Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tài liệu Kỹ thuật nuôi thủy sản nước ngọt - Chương 1 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.98 KB, 19 trang )

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ NGHỀ NUÔI THỦY SẢN NƯỚC NGỌT
I. LỊCH SỬ PHÁT TRỈÊN CỦA NGHỀ NUÔI THỦY SẢN NƯỚC NGỌT
Lịch sử phát triển của nghề nuôi thủy sản nước ngọt trên thế giới được ghi nhận ở các
nước của các Châu lục cách đây hàng ngàn năm. Nguồn lợi và sản phẩm thủy sản mang lại từ
các họat động nuôi, bảo vệ và khai thác hợp lí từ con người đã đóng góp rất tích cực vào sự an
tòan về nhu cầu thực phẩm cho con người trên khắp các Châu lục.
1. Phát triển thủy sản của các nước ở khu vực Châu Á
Các tài liệu lưu trử ở các nước cho thấy rằng, nghề nuôi trồng thủy sản được ghi nhận
xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc, cách đây ít nhứt 2.500 năm. Theo Ling (1977) sự kiện nầy
được biết đến thông qua quyển sách viết về “ Nghệ thuật nuôi cá ” của tác giả Fan Lei vào
khỏang 500 năm trước công nguyên (494 BC). Sau nầy, các tác giả Chow Mit với bài viết về
Kwet Sin Chak Shik vào năm 1243 (AD) sau công nguyên và Heu trong cuốn sách “A
Complete Book of Agriculture” năm 1639 sau công nguyên mô tả chi tiết cách thức thu giống
cá Chép trên sông, phương pháp ương cá trong ao đã minh chứng cho sự hình thành và phát
triển lâu đời của nghề nuôi thủy sản ở Trung Quốc nói riêng và Châu Á nói chung.
2. Phát triển thủy sản ở Châu âu
Ghi nhận về sự phát triển của nghề nuôi thủy sản ở Châu Âu có từ thời Trung cổ và
cũng có thể nói, lâu đời nhứt, xa xưa nhứt phải đề cập đến sự hình thành và phát triển của việc
thả nuôi cá chép trong các ao nuôi nước ngọt cùng sự phát triển của nghề nuôi thủy sản ở các
vùng ven biển, bắt đầu với sự hình thành các trại nuôi Hầu (Oyster) bởi người Romans, Hy lạp
và sau nầy mở rộng cho nhiều đối tượng nhuyễn thể khác với các cách nuôi tương tự tiếp tục
phát triển. Sự kiện nầy còn được ghi nhận qua tài liệu đề cập và mô tả của Aristotle về chi tiết
các trại nuôi Hầu (Oyster) của người Hy Lạp có từ 100 năm trước công nguyên. Quá trình hình
thành và phát triển của nghề nuôi thủy sản ở Châu Âu sau nầy còn gắn liền với các họat động
nuôi cá rô phi (Tilapia), cá Chép (Common carp) trong các ao nuôi nước tỉnh ở nhiều nước
Châu âu, các họat động nuôi nầy rất có ý nghĩa xã hội và là sản phẩm thường được sử dụng
nhiều trong các dịp lễ hội đặc biệt như lễ giáng sinh ở Pháp, Đức, Nauy, Đan Mạch và Ý. Sau
nầy, trong quá trình phát triển, người Anh cũng đã giới thiệu cá Trout cho người nuôi ở vùng
Châu Á và Châu Phi, phát triển chủ yếu cho mục đích thể thao.
3. Phát triển thủy sản ở Châu Mỹ


Bắt đầu từ thế kỉ thứ 18, thông qua 2 loài cá đặc trưng là Salmon và Trout với sự hình
thành các trại sản xuất giống đã ghi nhận được sự phát triển của nghề nuôi thủy sản ở châu Mỹ
và chủ yếu ở Bắc Mỹ, sau đó phát triển mở rộng đến Nam Mỹ. Hiện tại, có thể nói nghề nuôi
thủy sản của nhiều nước ở Châu Mỹ phát triển rất mạnh với đội ngũ cán bộ có trình độ khoa
học kỹ thuật cao.
