Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬNMôn: Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin(PHẦN TRIẾT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.97 KB, 33 trang )

Họ tên: NGUYỄN NGỌC YẾN VỸ
Lớp: H524
Đơn vị công tác: UBND PHƯỜNG 12
Chức vụ: Phó CT Hội LHPN Phường

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN
Môn: Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa
Mác – Lênin
(PHẦN TRIẾT HỌC)

BÀI 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Câu 1: Phân tích ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức? Liên hệ vận dụng vào công tác thực
tiễn? Phê phán một số biểu hiện chủ quan, duy ý chí, vi phạm nguyên tắc khách
quan trong tư duy lãnh đạo, quản lý hiện nay?
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
a. Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức. Vật chất là cái có
trước, nó sinh ra và quyết định ý thức:
- Vật chất là nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất, vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý
thức: bộ não người - cơ quan phản ánh thế giới xung quanh, sự tác động của thế giới vật
chất vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên.
Phải có bộ óc của con người phát triển ở trình độ cao thì mới có sự ra đời của ý
thức. Phải có thể giới xung quanh là tự nhiên và xã hội bên ngoài con người mới tạo ra
được ý thức, hay nói cách khác ý thức là sự tương tác giữa bộ não con người và thế
giới khách quan.
Phải có lao động và ngơn ngữ đây chính là nguồn gốc xã hội của ý thức. Nhờ
có lao động mà các giác quan của con người phát triển phản ánh tinh tế hơn đối với
hiện thực... ngôn ngữ là cần nối để trao đổi kinh nghiệm tình cảm, hay là phương
tiện thể hiện ý thức. Ở đây ta cũng nhận thấy rằng nguồn gốc của xã hội có ý nghĩa


quyết định hơn cho sự ra đời của ý thức.
- Vật chất là đối tượng, khách thể của ý thức, nó quy định nội dung, hình
thức, khả năng và quá trình vận động của ý thức.
Bởi lẽ ý thức dưới bất kỳ hình thức nào suy cho cùng đều là phản ánh hiện
thực khách quan, nảy sinh trên những tiền đề vật chất nhất định, ngay cả những ảo
tưởng hình thành trong bộ óc con người cũng là những ý niệm được hình thành
trong quá trình đời sống vật chất của họ.
Mọi sự sáng tạo của ý thức đều xuất phát từ những tiền đề vật chất và phải
tuân thủ các quy luật khách quan.
- Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức: điều kiện vật chất thay đổi thì ý
thức, nhu cầu cũng thay đổi theo.
Vật chất là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của ý thức nên khi vật chất thay
đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
VD: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động sinh lý thần
kinh của bộ não người. Nhưng khi bộ não người bị tổn thương thì hoạt động của ý thức
1


cũng bị rối loạn.
VD: Dựa vào điều kiện vật chất ngày càng tăng, nhu cầu của con người thay
đổi theo từng thời kỳ: mua xe đạp, sau mua xe máy, sau mua ô tô…
- Vật chất là điều kiện cụ thể hóa ý thức, tư tưởng thành sự thật.
Dù ước mơ cao đẹp nhưng khơng có vật chất thì cũng khơng thể thành hiện thực
được.
Những ảo tưởng hình thành trong bộ óc con người nếu khơng được thể hiện ra
bên ngồi thì cũng là những ý niệm; phải thơng qua sự phản ánh bằng các vật chất
cụ thể thì ý thức, tư tưởng mới trở thành sự thật được.
b. Tác động trở lại của ý thức
- Vai trò của ý thức là trang bị cho con người nhận thức về thế giới khách quan,
hình thành mục tiêu, phương hướng và biện pháp cho hoạt động của con người. Ý

thức chỉ đạo cho con người trong mọi hoạt động của mình thơng qua hoạt động của
con người, ý thức có thể tác động trở lại thế giới vật chất vô cùng mạnh mẽ.
VD. Nếu tâm trạng của người công nhân mà khơng tốt thì làm giảm năng suất
của một dây chuyền sản xuất trong nhà máy.
Nếu khơng có đường lối cách mạng đúng đắn của đảng ta thì dân tộc ta cũng
không thể giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ.
Như vậy ý thức khơng hồn tồn phụ thuộc vào vật chất mà ý thức có tính độc
lập tương đối vì nó có tính năng động cao nên ý thức có thể tác động trở lại. Vật chất
góp phần cải biến thế giới khách quan thơng qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Ý thức do vật chất sinh ra và quy định, nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối
của nó. Hơn nữa, sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần, phản
ánh sáng tạo và chủ động chứ khơng thụ động, máy móc, ngun si thế giới vật chất, vì
vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan, con người đề ra mục tiêu, phương
hướng, xác định phương pháp, dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy.
- Ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu:
+ Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan thì
sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất.
VD: Từ nhận thức đúng về thực tại nền kinh tế của đất nước, Đại hội Đảng lần VI
(12/1986), đã xác định chuyển nền kinh tế từ trị cung, tự cấp quan liêu sang nền kinh tế
thị trường, nhờ đó mà sau gần 30 năm đất mới bộ mặt đất nước ta đã thay đổi hoàn toàn.
+ Ngược lại, nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con
người khơng phù hợp với quy luật khách quan, sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất.
VD. Nhà máy xử lý rác thải của Đồng Tháp là một ví dụ điển hình, từ việc
khơng khảo sát thực tế khách quan hay đúng hơn nhận thức về việc sử lý rác vơ cơ
và rác hữu cơ là chưa đầy đủ vì vậy khi vừa mới khai trương nhà máy này đã khơng
sử lý nổi và cho đến nay nó chỉ là một đống phế liệu cần được thanh lý.
- Sự thúc đấy hay kìm hãm phụ thuộc vào 3 yếu tố:
+ Ý thức phản ánh thế giới đúng hay sai? Đúng sai ở mức độ nào?
+ Ý thức thể hiện tư tưởng của giai cấp nào? tiến bộ hay lỗ thời, phản động?


