hƣớng phát triển của tiểu thuyết Việt Nam từ sau Đổi mới trong sự liên hệ
đa chiều với các đặc trƣng của phê bình sinh thái. Đồng thời, khi phân tích tác phẩm và
những biểu hiện của thi pháp sinh thái, ngƣời viết không xem xét vấn đề theo hƣớng cô lập
mà đặt trong hệ thống để xác định các sắc độ tiếp biến nghệ thuật sinh thái ở mỗi nhà văn.
- Phương pháp liên ngành: Mối quan hệ giữa phê bình sinh thái và văn học là lĩnh
vực thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa văn hóa, tự nhiên, sinh học, dân tộc học, chính
trị… Vì thế, khi nghiên cứu một hiện tƣợng văn học từ góc nhìn phê bình sinh thái, các
nhà nghiên cứu thƣờng sử dụng phƣơng pháp liên ngành để phân tích tác phẩm văn
chƣơng, từ đó rút ra những cảnh báo về môi trƣờng.
- Phương pháp so sánh: Bằng cách đối chiếu với văn học nhiều nƣớc khác,

ngƣời nghiên cứu có thể khẳng định vai trò quan trọng của lí thuyết phê bình sinh thái
trong việc thay đổi nhận thức, thái độ của nhà văn, độc giả, cũng nhƣ cộng đồng trên
thế giới về mối quan hệ giữa con ngƣời và tự nhiên trong thế bình đẳng, tƣơng trợ,
giao hòa. Phƣơng pháp này còn giúp tiến hành nghiên cứu văn chƣơng đƣợc toàn diện
hơn khi liên hệ với các lĩnh vực khác liên quan đến bảo vệ môi trƣờng, bảo vệ Trái đất,
nhƣ sinh học, địa lí, vật lí…

3


4. Đóng góp của luận án
Thứ nhất, từ sau năm 1986 đến nay, văn học Việt Nam đã hòa mình trong xu
thế toàn cầu hóa, không ngừng giao lƣu, tiếp nhận những lí thuyết phê bình mới mẻ,
nhân văn và ứng dụng tinh chọn, hiệu quả nhƣ: thi pháp học, tự sự học, phân tâm học,
hậu hiện đại, hậu thực dân, nữ quyền luận… Tuy nhiên, phê bình sinh thái vẫn còn là
mảng đề tài, sáng tác, phê bình ít đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm. Cho nên, triển
khai đề tài “Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 – 2014 từ góc nhìn phê bình sinh
thái” sẽ đƣa ra những minh chứng về mối liên hệ mật thiết giữa văn học với môi
trƣờng sinh thái, và vai trò quan trọng của văn chƣơng đối với sự thức tỉnh của con
ngƣời trong việc tàn phá, xâm lấn môi sinh.
Thứ hai, vận dụng lí thuyết phê bình sinh thái, chúng tôi minh giải những đặc trƣng
tiêu biểu của tiểu thuyết Việt Nam từ sau Đổi mới đến nay qua những vấn đề căn bản:
- Tiểu thuyết Việt Nam đang bƣớc vào quỹ đạo mới của kỉ nguyên hậu hiện đại
qua những phân nhánh nhƣ phê bình sinh thái. Điều này thể hiện rõ ở tính chất giải cấu
trúc phê bình sinh thái trong tiểu thuyết.
- Quá trình tái thiết quan niệm mới về tự nhiên thông qua sự lật đổ quan niệm “nhân
loại trung tâm”. Trên cơ sở này, xác lập hệ chuẩn tắc đạo đức sinh thái của con ngƣời.
- Gợi mở vấn đề sinh thái tinh thần nhƣ một hành trình phục hƣng lại giá trị cao
đẹp của văn hóa nhân loại trong tâm thức và lối hành xử với tự nhiên.
- Khẳng định văn học cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự sinh tồn và phát

triển của nhân loại.
5. Kết cấu luận án
Luận án gồm những phần chính: mở đầu, nội dung, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục. Trong đó, phần nội dung là trọng tâm, đƣợc triển khai thành 4 chƣơng:
-

Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu

-

Chƣơng 2: Một cái nhìn hậu/ giải cấu trúc về phê bình sinh thái trong tiểu
thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 - 2014