1
4. Phát triển thủy sản ở Châu Phi
Quá trình phát triển nghề nuôi thủy sản nước ngọt ở Châu Phi được ghi nhận đầu tiên
qua các bức tranh bằng đá, biểu hiện các họat động nuôi cá rô phi cho thấy, nghề nuôi thủy sản
nước ngọt xuất hiện ở Ai cập cách đây 2.000 năm trước công nguyên. Bên cạnh đó, các dấu
tích chứng minh cho sự phát triển của ngành nghề còn thể hiện thông qua họat động nuôi thủy
sản được phát hiện, ghi nhận trong các quyển kinh thánh. Sau nầy, cùng với sự tồn tại, phát
triển cũng như sự lan tỏa của lòai cá rô phi đến nhiều quốc gia, đặc biệt đối với các nước vùng
nhiệt đới, cá rô phi đã trở thành đối tượng nuôi rất phổ biến trong các loại hình thủy vực, đồng
thời các giải pháp kỹ thuật và năng suất nuôi thu họach đã góp phần cải thiện đáng kể điều kiện
thu nhập cho người dân nghèo ở các nước đang phát triển.
Thông thường họat động nuôi thủy sản hình thành và phát triển thường gắn liền với 2
vùng sinh thái căn bản sau đây
• Nuôi thủy sản nội địa (Inland Aquaculture)
Nhiều tài liệu cho rằng họat động nuôi thủy sản nội địa bắt nguồn từ Trung Quốc, một
số tài liệu khác thì cho rằng nghề nuôi thủy sản ở Miến Điện và Nepal được hổ trợ phát triển
cách đây khỏang 20 – 50 năm. Trong hầu hết các nước vùng Đông Nam Châu Á, sự tăng
trưởng của nghề nuôi thủy sản có ý nghĩa xã hội hơn 30 năm qua, mặc dù cá chép vẫn là đối
tượng nuôi chính ở hầu hết các nước, nhưng cá rô phi lại là lòai cá được ưa thích và được giới
thiệu rộng rãi cách đây hơn 50 năm.
• Nuôi thủy sản ở vùng triều (Coastal and Marinculture)
 Nghề nuôi cá Măng ở vùng nước lợ của đảo Java ở Indonesia đã có cách đây từ 600 –
800 năm
 Sự quãng bá, giới thiệu các đối tượng nuôi, sản phẩm thủy sản thường được các nhà
buôn Trung Quốc thực hiện.

 Nghề nuôi cá Măng ở Phillipines cũng được ghi nhận cách đây hằng trăm năm, nhưng
không có tài liệu ghi nhận, hay chứng minh cụ thể.
 Có nhiều bằng chứng cho thấy, họat động nuôi ghép các đối tượng nuôi thủy sản ở các
ao, hồ chứa nước thường được thực hiện bởi các ngư dân Trung Quốc.
 Đối với nghề nuôi trồng Rong Biển xuất hiện cách đây khỏang 400 năm và nghề nuôi
các lọai động vật thân mềm xuất hiện cách đây khỏang hơn 300 năm ở Nhựt Bản.
II. HIỆN TRẠNG VÀ TIỀM NĂNG NGHỀ NUÔI THỦY SẢN THẾ GIỚI
1. Hiện trạng nghề nuôi thủy sản thế giới
Sự phát triển của nghề nuôi thủy sản phải được khẳng định trong mối quan hệ với tổng sản
lượng thủy sản trong vùng, khu vực và trên tòan cầu.
Theo tổng kết của FAO năm 2000.
Sản phẩm thủy sản tòan cầu thông thường được chia làm 6 nhóm
1. Nhóm cá biển (Marine fish)
2. Nhóm cá (Diadromous)
3. Nhóm cá nước ngọt
2
4. Nhóm giáp xác
5. Nhóm động vật thân mềm
6. Nhóm rong biển
Cho đến nay, sản lượng sản phẩm biển vẫn là nguồn lợi thủy sản được tin tưởng là
nguồn cung cấp thực phẩm không giới hạn từ họat động khai thác tự nhiên. Tất nhiên, cũng cần
lưu ý rằng, khi mở rộng khai thác nguồn lợi thủy sản biển, rất cần quan tâm đến sự khai thác và
bảo vệ hợp lí nguồn lợi, làm nền tảng cho việc phát triển nguồn lợi thủy sản một cách bền
vững, đáp ứng nhu cầu khai thác ổn định lâu dài.