2


+ Mức độ thâm nhập của ý thức vào quần chúng nhân dân ít hay nhiều?
- Tuy vậy, sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất
định chứ nó khơng thể sinh ra hoặc tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất được và
suy cho cùng, dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất.
Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng thời ý
thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội.
- Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu, xem xét
các mối quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn, khách thể và chủ thể, vấn đề chân lý …
2. Ý nghĩa và phương pháp luận
Vì vật chất quyết định ý thức, sinh ra ý thức nên mọi chủ trương chính sách
trong hoạt động nhận thức, hoạt động con người đều phải xuất phát từ hiện thực
khách quan và hoạt động tuân theo quy luật khách quan, nghĩa là chúng phải có
quan điểm khách quan trong nhận thức hoạt động thực tiễn.
Xuất phát từ hiện thực khách quan, không phải từ những cái lẻ tẻ của hiện
thực khách quan, phải xuất phát từ cái chung là quy luật khách quan. Nghị quyết 6
của Đảng là bài học kinh trong trong việc nắm vững hiện thực khách quan.
Hoạt động tuân theo quy luật (quan điểm khách quan)là nhận thức sự vật
phải tơn trọng chính nó có, phản ánh đúng quy luật vận động phát triển của sự vật
và chống chủ quan, duy ý chí.
VD: Hiện tơi đang cơng tác trong lĩnh vực Đồn TNCS Hồ Chí Minh khi thực
hiện công tác này phải luôn tuân thủ quy luật khách quan, trong việc đánh giá phân
loại Đoàn viên cuối năm đúng theo các tiêu chí đặt ra trong bảng đăng ký rèn luyện
Đoàn viên từ đầu năm; khơng được chủ quan duy ý chí, khi đảnh giá phân loại
Đồn viên theo ý kiến chủ quan của mình.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, muốn vậy trong mọi hoạt

động phải thường xuyên trao đổi kiến thức,sử dụng và phát huy vai trò năng động
của các nhân tố tinh thần, tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con
người đạt hiệu quả cao. Người quản lý phải biết chọn người giao việc, vì mỗi người
có sở trường, năng lực, chun mơn khác nhau.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta cùng với việc coi trọng phát
triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất của nhân dân đã rất chú trọng phát triển
văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội.
Việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ vật chất và ý thưc còn giúp ta
chống lại thái độ tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hồn cảnh hoặc chủ quan,
duy ý chí do tách rời và tác động từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức.
Công tác tư tưởng phải gắn liền với cơng tác tổ chức nếu tuyệt đối
hố yếu tố vật chất, yếu tố kinh tế mà coi nhẹ ý thức của con người, coi nhẹ tính
năng động sáng tạo của con người sẽ rơi vào chủ quan duy vật tầm thường, ngược
lại nếu tuyệt đối hoá yếu tố ý thức và coi nghẹ điều kiện vật chất nhất định sẽ rơi
vào chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
3. Phê phán một số biểu hiện chủ quan, duy ý chí, vi phạm nguyên tắc
khách quan trong tư duy lãnh đạo, quản lý hiện nay?
Trong quá trình xây dựng CNXH, chúng ta đã phạm phải sai lầm giáo điều,
cứng nhắc và chủ quan duy ý chí khi áp đặt một mơ hình CNXH được thiết kế
khơng xuất phát từ thực tiễn nước ta. Đó là mơ hình CNXH thuần khiết với nền
3


kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chỉ hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể được
phép tồn tại với sự thống nhất tuyệt đối về chính trị và tinh thần. Do nhận thức
mang tính chủ quan duy ý chí, xa rời thực tiễn, khơng tơn trọng quy luật khách
quan nên đường lối, chính sách nhằm xây dựng mơ hình đó và các biện pháp,
phương tiện để thực hiện đường lối, chính sách này khơng có tác dụng cài tạo thực
tiễn, làm cho thực tiễn kinh tế - xã hội của nước ta phát triển theo chiều hướng tiến
lên mà ngược lại cịn kìm hãm sự phát triển đó.