-

Chƣơng 3: Định giá chuẩn tắc đạo đức sinh thái từ hệ thống nhân vật

-

Chƣơng 4: Phục hƣng tinh thần sinh thái từ quyền lực văn hóa

4


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn sau 1986 nhìn từ lí thuyết phê bình
sinh thái là một hƣớng triển khai mang lại nhiều kiến giải mới, đồng thời cũng rất thiết
thực và quan trọng. Nó cho thấy, các nhà văn, nhà phê bình đã bắt đầu nắm bắt đƣợc
xu hƣớng của thời đại trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi vấn đề môi trƣờng và nguy cơ

sinh thái đang ở mức báo động, đe dọa sự sống còn của Trái đất. Vì vậy, tìm hiểu tổng
quan tình hình nghiên cứu của đề tài phải xem xét từ bình diện khái quát đến cụ thể.
Về cơ bản, những thành tựu trong nghiên cứu phê bình sinh thái trên thế giới nói
chung, ở Việt Nam nói riêng đƣợc khởi thành, đóng góp từ những công trình, những
bài nghiên cứu đáng chú ý sau:
1.1. Nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái
1.1.1. Nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái trên thế giới
Từ khi ra đời đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu – phê bình có liên
quan luận bàn về lí thuyết và ứng dụng phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học/
văn hóa. Do khuôn khổ của luận án và khả năng tƣ liệu, chúng tôi chỉ quan tâm đến
những nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái trên mảng tƣ liệu tiếng Anh. Hơn nữa,
nhìn nhận quá trình hoạt động và phát triển của phê bình sinh thái, chúng tôi xin chia
thành ba chặng đƣờng nghiên cứu cơ bản sau:
1.1.1.1. Chặng một từ 1972 đến 1991: Thời kì manh nha
Đến nay, nhiều nhà nghiên cứu đều thừa nhận, phê bình sinh thái chính thức bắt
nguồn từ Mĩ, cụ thể vào năm 1972, cuốn sách Hài kịch của sinh tồn: nghiên cứu sinh thái
học văn học (The Comedy of Survival: Studies in Literary Ecology) của W. Meeker xuất
bản, ông đã chú ý đến vấn đề sinh thái trong văn học. Bằng việc phân tích một số sáng tác
của Dante Alighieri, William Shakespeare, cùng một số nhà văn đƣơng đại, Meeker nhận
thấy văn học nhƣ là một sự mô phỏng, bắt chƣớc những phạm trù căn bản của cuộc sống
con ngƣời. Hơn nữa, soi chiếu kịch Hi Lạp cổ đại, kịch của William Shakespeare, Meeker
còn tìm thấy những điểm khác biệt đáng kể giữa hài kịch và bi kịch liên quan đến cái nhìn
về tự nhiên: bi kịch hầu nhƣ chỉ là sự sáng tạo của nền văn minh phƣơng Tây, phát sinh từ
những huyền thoại anh hùng, ca ngợi sự vĩ đại của con ngƣời; trong khi đó hài kịch “gần
nhƣ phổ biến, xảy ra bất cứ nơi nào có văn minh nhân loại hiện hữu”. Bi kịch tập trung
5


vào một anh hùng cá nhân “chịu chết và sẵn sàng chết vì lí tƣởng của mình”. Hài kịch lại
nhìn những lí tƣởng, những siêu việt hay chiến thắng của một cá nhân với cái nhìn giễu