Thông thường sản lượng khai thác thủy sản biển có thể phân chia theo các giai đọan
phát triển như sau
1. Giai đọan tăng trưởng nhanh, sản lượng trên 20 tấn, năm 1940 đến 60 triệu tấn, năm
1970 (tăng gấp 3 lần)
2. Giai đọan tăng trưởng chậm từ năm 1970 – 1989, khi đỉnh tăng trưởng của họat động
khai thác đạt 90 triệu tấn.

3. Giai đọan sản lượng nuôi thủy sản tăng gấp đôi trong những năm của thập kỷ 1975 –
1984 và tiếp tục tăng trong những năm 1984 – 1992.
4. Giai đọan không tăng trưởng và trong thực tế có biểu hiện giãm sút về sản lượng khai
thác, xuất hiện từ năm 1988 – 1992.
Sản lượng khai thác thủy sản thông thường chiếm hơn 90 % tổng sản lượng thủy sản,
nhưng giá trị nầy biểu hiện sự giãm sút, vì theo thống kê năm 1992, tòan cầu chỉ chiếm 81 %
sản lượng, trong khi đó ở khu vực châu á, sản lượng của các nước chỉ chiếm tổng cộng 67 %.
 Sản lượng khai thác thủy sản của các nước ở khu vực Châu Á
Sản lượng nuôi thủy sản của các nước vùng Châu Á thông thường chiếm khỏang 88 %
tổng sản lượng thủy sản tòan cầu.
Trong đó
+ Finfish 48 %
+ Seaweeds 31 %
+ Mollusca 16 %
+ Crustacea 05 %
Có thể nói ở khu vực Châu Á, sản lượng thủy sản của các nước chiếm một tỉ lệ khá cao.
Những lí do chính dẫn đến kết quả trên có thể giải thích như sau
1. Hầu hết các nước ở khu vực Châu Á có nền sản xuất dựa vào nền kinh tế nông nghiệp là
chính và người dân có nhiều kinh nghiệm trong họat động khai thác nguồn lợi thủy sản.
2. Do các nước ở khu vực Châu Á thường bị áp lực về dân số cao, chiếm 55 % dân số thế
giới, trong khi đó diện tích đất có khả năng trồng tỉa chỉ chiếm 30 %. Số liêu cho thấy,
bình quân 1 người châu á chỉ có 0.27 ha, còn phần còn lại của thế giới chiếm khỏang
1.6 ha.
3. Khai thác quá mức nguồn lợi tự nhiên. Trong lúc đó chỉ dựa thuần túy vào kinh nghiệm
cổ truyền là chính, từ đó làm giảm sút nguồn lợi thủy sản tự nhiên nầy.
 10 quốc gia có sản lượng thủy sản nội địa cao nhứt thế giới
3
Bảng 1: 10 quốc gia có sản lượng thủy sản nội địa cao nhứt thế giới
Quốc gia Sản lượng năm 1998
(Tấn)

So với thế giới
(%)
Trung Quốc 2.280.000 28.5
India 650.000 8.1
Bangladesh 538.000 6.7
Indonesia 315.000 3.9
Tanzania, United Rep. 300.000 3.7
Russian Federation 271.000 3.4
Egypt 253.000 3.2
Uganda 220.000 2.8
Thailand 191.000 2.4
Brazil 180.000 2.3
Nguồn: FAO năm 2000
Trung Quốc là một trong nhiều nước dẫn đầu về sản lượng nuôi trồng thủy sản ở khu
vực châu Á, với 61 % tổng sản lượng tòan cầu và 54 % tổng sản lượng ở khu vực châu Á.
Thống kê số liệu cho thấy có khỏang 50 % các nước ở khu vực Châu Á sản xuất hơn 1
kg cá/đầu người/năm. Sản lượng nuôi thủy sản nước ngọt chiếm ưu thế ở các nước châu á, đặc
điểm nầy được thể hiện rõ qua số liệu sau đây
1. Cá nước ngọt chủ yếu (do quốc gia không có biển) bao gồm các quốc gia như Lào và
Nepal.
2. Thành phần tôm cá nước ngọt là chính, bao gồm Bangladesh, Cambodia, India,
Myanmar, Pakistan và Việt nam (do các nước nầy tiêu thụ cá nước ngọt là chính).
3. Thành phần tôm cá nước lợ mặn là chính bao gồm các nước như Japan, Korea,
Malaysia và Singapore.