Chủ nghĩa chủ quan duy ý chí đã đưa chúng ta tới ảo tưởng có thể đưa ngay
nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên CNXH. Do muốn "tiến
thẳng", muốn quá độ trực tiếp lên CNXH, chúng ta đã bỏ qua chỉ dẫn của Lênin về
hình thức quá độ gián tiếp để một nước mà nền kinh tế còn là sản xuất nhỏ đi lên
CNXH. Chúng ta đã quên rằng chính Lênin đã khẳng định: "Nếu phân tích tình
hình chính trị hiện nay, chúng ta có thể nói rằng chúng ta đang ở vào một thời kỳ
quá độ trong thời kỳ quá độ. Toàn bộ nền chun chính vơ sản là một thời kỳ q
độ, nhưng hiện nay có thể nói rằng chúng ta có cả một loạt thời kỳ quá độ mới". Do
chủ quan duy ý chí, do áo tưởng, chúng ta đã khơng nhận thức đúng vị trí và vai trị
của các bước quá độ gián tiếp và do đó chúng ta đã bỏ qua các hình thức kinh tế
trung gian quá độ của một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH. Biểu hiện rõ nét
nhất của sai lầm đó là đường lối xây dựng CNXH với bốn mục tiêu chủ yếu mà Đại
hội IV đã đề ra, là kế hoạch hoàn thành thời kỳ quá độ trong vòng 20 năm, là mong
muốn giải quyết mọi vấn đề kinh tế - xã hội cả bề rộng lẫn chiều sâu trong một
khoảng thời gian ngắn, là sự phủ nhận nền sản xuất hàng hóa và thành kiến với quy
luật giá trị, với mối quan hệ hàng - tiền, với cạnh tranh… "Chúng ta đã có những
thành kiến khơng đúng, trên thực tế, chưa thực sự thừa nhận những quy luật của sản
xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan, do đó khơng chú ý vận dụng chúng vào việc
chế định các chủ trương, chính sách kinh tế.
Một biểu hiện nữa của sai lầm do mắc bệnh chủ quan duy ý chí là đường lối
tiến hành cơng nghiệp hóa và tập thể hóa nơng nghiệp. Từ chỗ không đánh giá đầy
đủ những đặc thù của một nước nghèo nàn và kém phát triển, nền kinh tế vẫn ở tình
trạng nơng nghiệp lạc hậu, trang bị kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thấp
kém, chúng ta đã vội vàng tiến hành cơng nghiệp hóa XHCN, hơn nữa lại tập trung
ngay vào công nghiệp nặng với vốn đầu tư lớn song hiệu quả chẳng thu được là
bao. Đặc biệt, khi tiến hành tập thể hóa nơng nghiệp chúng ta đã cứng nhắc, rập
khn theo nước ngồi, khơng tính đến một cách đầy đủ sự lạc hậu, nặng tính tự
cấp, tự túc và phân tán của nền nơng nghiệp nước ta. Khi đó chúng ta đã quên rằng
chính F. Engen đã chỉ rõ: "Bất cứ ở đâu, bản thân những biện pháp quá độ cũng sẽ
phải thích ứng với những điều kiện sẽ có trong thời gian đó, những biện pháp quá

độ đó, trong các nước có chế độ chiếm hữu ít ruộng đất, sẽ căn bản khác với những
biện pháp quá độ trong các nước có chế độ chiếm hữu nhiều ruộng đất". Sai lầm đó
đã được lặp lại sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Khi đó, với khí
thế của một dân tộc vừa chiến thắng lại cộng thêm nhiệt tình mang nặng tính tiểu tư
sản, chúng ta chỉ thấy một mầu hồng mà khơng lường hết khó khăn trong q trình
cơng nghiệp hóa và tập thể hóa nơng nghiệp.
Chủ nghĩa chủ quan duy ý chí đã dẫn chúng ta đến chỗ tạo ra chế độ hành
chính mệnh lệnh, tạo ra cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Đến lượt mình, chế độ
4


hành chính mệnh lệnh, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp lại trở thành "mảnh đất
mầu mỡ" để chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí phát triển. Bởi lẽ, ở chúng ln có cội
nguồn kinh tế - xã hội, tâm lý và tư tưởng, có những tiền đề triết học và cơ sở
phương pháp luận làm nảy sinh và ni dưỡng chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
Chế độ hành chính mệnh lệnh, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thể hiện
dưới những hình thức hết sức đa dạng, bắt đầu từ thói độc đốn, gia trưởng đến
bệnh hình thức, tệ quan liêu giấy tờ. Nguy cơ của căn bệnh trầm trọng này trong
việc hoạch định đường lối, chính sách, trong hoạt động thực tiễn là ở chỗ:
Thứ nhất, nó dẫn đến chỗ tách đường lối, chính sách ra khỏi đời sống kinh tế
- xã hội. Nó làm cho đường lối, chính sách khơng phản ánh đúng lợi ích sống còn
và ý chí của quần chúng lao động mà thể hiện lợi ích, ý chí, ý muốn chủ quan của
một nhóm người. Bởi vậy, nguy cơ mà nó dẫn đến không chỉ đơn giản là việc quản
lý thiếu hiệu quả, tệ quan liêu giấy tờ, bệnh hình thức, sự thờ ơ... mà đó cịn là nguy
cơ của việc quan liêu hóa đời sống xã hội, là hiểm họa của việc tách các cơ quan
nhà nước ở mọi góc độ ra khỏi lực lượng sáng tạo chân chính - quần chúng lao
động.
Thứ hai, nó dẫn đến chỗ tuyệt đối hóa biện pháp hành chính, cưỡng bức
trong việc giải quyết các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa - xã hội, bất chấp những quy
luật khách quan của đời sống kinh tế - xã hội.