cợt, “chán nản”, và đúc rút rằng sự thành công của con ngƣời luôn đƣợc khởi sinh từ sự
tiếp nối cộng đồng. Theo quan điểm của Meeker, bi kịch là một sản phẩm của chủ nghĩa
nhân loại phƣơng Tây, đồng thời có mối quan hệ thảm khốc với tự nhiên, nó ca ngợi tầm
quan trọng của mỗi cá nhân và đặt ra “giả thuyết về sự vƣợt trội của con ngƣời đối với
quá trình phát triển của tự nhiên nhằm chứng minh sự khai phá của con ngƣời về thiên
nhiên mà không quan tâm đến hậu quả”. Qua đó, Meeker nhận ra, “từ quan điểm không
khoan nhƣợng của sự tiến hóa và chọn lọc tự nhiên, văn học đóng góp nhiều cho sự tồn
tại của chúng ta hơn là sự tuyệt chủng của nhân loại”, và ông đề xuất: “Con ngƣời đang
là những sinh vật thuộc về văn học duy nhất trên trái đất. Nếu sự sáng tạo văn học là
một đặc điểm quan trọng của loài ngƣời, nó cần đƣợc kiểm tra một cách cẩn thận và
trung thực để khám phá ảnh hƣởng của nó đối với hành vi của con ngƣời và môi trƣờng
tự nhiên – để xác định vai trò gì, nếu có, nó đóng vai trò trong sự bảo vệ và sự tồn tại
của nhân loại, và những gì nó cho thấy một cái nhìn sâu sắc vào các mối quan hệ của
con ngƣời với các loài khác và với thế giới xung quanh chúng ta” [77, tr.3-4].
Trên cơ sở này, năm 1978, trong tiểu luận Văn học và Sinh thái học: Một thử
nghiệm trong Phê bình sinh thái (Literature and Ecology: An Experiment in
Ecocriticism), thuật ngữ “Phê bình sinh thái” (Ecocriticism) lần đầu tiên đƣợc William
Rueckert sử dụng, gợi ý rằng đây là sự “kết hợp văn học và sinh thái học”. Ông kiến
nghị, lí luận văn học hiện đại nên “xây dựng đƣợc một hệ thống thi pháp sinh thái” để
tạo nên một “tầm nhìn sinh thái” kết nối văn học với sinh thái học.
Tuy nhiên, phải đến một thập niên sau, lí thuyết phê bình sinh thái mới đƣợc
nhắc đến mạnh mẽ trong cuốn Giảng dạy văn học môi trường: Tài liệu, Phương pháp
và Tiềm năng (Teaching Environmental Literature: Materials, Methods, Resources) do
Frederick O. Waage chủ biên, xuất bản năm 1985 bởi Hội ngôn ngữ học hiện đại; công
trình đã thúc đẩy các nhà nghiên cứu ở Mĩ tiến hành mở bộ môn liên quan đến văn học
sinh thái và tiến hành nghiên cứu lĩnh vực này.
Sau đó, trong Đại hội “Hội văn học miền Tây” nƣớc Mỹ năm 1989, Cheryll
Glotfelty với báo cáo Vì một nền phê bình văn học sinh thái (Toward an Ecological literary
criticism) và Glen. A. Love với báo cáo Định giá lại tự nhiên: Vì một nền phê bình sinh thái
6



học (Revaluing Nature: Toward an ecological criticism) đã lần nữa khẳng định sự hiện diện
của phê bình sinh thái rất thiết thực trong văn học và lí luận phê bình hiện đại.
Năm 1990, cuốn The Norton: Cuốn sách của lối viết tự nhiên (The Norton: book
of nature writing) do Robert Finch và John Elder chủ biên ra đời, đã giới thiệu những
tác phẩm quan trọng viết về tự nhiên của Âu Mĩ từ thế kỉ XVIII. Hiệu ứng cuốn sách
mang lại là sự mở rộng hiểu biết của độc giả về phê bình sinh thái, đƣa lí thuyết này đến
gần hơn với mọi ngƣời.
Đến năm 1991, hội thảo “Phê bình sinh thái: Xanh hóa nghiên cứu văn học”
(Ecocriticism: The Greening of Literary Studies) do Harold Fromm chủ trì đã diễn ra
tại Hội Ngôn ngữ học Hiện đại Mĩ, tập hợp những công trình nghiên cứu về “lối viết tự
nhiên” và văn học viết về môi trƣờng. Cũng trong năm này, tại Anh, Jonathan Bate
(Đại học Liverpool) xuất bản chuyên luận Sinh thái học lãng mạn: Wordsworth và
truyền thống môi trường (Romantic Ecology: Wordsworth and the Environmental
Tradition). Khi nghiên cứu, J. Bate đã sử dụng thuật ngữ “phê bình sinh thái văn học”
(literary ecocriticism). Các chuyên gia cho rằng, sự xuất hiện của cuốn sách này đánh
dấu bƣớc mở đầu của phê bình sinh thái Anh.
Ở giai đoạn này, phê bình sinh thái vẫn đang bƣớc những bƣớc đầu tiên chậm
rãi và chƣa có hệ thống. Các nhà nghiên cứu văn học và văn hóa đã phát triển lí thuyết
và phê bình về phƣơng diện sinh thái bằng cách tiếp cận liên ngành. Nhƣng các nghiên
cứu của họ đƣợc coi là “những nghiên cứu của lối viết tự nhiên” (the study of nature
writing) xuất hiện đơn lẻ với những tên gọi khác nhau nhƣ: chủ nghĩa đồng quê, sinh
thái học nhân văn, chủ nghĩa địa phƣơng (regionalism), phong cảnh trong văn học,
nghiên cứu liên ngành (interdisciplinary studies)… Cho nên, hai mƣơi năm đầu tiên
vẫn là giai đoạn manh nha hình thành của phê bình sinh thái.
1.1.1.2. Chặng hai từ 1992 đến 2004: bùng nổ lí thuyết phê bình sinh thái
Năm 1992, một sự kiện quan trọng tạo nên bƣớc chuyển cho phê bình sinh thái là
Hội nghiên cứu văn học và môi trƣờng (The Association for the Study of literature and
Environment), gọi tắt là ASLE đƣợc thành lập ở trƣờng đại học Nevada (Mĩ). Đây là