4. Thành phần hổn hợp giữa nước ngọt và lợ, mặn là chính bao gồm China, Thailand,
Taiwan, Hongkong, Indonesia, Philippines (có 2 vùng sinh thái căn bản).
5. Srilanka: Thông qua họat động khai thác, đánh bắt và tiêu thụ sản phẩm cá nước ngọt là
chính, tuy nhiên gần đây cũng phát triển nuôi tôm.
2. Tiềm năng phát triển nghề nuôi thủy sản thế giới
Sự cần thiết phát triển nghề nuôi thủy sản phải được khẳng định trong mối liên hệ với

họat động khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong các loại hình thủy vực.
• Khai thác nguồn lợi thủy sản ở loại hình thủy vực Stagnant
Sản lượng khai thác nguồn lợi thủy sản ở lọai hình thủy vực Stagnant có xu hướng giãm
dần trên bình diện tòan cầu.
Sự gia tăng dân số dẫn đến tình trạng khai thác quá mức nguồn lợi thủy sản trong các
lọai hình thủy vực và sự sút giãm về điều kiện môi trường.
Sự khai thác hợp lí nguồn lợi thủy sản sẽ tạo điều kiện cho con người có được sản
lượng khai thác thủy sản tốt nhứt và tối ưu nhứt.
• Thỏa mãn nhu cầu cung và cầu
4
Có sự tính toán cho nhu cầu an tòan thực phẩm thủy sản đến năm 2005 trên tòan
cầu/năm (1994) khỏang 60 triệu tấn.
Sự tính tóan nầy thường dựa trên cơ sở
1. Kế họach về sản lượng khai thác nguồn lợi thủy sản trên tòan cầu
2. Duy trì và phải ổn định tình hình gia tăng dân số
3. Tiêu thụ sản phẩm thủy sản cả năm bình quân 13.5 kg/capita/năm. Kết quả nầy cho thấy
sản lượng nuôi thủy sản đến năm 2005 sẽ là sản lượng nuôi thủy sản hôm nay nhân với
3 lần nhiều hơn.
4. Nhu cầu của con người tiêu thụ sản phẩm thủy sản ngày càng gia tăng
• Tỉ lệ tăng trưởng của nghề nuôi thủy sản
Nhìn một cách tổng thể cho thấy, sản lượng lương thực tăng nhanh theo sự gia tăng dân
số trong hơn 1 thập kỉ vừa qua
Sự tăng trưởng của nghề nuôi thủy sản đạt ở mức 10 % / năm, cho thấy sẽ nhanh hơn về
sự gia tăng về sản lượng lượng thực.
• Sự thách thức của nghề nuôi thủy sản
Theo tính tóan của Scavas (1994) nếu có sự tăng trưởng của nghề nuôi thủy sản cho
thấy, có sự gia tăng về sản phẩm thủy sản để duy trì, đồng thời tăng nhanh sản lượng cũng như
vấn đề tiêu thụ sản phẩm. Thông thường để làm tăng sự tăng trưởng của nghề nuôi thủy sản
cần:
1. Xây dựng mô hình nuôi thủy sản thích hợp và hiệu quả cho người dân nghèo

2. Thực hiện mô hình nuôi theo đúng các yêu cầu về kỹ thuật
3. Tậng dụng tối đa nguồn phụ phế phẩm nông nghiệp điều kiện sẳn có ở nông hộ
4. Hòan thiện và không ngừng cải thiện năng suất, chất lượng sản phẩm các mô hình
nuôi thủy sản chuyên canh và kết hợp.
5. Quản lí tốt mô hình nuôi thủy sản, đặc biệt là vấn đề về tình trạng sức khỏe của thủy
sinh vật trong các mô hình nuôi.