Thứ ba, nó tạo ra thái độ bàng quan, thờ ơ, lãnh đạm ở những người lãnh đạo
trước yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng. Nó dẫn đến hiện tượng lạm dụng chức
quyền để mưu đồ lợi ích cá nhân. Nó khiến cho phê bình và tự phê bình trở thành
khẩu hiệu sng.
Và, thứ tư, nó dẫn đến chỗ coi thường ý kiến và khả năng sáng tạo của quần
chúng lao động. Nó hạn chế tính cơng khai, dân chủ, hạn chế quyền tự do và các
quyền công dân khác của quần chúng lao động.
Khi thực tiễn đã thay đổi, chế độ hành chính mệnh lệnh, cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp trở thành cung cách, phương pháp hồn tồn xa lạ với bản chất
đích thực của CNXH, của công cuộc đổi mới đất nước, của nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu theo định hướng XHCN. Bởi lẽ, như
Lênin đã khẳng định: Tính sáng tạo sinh động của quần chúng, đó là nhân tố cơ bản
của xã hội mới... CNXH không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban
xuống. Tính chất máy móc hành chính và quan liêu không dung hợp được với tinh
thần của CNXH, CNXH sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng
nhân dân.
Chủ nghĩa chủ quan duy ý chí cịn dẫn đến chỗ cường điệu hóa vai trị của
nhân tố chủ quan, của yếu tố chính trị trong việc hoạch định đường lối, chính sách
và trong hoạt động thực tiễn. Biểu hiện cụ thể của nó là ở chỗ chúng ta đã quá đề
cao nhiệt tình của quần chúng. Chúng ta đã ảo tưởng khi cho rằng dựa vào nhiệt
tình của quần chúng, vào ý chí và nguyện vọng chủ quan. Chúng ta sẽ đạt được tất
cả những gì mong muốn, vượt lên trên cả những đòi hỏi của thực tiên, của những
5


quy luật khách quan đang tác động trong đời sống kinh tế - xã hội. Đó là thứ ảo
tưởng mà V.I. Lênin đã từng phê phán khi ông chỉ ra rằng nhiệt tình cách mạng chỉ
là một trong những yếu tố chứ không phải là yếu tố duy nhất quyết định sự ra đời
một chế độ xã hội mới, nó chỉ có thể phá vỡ được cái cũ chứ khơng thể xây dựng
cái mới. Còn khi xem xét mối quan hệ giữa yếu tố chính trị và yếu tố kinh tế, chúng

ta thường dành quyền ưu tiên cho yếu tố chính trị. Chính việc vi phạm mối quan hệ
này, việc tuyệt đối hóa yếu tố chính trị đã dẫn chúng ta đến chỗ tuyệt đối hóa
chun chính vơ sản, coi nó là tất cả, có nó sẽ có tất cả và khơng thấy ràng nó chỉ là
cơng cụ, là phương tiện cho sự ra đời một chế độ xã hội mới.
Có thể khẳng định rằng cơng cuộc đổi mới mà chúng ta đang tiến hành sẽ
không thể thành công nếu chúng ta không kiên quyết khắc phục chủ nghĩa chủ quan
duy ý chí. Chúng ta phải làm cho nó khơng cịn là một căn bệnh trầm trọng như nó
đã từng là như vậy. Nhưng khi khắc phục nó, xóa bỏ nó chúng ta phải đề phịng chủ
nghĩa chủ quan mới, duy ý chí mới - sự bảo thủ, trì trệ, đổi mới nửa vời.
VD: Thủ tục hành chính chưa theo hướng thống nhất, công khai, minh bạch, đơn
giản, các thủ tục hành chính vẫn cịn gây phiền hà, sách nhiễu cho nhân dân và các
doanh nghiệp.
Câu 2: Liên hệ vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ việc
nghiên cứu hai nguyên lý và ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
vào công tác thực tiễn ?
1. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
1.1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
a. Nội dung của nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
* Khái niệm
- Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự
tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các
yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
VD: Mối liên hệ giữa điện tích dương và điện tích âm trong một nguyên tử; mối
liên hệ giữa các nguyên tử, giữa các phân tử, giữa các vật thể; mối liên hệ giữa vô cơ với
hữu cơ; giữa sinh vật với môi trường; giữa xã hội với tự nhiên; giữa cá nhân với cá nhân;
giữa cá nhân với tập thể, cộng đồng; giữa các quốc gia, dân tộc; giữa các mặt, các bộ
phận của đời sống xã hội; giữa tư duy với tồn tại; giữa các hình thức, giai đoạn nhận
thức; giữa các hình thái ý thức xã hội…
- Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều
sự vật, hiện tượng của thế giới.

- Trong mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng, những mối liên hệ phổ biến nhất
là mối liên hệ giữa các mặt đối lập, mối liên hệ giữa lượng và chất, khẳng định và phủ
định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng…Giữa các sự vật, hiện tượng của
thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến
trong phạm vi nhất định hoặc mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó mối liên hệ đặc thù là
sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định.
* Tính chất của các mối liên hệ
- Tính khách quan của các mối liên hệ: Theo quan điểm biện chứng duy vật,
6


các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Sự
quy định lẫn nhau, tác động và chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng
hoặc trong bản thân chúng là cái vốn có của nó, tồn tại khơng phụ thuộc vào ý chí
con người; con người chỉ có khả năng nhận thức được những mối liên hệ đó.
- Tính phổ biến của mối liên hệ: Khơng có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình
nào tồn tại một cách riêng lẻ, cô lập tuyệt đối với các sự vật, hiện tượng hay quá trình
khác mà trái lại chúng tồn tại trong sự liên hệ, ràng buộc, phụ thuộc, tác động, chuyển
hóa lẫn nhau. Khơng có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ
thống, bao gồm các yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất
cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống mở tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống
khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ: Các sự vật, hiện tượng hay q trình
khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trị khác nhau đối
với sự tồn tại và phát triển của nó; Cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng
trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình
vận động, phát triển của sự vật thì cũng có tính chất và vai trị khác nhau.
- Tính cụ thể trong khơng gian và thời gian: khơng gian, thời gian khácnhau
thì mối liên hệ sẽ khác nhau.
* Nội dung của nội dung các mối liên hệ