một tổ chức học thuật phê bình sinh thái mang tính quốc tế, với hơn nghìn hội viên đến
từ các nƣớc khác nhau. Bằng việc tổ chức các hội thảo quốc tế, các cuộc thảo luận quy
mô nhỏ, xuất bản tập san, giới thiệu những thành quả phê bình sinh thái mới nhất,… hội
7


ASLE đã làm cho khuynh hƣớng phê bình sinh thái ngày càng lan rộng và phát triển
mạnh mẽ. Hội trƣởng đầu tiên của ASLE - Scott Slovic là một trong những ngƣời có
nhiều thành tựu nghiên cứu về phê bình sinh thái. Scott Slovic bắt đầu tiếp cận phê bình
sinh thái năm 1989. Đến năm 1992, ông xuất bản chuyên luận Tìm kiếm ý thức sinh thái
trong văn bản viết về tự nhiên ở Mỹ (Seeking Awareness on America Nature writing), có
ảnh hƣởng rất lớn ở Mĩ. Các nhà văn sinh thái nổi tiếng nhƣ Annie, Edward, Abbey,
Wedell Bery, Bary Lopez đều đƣợc Slovic quan tâm tìm hiểu. Ông chú ý đến những
sách viết về tự nhiên và nguyên nhân tâm lí của văn học sinh thái, đồng thời cũng quan
tâm đến cơ chế bên trong sự giao lƣu giữa con ngƣời và tự nhiên.
Tiếp đó, một loạt công trình về phê bình sinh thái đƣợc công bố và tạo dấu ấn đặc
biệt, nhƣ: cuốn sách Bản đồ cảnh quan vô hình: Văn học dân gian, Văn học viết và Ý
thức nơi chốn (Mapping the Invisible Landscape: Folklore, Writing and the Sense of
Place) của Kent C. Ryden xuất bản năm 1993 đã tiến hành một cuộc khảo sát quy mô và
cặn kẽ về nơi chốn. Dựa vào các phƣơng pháp và tƣ liệu địa lí, truyện kể dân gian và
văn học viết, cuốn sách là những phân tích liên ngành sâu rộng về nơi chốn, nhận thức
vai trò quan trọng của vị trí địa lí trong việc hình thành nên văn hóa địa phƣơng cũng
nhƣ cách thức nơi chốn tác động đến cuộc sống cá nhân. Qua đó, Ryden phát hiện mối
liên hệ biện chứng giữa một vùng địa phƣơng và sự thể hiện địa phƣơng đó trong văn
học, đóng góp một tiếng nói quan trọng trong lĩnh vực phê bình. Năm 1994, chuyên luận
Phê bình văn học sinh thái: tưởng tượng lãng mạn và Sinh học tư duy (Ecological
literary criticism: romantic imagining and the Biology of mind) của Karl Kroeber biên
soạn đã bàn luận những vấn đề chính yếu của phê bình sinh thái nhƣ nguyên nhân hình
thành, đặc trƣng, tiêu chuẩn và mục đích của phê bình sinh thái. Năm 1995, chuyên luận
Tưởng tượng về môi trường: Thoreau, văn viết tự nhiên và sự hình thành của văn hóa