6. Tăng diện tích sản xuất cho nghề nuôi thủy sản phát triển
7. Tăng năng suất, sản lượng và giá trị nuôi thủy sản trên một đơn vị sản xuất
8. Chất lượng và vấn đề an tòan sản phẩm thủy sản.
III. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỀ NUÔI THỦY SẢN NƯỚC NGỌT VIỆT NAM
Với diện tích có khả năng phát triển nuôi thủy sản trong cả nước là 1,7 triệu ha, trong
đó cá ao có diện tích nhỏ là 120.000 ha, hồ chứa, mặt nước lớn 340.000 ha và ruộng lúa có khả
năng nuôi thủy sản là 580.000 ha, hiện nay nuôi thuỷ sản nước ngọt đã đóng góp một phần
quan trọng trong ngành thuỷ sản (Bộ Thuỷ sản, 1999). Tuy nhiên trước thế kỷ 20 nghề nuôi
thuỷ sản ở nước ta gần như chưa phát triển. Mãi đến những năm của thập kỷ 30, nghề nuôi thuỷ
sản và chủ yếu là nuôi thuỷ sản nước ngọt mới thực sự bắt đầu hình thành và tập trung ở các
tỉnh phía Bắc Việt Nam. Từ đó đến nay nghề nuôi thuỷ sản nước ngọt không ngừng phát triển.
Việc mở rộng diện tích nuôi, đa dạng hoá mô hình nuôi, đối tượng nuôi, di nhập và thuần hoá
nhiều đối tượng kinh tế đã góp phần nâng cao hiệu quả của nghề nuôi cá nước ngọt nước ta.
Vào nửa đầu thế kỷ XX, việc nuôi cá nước ngọt chủ yếu phát triển và phổ biến ở khu
vực Miền Bắc. Điều này có lẽ do nguồn cá tự nhiên có phần hạn chế, trong khi nhu cầu tiêu thụ
5
sản phẩm ngày càng tăng theo nhịp độ phát triển dân số, đây có lẻ là một trong số các nguyên
nhân chính thúc đẩy cư dân Miền Bắc khởi đầu với nghề chăn nuôi – thủy sản này. Cho đến
thập niên 1930, nuôi cá nước ngọt đã trở thành nghề lan rộng khắp các tỉnh thuộc châu thổ sông
Hồng, thậm chí đến cả những khu vực miền núi phía tây và phía bắc. Sự mở rộng phạm vi nuôi
cá và số lượng ao hồ thả cá ngày càng tăng lên không ngừng có liên quan mật thiết đến một bộ
phận cư dân chuyên nghiệp trong nghề thu vớt và nuôi cá giống con từ tự nhiên.
Hàng năm vào khoảng tháng 5, các loài cá thường đẻ trứng trong các vùng thượng
nguồn sông Hồng và các chi lưu của nó. Trứng cá bám vào bờ nước, dính vào những rong rêu,

cây cỏ thủy sinh nở thành cá con và bị nguồn nước cuốn trôi về phía hạ nguồn, những người
chuyên thu vớt cá con chỉ việc đem dụng cụ ra bờ sông để thu hoạch. Các loài cá thu vớt được
ở miền Bắc trong thời kỳ này xếp theo thứ tự quan trọng là: Cá mè (Hypophtalmychtys), Cá trôi
(Cirrihina molitorella), Cá chầy (Squaliobarbus curriculus), Cá chép (Cypinus carpio),Cá vền
(Parabramis bramula),Cá mương (Hemiculter leucisculus). Các loại cá con vớt được thường có
chiều dài khỏang 0,4 - 0,5 cm. Cá con được chuyển đến những hồ nuôi cá. Ngay từ thời kỳ này
người dân đã biết chuẩn bị ao hồ từ trước như: tháo khô nước và tìm cách diệt hết các loài cá,
loài cua. Sau một vài ngày, người ta lại cho nước vào một cách cẩn thận bằng việc ngăn bằng
một loại lưới dày để chặn các loài thuỷ tính có hại cho cá con. Nước trong ao hồ được làm giàu
chất dinh dưỡng thêm bằng cặn bã từ chuồng lợn, kén tằm và phân người. Mật độ thả cá thường
không theo một chuẩn mực nào cả, thông thường khoảng một gánh cho một sào Bắc bộ (360
m
2
), hoặc 5 mớ khoảng chừng 50.000 con cá giống cho một sào. Thức ăn cho cá được thay đổi
thường xuyên, chủ yếu là dùng phân heo (mười gánh phân cho một sào), phân người và những
đồ cặn bã. Cây cỏ thực vật cũng được sử dụng bằng cách bó từng nắm và cho xuống hồ phổ
biến là cây mái dầm hay so đủa. Suốt nhiều tuần, người ta quậy bùn liên tục để tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho cá con hấp thu tốt những thành phần dinh dưỡng có trong ao hồ.