Mối liên hệ của sự vật, hiện tượng trong thế giới rất phong phú đa dạng, trong
tính phong phú đa dạng ấy vai trị vị trí của các mối liên hệ đối với sự tồn tại và
phát triển của sự vật là khác nhau.
Những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu, bên trong… đóng vai trị quyết định sự
tồn tại và phát triển của sự vật. Còn các mối liên hệ khơng cơ bản, thứ yếu, bên
ngồi… chỉ ảnh hưởng chứ không quyết định.
VD: Hiện nay, Đảng ta đang xác định phải đổi mới đồng bộ công tác GD-ĐT,
trong đó quan trọng nhất và đóng ý nghĩa quyết định nhất là đổi mới đội ngũ con
người, nâng cao trình độ của lực lượng giáo viên để thực hiện công tác dạy và học
là là trọng tâm, là mối liên hệ cơ bản, chủ yếu.
b. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện,
quan điểm lịch sử - cụ thể.
* Quan điểm toàn diện
- Trong nhận thức: Xem xét đánh giá sự vật phải toàn diện, đồng thời phải xác
định đúng vai trị vị trí của từng mối liên hệ.
- Trong hoạt động thực tiễn: Muốn cải tạo sự vật phải sử dụng đồng bộ các
biện pháp, phương tiện khác nhau, lực lượng khác nhau, đồng thời phải biết kết hợp
với chính sách có trọng tâm, trọng điểm, chống quan điểm phiến diện, chủ nghĩa
chiết trung, thuật ngụy biện.
- Ý nghĩa:
+ Khi xem xét bất cứ 1 sự vật hiện tượng nào, chúng ta phải đặt nó trong quan hệ
với sự vật hiện tượng khac, phải nghiên cứu các mặt cấu thành của nó, các q trình
phát triển của nó, từ trong tổng số mối liên hệ, tìm ra mối liên hệ bản chất chủ yếu …
7


+ Để cải tạo sự vật thì phải có giải pháp đồng bộ, toàn diện, chọn lĩnh vực nào là
chủ yếu.
+ Chống quan niệm siêu hình, khơng thấy được trọng tâm, trọng điểm, đánh

giá tràn lan các mối liên hệ, không thấy đâu là chủ yếu.
+ Chống chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện. Trong đó, chủ nghĩa chiết
trung là kết hợp 1 cách vô nguyên tắc giữa các sự vật, hỉện tượng
+ Khi giải quyết 1 vấn đề cần xem xét các yếu tố cấu thành liên hệ mật thiết,
phải xem xét yếu tố lịch sử hình thành trong mối tương quan với hiện tại.
VD: Hiện tôi đang công tác tại UBND phường tôi đã xác định rõ để thực hiên
công tác phụ nữ, phấn đấu thực hiện các nhiệm vụ của phụ nữ thật tốt và theo chủ
trương của Đảng ủy – UBND cũng như là Hội LHPN Quận
* Quan điểm lịch sử - cụ thể
- Yêu cầu việc nhận thức các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần xét đến
tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tác động; xác định rõ vị trí vai trị khác
nhau của mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để đưa ra các biện pháp
đúng đắn phù hợp với đặc điểm cụ thể của đối tượng; phải chú ý đến điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử cụ thể mà sự vật đó sinh ra, tồn tại, biến đổi và phát triển, chống bệnh
chung chung trừu tượng, không lịch sử, không cụ thể; phiến diện, siêu hình, máy móc.
- Ý nghĩa: Góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để thực hiện được
chúng, mỗi chúng ta cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo
trong hoạt động của mình.
VD: Hiện tơi đang cơng tác tại UBND phường 12 về công tác phụ nữ, dựa vào các
hệ thống chỉ tiêu 5 nhiệm vụ và Nghị quyết của Đảng bộ phường, nhận thức được điều
này, Hội phường đã xây dựng Nghị quyết và lãnh đạo các chi hội thực hiện Chương
trình cơng tác năm của đơn vị, Kế hoạch để thực hiện.
1.2. Nguyên lý về sự phát triển
a. Nội dung của nguyên lí về sự phát triển
* Phát triển
- Là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
* Phân biệt vận động và phát triển:

- Vận động: Là mọi sự biến đổi nói chung, chưa tính đến tính chất, khuynh
hướng hay kết quả của nó.
- Phát triển: Cũng là sự vận động nhưng theo khuynh hướng đưa sự vật đi lên
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
- Phép BCDV khẳng định:
+ Phát triển là khuynh hướng chung của sự vận động của thế giới.
+ Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là tự thân, do đấu tranh giữa các mặt
đối lập (MĐL) ngay trong chính bản thân sự vật.
+ Cách thức của sự phát triển là q trình chuyển hóa dần dần về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất và ngược lại.
8


+ Khuynh hướng của sự phát triển là theo con đường phủ định của phủ định.
- Sự phát triển thực hiện rất khác nhau trong hiện thực, tùy thuộc vào hình
thức tồn tại cụ thể của các dạng VC:
* Tính chất của sự phát triển
- Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận
động và phát triển. Đó là q trình bắt nguồn từ bản thân sự vật hiện tượng, là quá
trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật hiện tượng. Vì vậy phát triển là thuộc tính tất
yếu, khách quan, khơng phụ thuộc vào ý thức của con người
- Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn
ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ phát triển là
khuynh hướng chung của mọi sự vật hiện tượng mỗi lĩnh vực có q trình phát triển
khơng hồn tồn giống nhau. Sự vật khác nhau thì sự phát triển cũng khác nhau,
tồn tại ở những giai đoạn khác nhau thì sự phát triển diễn ra cũng khác nhau.
b. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí về sự phát triển
Là cơ sở lý luận khoa học để xây dựng quan điểm phát triển
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng nhận thức