Mĩ (The Environmental Imagination: Thoreau, Nature Writing, and the Formation of
American Culture) của Lawence Buell xuất bản đã nghiên cứu trƣờng hợp nhà văn
Thoreau qua tác phẩm Walden và kiến nghị vai trò, trách nhiệm của văn học đối với môi
trƣờng, vì ông cho rằng, “nguy cơ môi trƣờng bao gồm cả nguy cơ trong tƣởng tƣợng”.
Tuy nhiên, tác phẩm đƣợc xem nhƣ tài liệu nhập môn của phê bình sinh
tháilàTuyển tập Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn học (The
Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology), xuất bản năm 1996, do Cheryll

8


Glotfelty và Harold Fromm chủ biên. Cuốn sách gồm hai mƣơi sáu bài viết, là kết hợp
những bài tái bản lẫn mới công bố, đƣợc chia làm ba phần: Phần một – Lí thuyết sinh thái
học: Sự phản ánh thiên nhiên và văn hóa; Phần hai – Những quan tâm phê bình sinh thái
trong tiểu thuyết và kịch; Phần ba – Các nghiên cứu quan trọng của Văn học Môi trƣờng.
Đi sâu tìm hiểu mối quan hệ giữa văn học và môi trƣờng vật lí, công trình đã chỉ ra Sinh
thái văn học là nghiên cứu những cách thức của lối viết vừa phản ánh lại vừa ảnh hƣởng
tƣơng tác nhƣ thế nào giữa con ngƣời với thế giới tự nhiên. Tác phẩm đã cung cấp một hệ
thống tổng quan về những vấn đề then chốt xung quanh lí thuyết mới này, nhƣ: khái niệm
phê bình sinh thái, nguồn gốc hình thành, quá trình phát triển trong hơn hai mƣơi năm qua
và đƣa ra những diễn giải tại sao phê bình sinh thái lại có vai trò quan trọng trong nghiên
cứu văn học hôm nay. Đây chính là công trình đầu tiên chiếu sáng vào một lĩnh vực
nghiên cứu có sự tham gia một cách đầy đủ của các ngành khoa học – xã hội với các vấn
đề đƣơng đại cấp bách của chúng ta – cuộc khủng hoảng môi trƣờng toàn cầu.
Năm 1999, công trình chuyên sâu về phê bình sinh thái đô thị đƣợc ấn hành do
Michael Bennett và David W. Teague biên soạn có tên Bản chất của các thành phố: Phê
bình sinh thái và Môi trường đô thị (The Nature of Cities: Ecocriticism and Urban
Environments). Vốn là những nhà nghiên cứu xuất thân từ thành thị, Michael Bennett và
David W. Teague đã trình bày trên tinh thần đƣa phê bình sinh thái từ vùng hoang dã trở
về nhà. Qua 6 phần chính: phần 1 – Bản chất của các thành phố, phần 2 – Lối viết bản

chất đô thị, phần 3 – Công viên thành phố, phần 4 – Đô thị “hoang dã”, phần 5 – Sinh thái
học nữ quyền và Thành phố, phần 6 – Lí thuyết không gian đô thị, cuốn sách này đã chỉ ra
rằng, các thành phố thƣờng đƣợc cho là tách biệt với thiên nhiên, nhƣng xu hƣớng gần
đây của phê bình sinh thái đòi hỏi chúng ta xem xét thành phố cũng là một phần của hệ
sinh thái. Và rõ ràng, sự tƣơng tác của văn hóa và tự nhiên ở các thành phố và vùng ngoại
ô cũng phong phú, đa dạng không kém gì những vùng nông thôn, hoang dã. Soi chiếu từ
góc độ này, các nhà nghiên cứu cũng truyền tải thông điệp gửi gắm những thị dân về vị trí
của họ trong việc cân bằng môi trƣờng sống.
Bƣớc sang thế kỉ XXI, phê bình sinh thái thực sự phát triển sâu rộng, trở thành một
hiện tƣợng lí luận phê bình văn học – văn hóa toàn cầu. Nhiều hội thảo liên tiếp đƣợc diễn
ra: Tháng 6 năm 2000 tại Đại học Cork tiến hành Hội thảo khoa học Quốc tế đa ngành với
chủ đề “Giá trị của môi trƣờng”. Tháng 10 năm đó, tại Đại học Danjiang Đài Loan đã tổ
chức Hội thảo Quốc tế phê bình sinh thái với chủ đề “Diễn ngôn sinh thái”.
9


Luận án đủ ở file: Luận án full













×