Tại vùng núi phía Bắc, người Thổ có một phương pháp nuôi cá khá lý thú trong các
ruộng lúa. Vào tháng 5, họ đem cá chép con đổ vào các ruộng lúa đã be bờ, và đề phòng bằng
cách đào ở góc ruộng lúa thành một cái hốc sâu làm nơi ẩn náu mát mẻ cho cá vào mùa khô, và
là nơi chúng tập trung lại khi họ rút cạn nước trong ruộng để bắt cá. Nghề nuôi cá nước ngọt ở
Bắc bộ thật sự phát triển rộng rãi và tạo một khối lượng sản phẩm đáng kể khi người nuôi cá
chủ động chọn lọc các loài cá có giá trị để nuôi, điều chỉnh mật độ thả cá thích hợp để cá có
điều kiện phát triển tốt nhất., mở mang việc chăn nuôi cá trên những vùng ngập nước rộng lớn
vào mùa mưa, đặc biệt là ở các ruộng lúa.
Tại miền Trung, việc nuôi cá nước ngọt không mấy phát triển, ngoại trừ một vài khu
vực ở Thanh Hoá còn chịu ảnh hưởng, kinh nghiệm của nghề nuôi thủy sản ở miền Bắc Việt
nam phát triển.
Ở miền Nam, sự phong phú về nguồn lợi thủy sản trong các vực nước tại chỗ và số

lượng cá dồi dào từ Campuchia đổ về thường xuyên là nguyên nhân khiến cho nông dân không
cần nghĩ đến việc đào ao, hồ hay mương vườn để thả cá. Mãi đến những năm 1940, khi nguồn
cá này ngày càng có xu hướng giảm thấp và số lượng cư dân liên tục gia tăng, ở đây mới bắt
đầu thịnh hành với nghề nuôi cá nước ngọt. Hàng năm, vào khoảng tháng 6, cá tra bột, hương
và giống (Pangasius hypothamus) từ biển hồ ở Cambodge trôi về, thì cư dân ven bờ sông Mê
kông vùng giáp biên giới Việt Nam - Cambodge chuyên làm nghề vớt cá và nuôi cá giống bắt
đầu hoạt động. Lúc bấy giờ, tại các ao, hầm nuôi cá ở miền Nam, người ta cũng tiến hành
những bước chuẩn bị như ở Bắc bộ. Thức ăn của cá tra chủ yếu cũng là chất thải từ chuồng heo
và phân người. Việc phát triển nghề nuôi cá tra ở miền Nam đã góp phần duy trì nguồn thực
phẩm chính yếu của người Việt có mặt trên thị trường quanh năm. Ngoài cá tra, ở Nam bộ lúc
bấy giờ cũng có nuôi một vài loài cá nước ngọt khác, như cá vô đém, cá chép, cá rô phi, tai
tượng và hường…..
6
Nhìn chung, đến giữa thế kỷ XX, nghề nuôi cá nước ngọt cũng chỉ phát triển nhiều ở
miền Bắc, còn ở miền Nam chỉ mới bắt đầu với những bước đi chập chững. Trong khi đó ở khu
vực miền Trung xem như vẫn chưa có sự đổi thay nào đáng kể trong tiến trình hình thành nghề
nuôi cá ở Việt Nam. Sự phát triển thiếu đồng bộ đó một phần do khác nhau về điều kiện địa lý,
vùng sinh thái thủy sinh vật và dân số..., khác nhau về tập quán sinh hoạt, họat động sản xuất
nông nghiệp, họat động kinh tế và đời sống (Tiến, 1996) chi phối.
 Nghề nuôi cá nước ngọt Việt nam từ năm 1954 -1975
Từ ngày miền Bắc được hòan toàn giải phóng và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nghề nuôi
cá đã được Đảng và nhà nước quan tâm khuyến khích và chỉ đạo nên ngày càng phát triển với
bước đi cụ thể. Nghề vớt cá bột trên sông Hồng vẫn tiếp tục phát triển và cung cấp nguồn cá
giống chủ yếu cho nghề nuôi cá nước ngọt ở miền Bắc.Các loài cá bột chủ yếu được vớt là cá
mè, trôi, trắm, cá trăm đen, cá cháy, cá vền, tuy nhiên 3 loài cá nuôi chủ yếu là cá mè, cá trôi,
cá trắm.. nhờ học tập kinh nghiệm của các nhà khoa học Trung quốc, các nhà khoa học Việt
nam đã tìm ra bãi đẻ của cá trôi trên Sông Thao. Năm 1957 nhân dân đã vớt được 757.540 ngàn
cá bột, năm 1958 là 898.610 ngàn và sang năm 1959 là hơn 1,135 triệu con (Lê văn Đán, 1960).