thế giới và cải tạo thế giới. Xem xét, đánh giá các SVHT phải đặt nó trong sự vận
động biến đổi và phát triển, phải thấy được khuynh hướng phát triển tất yếu của nó.
Quan điểm phát triển địi hỏi phải khác phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định
kiến, đối lập với sự phát triển. Xây dựng tinh thần lạc quan, khoa học.
Chống quan điểm siêu hình, tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, phủ nhận cái
mới, phủ nhận sự phát triển.
Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong
thực tiễn, một mặt cần phải đặt sự vật theo khuynh hướng đi lên của nó vì vậy địi
hỏi phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong q
trình phát triển của nó.
Như vậy với tư cách là khoa học về mối quan hệ phổ biến và sự phát triển,
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mac-Lênin giữ 1 vai trò đặc biệt quan trọng
trong nhận thức và thực tiễn; khẳng định vai trò của phép biện chứng duy vật.
2. Ba Quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
2.1. Nội dung của Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Vai trò của quy luật: Đây là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng,
nói lên nguồn gốc động lực của sự phát triển.
V.I. Lê nin gọi quy luật này là hạt nhân của phép biệt chứng, nghĩa là nắm bắt
được quy luật này sẽ là cơ sở để hiểu các quy luật khác và hiểu được nguồn gốc vận
động, phát triển của mọi hiện tượng; là cơ sở để nghiên cứu các Quy luật khác.
a. Khái niệm
- Mặt đối lập là những mặt mang những lực lượng, thuộc tính, khuynh
hướng… liên hệ hữu cơ với nhau nhưng vận động ngược chiều, bài trừ, gạt bỏ lẫn
nhau.
- Mâu thuẫn biện chứng là sự liên hệ, tác động lẫn nhau của các mặt đối lập.

9


Đây là mâu thuẫn tất yếu, tồn tại trong các sự vật, hiện tượng.

- Thống nhất của các mặt đối lập là sự liên hệ hữu cơ với nhau, không tác rời,
nương tựa và bổ sung cho nhau.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động, phủ định, bài trừ và gạt bỏ lẫn
nhau, làm cho mâu thuẫn được giải quyết, được chuyển hóa lẫn nhau.
b. Nội dung của Quy luật (thể hiện quan điểm khách quan, quan điểm toàn
diện, quan điểm thực tiễn => quy luật mâu thuẫn)
- Tất cả các sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau, tức
những mặt đối lập trong sự tồn tại của nó. Các mặt đối lập của sự vật vừa thống nhất vừa
đấu tranh với nhau tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự vật.
Phép biện chứng duy vật đã đưa ra và sử dụng các khái niệm: mặt đối lập,
mâu thuẫn biện chứng, sự thống nhất của các mặt đối lập, đấu tranh của các mặt
đối lập để diễn đạt mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
trong bản thân sự vật - tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát
triển của sự vật.
- Mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác
nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng bao
hàm cả “sự thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự thống nhất gắn liền với
sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối
của sự vận động và phát triển.
Sự phát triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và
giải quyết mâu thuẫn. Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các
mặt đối lập quy định sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát
triển. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn
nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể
thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế.
c. Ý nghĩa của Quy luật
- Về tư tưởng, chúng ta không sợ và không che giấu mâu thuẫn. Để hiểu và thúc
đẩy sự vận động và phát triển của sự vật, ta phải phát hiện và giải quyết mâu thuẫn.
Ví dụ: Đấu tranh giữa cái đúng và cái sai, bản chất thiện và ác trong bản thân

mỗi con người đã làm cho nhận thức con người ngày càng hồn thiện phát triển.
- Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự vật và là
khách quan trong bản thân sự vật nên cần phải phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật bằng
cách phân tích sự vật tìm ra những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau và mối
liên hệ, tác động lẫn nhau giữa chúng.
- Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể, biết phân loại mâu thuẫn và
tìm cách giải quyết cụ thể đối với từng mâu thuẫn.
- Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn - phù hợp với từng loại mâu
thuẫn, trình độ phát triển của mâu thuẫn. Khơng được điều hịa mâu thuẫn. Phải tìm
ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn khi điều kiện đã
chín muồi, do vậy khơng được tùy tiện, nóng vội, phải xác định đúng trạng thái
chín muồi của mâu thuẫn, tạo điều kiện thúc đẩy sự chín muồi của mâu thuẫn, tìm
10


ra biện pháp, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ
chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn có hiệu quả.
- Phải có quan điểm lịch sử cụ thể trong việc phân tích và giải quyết mâu thuẫn.
Phân tích mâu thuẫn là xác định rõ loại hình của mâu thuẫn, trình độ phát triển của mâu
thuẫn để từ đó tìm ra phương thức giải quyết thích hợp. Chỉ khi phân tích rõ được mâu
thuẫn mới có thể định hướng ra đường lơi chiến lược hoặc sách lược đúng đắn, Nhận
định không đúng về mâu thuẫn sẽ dẫn đến những quyết định và hành động sai lầm.
- Mâu thuẫn chỉ có thể được giải quyết bằng con đường đấu tranh dưới những
hình thức và biện pháp khác nhau.
VD: Hiện nay tôi đang công tác tại UBND Phường 12, hàng tháng Hội LHPN
đều tổ chức sinh hoạt định kỳ, qua đó nhận thấy trong tổ chức chúng tơi khơng có
xảy ra các mâu thuẫn; tuy nhiên khi họp ln ln phân tích, tìm ra những mâu
thuẫn còn bất cập trong đơn vị, tiến hành việc đấu tranh phê bình và tự phê bình
để tự tìm ra những mâu thuẫn đang cịn tồn tại, từ đó rút kinh nghiệm, kịp thời đề
ra những giải pháp khắc phục những thiếu sót đó và xây dựng tổ chức ngày càng

trong sạch, vững mạnh.
2.2. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi
về chất và ngược lại
Vai trò của quy luật: Quy luật chỉ ra cách thức của sự vận động và phát triển
của các SVHT trong TGKQ.
a. Một số khái niệm
- Chất: Là tính quyết định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu
cơ những thuộc tính làm cho sự vật là nó và phân biệt nó với những sự vật khác.
- Lượng: Là phạm trù triết học để chỉ tính quyết định vốn có của sự vật về mặt
số lượng, quy mơ, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng
như các thuộc tính của nó.
- Độ: Là khoảng giới hạn tồn tại của sự vật mà trong giới hạn đó sự thay đổi
về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật.
- Điểm nút: Là điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay
đổi chất của sự vật.
- Bước nhảy: Là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự
vật do những thay đổi vể lượng trước đó gây ra. Các hình thức bước nhảy xét về
thời gian và tính chất của sự thay đổi về chất người ta chia làm 2 loại: Bước nhảy
dần dần và bước nhảy đột biến (ví dụ). Xét về quy mơ có: bước nhảy toàn bộ và
bước nhảy cục bộ.
b. Nội dung quy luật
- Mỗi SVHT là 1 thể thống nhất giữa chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về
lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn tới sự thay đổi căn bản về chất
của sự vật thông qua bước nhảy.
- Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng tạo ra môi trường,
điều kiện mới cho sự thay đổi về lượng.
=> Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng biến đổi,
phát triển.
11



c. Ý nghĩa phương pháp luận
Vì mọi sự biến đổi đều bắt đầu từ sự biến đổi về lượng nên trong các hoạt động
trước hết phải chú ý đến sự tăng trưởng và tích lũy về lượng, tránh tư tưởng nơn nóng, đốt
cháy giai đoạn.
Muốn thay đổi chất của sự vật thì phải tác động làm thay đổi lượng của nó.
Đối với một chất xác định, sự biến đổi về lượng là có giới hạn. Vì vậy, khi sự
biến đổi về lượng đã đến điểm nút phải có sự biến đổi kịp thời, tránh tư tưởng hữu
khuynh (bảo thủ, trì truệ, chần chừ) hoặc tư tưởng tả khuynh (nóng vội).
Nắm vững quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng đối với cơng cuộc đổi mới
đất nước ta hiện nay.
Ví dụ: Hiện các thế lực thù địch đang không ngừng chống phá cách mạng
nước ta, chống phá công cuộc xây dựng CNXH Việt Nam bằng chiến lược “diễn
biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ. Thực chất của chiến lược này là tác động liên tục
và lâu dài để đến điểm nút nào đó nhằm từng bước làm suy giảm lịng tin vào lý
luận cách mạng, vào ĐCS Việt Nam. Thông qua sự biến đổi về lượng, các thế lực
phản động muốn làm thay đổi về chất đội ngũ cán bộ và cả chế độ xã hội. Vì thế,
phải khơng ngừng đấu tranh, nâng cao tinh thần cảnh giác, chống lại âm mưu thâm
độc của kẻ thù.
2.3. Quy luật phủ định của phủ định
Vai trò của quy luật: Chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển của các SVHT trong
thế giới.
a. Các khái niệm
- Quan điểm siêu hình: Phủ định là sự tác động từ bên ngoài dẫn đến thủ tiêu
sự vật, chấm dứt sự phát triển của nó.
- Quan điểm biện chứng: Phủ định là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát
triển là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với
cái bị phủ định.
Phủ định biện chứng có 2 đặc trưng: Tính khách quan và tính kế thừa.
+ Tính khách quan: Là q trình tự thân phủ định do đấu tranh giữa các MĐL của

sự vật.
+ Tính kế thừa: Là sự duy trì một số đặc trưng, đặc điểm của cái bị phủ định.
b. Nội dung quy luật
- Sự phát triển của sự vật luôn thông qua những lần phủ định biện chứng với
những chu kỳ nhất định, mỗi chu kỳ là 1 vòng khâu của sự phát triển.
- Để hình thành 1 chu kỳ phát triển sự vật phải trải qua 2 lần phủ định lớn:
+ Phủ định lần 1: Tạo ra cái đối lập với cái ban đầu, đó là khâu trung gian
trong sự phát triển.
+ Phủ định lần 2: Tái lập lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở mới cao hơn, sự phủ
định lần thứ 2 được gọi là phủ định của phủ định.
=> Phủ định của phủ định: là kết thúc 1 chu kỳ phát triển nhưng lại là điểm
xuất phát của 1 chu kỳ tiếp theo. Sự nối tiếp vô tận của những chu kỳ tạo ra xu
hướng tiến lên theo con đường xoáy ốc của sự phát triển.