Cùng với nghề vớt cá bột, nghề ương cá giống cũng không ngừng được cải tiến để nâng cao tỷ
lệ sống của cá bột.

Sản lượng cá thịt trong thời gian này cũng ngày càng được gia tăng. Sản lượng năm
1957 là 7.620 tấn, năm 1958 là 10.140 tấn, đến năm 1959 là 12.870 tấn (Lê văn Đán, 1960).
Tính đến năm 1974, diện tích được thả nuôi cá nước ngọt đã đạt trên 122.000 ha, khắp cá xóm
thôn miền Bắc, các vùng kinh tế từ đồng bằng đến miền núi, nói chung nơi nào có ao hồ, ruộng
trũng đều ít nhiều đã nuôi cá. Đã có 7.000 hợp tác xã tổ chức nuôi cá và nghề này trở thành
nghề chính trong trong sản xuất nông nghiệp, vì thế yêu cầu con giống cũng gia tăng (Nguyễn
Thành Tài, 1975). Để đáp ứng nhu cầu về con giống các cơ sở xuất cá giống ở miền Bắc đã sản
xuất cá giống bằng phương pháp sinh sản nhân tạo. Cá mè hoa (Aristichtys nobolis) đã được
cho đẻ thành công vào năm 1963 -1964. Kết quả nầy được nhân rộng và sau nầy đã cho đẻ
được hàng trăm triệu các loài cá có giá trị kinh tế (Nguyễn Thành Tài, 1975).
Ngoài việc nghiên cứu và sản xuất thành công một số loài cá nước ngọt. Việc di nhập,
thuần hóa và lại tạo các loài cá nuôi cũng đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Loài
cá đầu tiên được nhập vào miền Bằc nước ta là cá rô phi đen (Orochromis mossambicus) năm
1951 từ Indonesia. Đây là loài cá ăn tạp dễ nuôi và là một trong những loài cá cá có tốc độ
thuần hóa nhanh. Cá rô phi đen là loài cá đã góp phần phát triển nghề nuôi cá, tạo năng xuất
và sản lượng cá nuôi đáng kể vào những năm 60 và nửa đầu thập kỷ 70 ở miền Bắc (Bộ Thuỷ
sản, 1996). Đến năm 1973, cá rô phi vằn (Orochromis niloticus) có kích thước lớn hơn cá rô
phi đen đã được nhập từ Đài Loan. Cá mè trắng Hoa Nam (Hyphophththal michthys molitrix)
nhập từ Trung quốc vào năm 1964 và cho sinh sản thành công cung cấp giống cho người nuôi.
Đến năm 1971-1972 hai dòng cá chép được nhập từ Hungari (Bộ Thuỷ sản, 1996). So với cá
Chép Việt nam cá chép Hung có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn.
Ngòai việc sản xuất giống cung cấp cho người nuôi, ở thời kỳ này, các nhà quản lý, các
nhà khoa học Viện nam đã bắt đầu quan tâm đến việc phục hồi và phát triển nguồn lợi tự nhiên.
Năm 1967, Viện nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản 1 đã thả hàng chục ngàn con cá Mè hoa, Trắm
cỏ cỡ 100 - 200 gram ra Sông Hồng và cho tới nay hai loài này đã được thần hóa và phát triển
ổn định. Cá lớn nhanh, phát tán rộng và đã để tự nhiên trên sông (Bộ Thuỷ Sản, 1996).
Mặc khác, để nâng cao hơn nữa hiệu quả nuôi cá, các nhà khoa học trong thời kỳ này đã
có nhiều công trình nghiên cứu về cơ cấu, mật độ, tỷ lệ ghép các loài cá trong ao nuôi nhằm tận
dụng nguồn thức ăn tự nhiên hiện diện trong các lọai hình thủy vực. Các hình thức nuôi cá ao,
cá ruộng, cá nước chảy, nước tĩnh, nuốc thải cũng đã được nghiên cứu. Vấn đề thức ăn cho cá

7

×