12


c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Do phát triển bao giờ cũng thơng qua các vịng khâu phủ định nên muốn phát
triển được phải có tinh thần cách mạng, đấu tranh để loại bỏ, vượt qua những cái gì
đã lạc hậu, lõi thời, khơng cịn phù hợp với sự phát triển.
- Quy luật là cơ sở lý luận khoa học để xây dựng niềm tin vào sự tất thắng của
cái mới.
- Quy luật cũng chỉ ra tính chất khó khăn phức tạp của sự ra đời cái mới, địi
hỏi có thái độ quý trọng, ủng hộ cái mới, tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ.
- Khi phủ định cái cũ phải chống quan điểm phủ định sạch trơn hay kế thừa
nguyên si, thiếu chọn lọc phê phán.
Ví dụ: Cơng cuộc đổi mới của nước ta trước thời kì đổi mới (1976-1985), khi cơ sở vật
chất con chưa có chúng ta nơn nóng mn đốt cháy giai đoạn nên đã phải trả giá, đất nước
lầm vào khủng hoảng trì truệ. Từ sau Đại Hội Đảng lần VI (12/1986) đến nay, chúng ta

phát triển theo cơ chế thị trường với nhiều hình thức cụ thể tác động vào quá trình phát
triển kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCH, xây dựng cơ
sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa, kế thừa và phát triển tích cực những kết quả của công
nghiệp tư bản như thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ - môi trường; mở rộng
giao lưu kinh tế nước ngồi, nhanh chóng hội nhập vào tổ chức thương mại thế giới, đa
phương hố và đa dạng hố hình thức và đối tác… Từ đó, đất nước ta đã đổi mới, thốt
khỏi nghèo nàn, lạc hậu, bước đầu xây dựng thành công công cuộc XHCN, tiến mạnh
trên CNH-HĐH, vị thế nước ta ngày càng nâng cao trên trường quốc tế.
Câu 3: Phân tích ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu mối
quan hệ giữa lý luận và thực tiễn? Liên hệ vận dụng vào công tác thực tiễn? Phê
phán một số biểu hiện của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong tư duy
lãnh đạo, quản lý hiện nay?
Sự gắn kết giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn ln là một địi hỏi
cấp bách và là một phương thức để mang đến thành công cho hoạt động của mỗi cá
nhân, của tổ chức và của một chính đảng. Nhận thức đúng và giải quyết hợp lý mối
quan hệ biện chứng tác động qua lại của lý luận và thực tiễn, dùng lý luận làm kim
chỉ nam cho hoạt động thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, thực tiễn
phải là cơ sở, động lực của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý . ln là chìa khóa
để để giải quyết mọi vướng mắc trên con đường đi đến mục tiêu đã định. Ngược lại,
nhận thức không đúng và giải quyết không tốt mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, kinh viện và chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc chủ quan
duy ý chí, tất nhiên sẽ dẫn đến những thất bại mà đối với một chính đảng, sự thất
bại đó có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
1. Thực tiễn
* Trước Mác:

13


- CNDV: khơng thấy được vai trị của thực tiễn đối với nhận thức và cải tạo thế

giới;
- CNDT: xem hoạt động thực tiễn như hoạt động tinh thần, hoạt động lý luận.
* Quan điểm của Mác
- Thực tiễn là tồn bộ hoạt động Vật chất mang tính lịch sử - xã hội của con người
nhằm mục đích cải tạo tự nhiên - xã hội.
- Phân tích:
+ Trong xã hội có 2 hoạt động là hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần, nhưng
chỉ có hoạt động vật chất mới được xem là thực tiễn, bởi vì hoạt động vật chất là hoạt
động con người dùng công cụ, phương tiện VC tác động vào đối tượng VC.
+ Hoạt động thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội do có 4 điểm sau: Ln diễn
ra trong xã hội xác định với những mối quan hệ xã hội cụ thể; Chỉ diễn ra ở trong 1
giai đoạn, trong 1 thời kỳ lịch sử nhất định; Khơng có hoạt động thực tiễn nào tồn
tại vĩnh viễn; Mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau con người sử dụng công cụ, phương
tiện khác nhau, cách thức khác nhau để hoạt động thực tiễn.
+ Mục đích của hoạt động thực tiễn là tác động để cải tạo tự nhiên- xã hội, từ đó
thúc đẩy tự nhiên và xã hội phát triển.
- Hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn, bao gồm:
+ Hoạt động sản xuất ra của cải VC: Đây là hoạt động thực tiễn sớm nhất của
con người nhưng là hoạt động cơ bản quyết định nhất vì nó quyết định đến sự tồn
tại và phát triển của xã hội loài người, chi phối 2 hoạt động còn lại.
+ Hoạt động đấu tranh chính trị - xã hội: Đây là hoạt động thực tiễn cao nhất
của con người vì thơng qua hoạt động này con người trực tiếp lao động, cải biến
các mối quan hệ xã hội từ đó thúc đẩy xã hội phát triển, như hoạt động đấu tranh
giai cấp; đấu tranh giải phóng dân tộc, đỉnh cao là CMXH....
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học: Đây là hoạt động thực tiễn đặc biệt của
con người vì hoạt động thực tiễn này không trực tiếp diễn ra ở môi trường xã hội
mà thông qua môi trường nhân tạo con người phát hiện ra quy luật, thuộc tính của
VC và khi thành cơng thì đem ra ứng dụng thực tế.
2. Lý luận
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài

người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá
trình lịch sử.
Xét về bản chất: lý luận là một hệ thống tri thức chặt chẽ mang tính trừu tượng
khái quát, đúc kết từ thực tiễn, được diễn đạt thông qua các khái niệm, phạm trù,
nguyên lý, quy luật, phản ánh bản chất của sự vận động, biến đổi, phát triển của sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, được hình thành
trong mối quan hệ với thực tiễn.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ với nhau, tác động qua lại nhau,
trong đó thực tiễn giữ vai trị quyết định.
a. Vai trị quyết định của thực tiễn đối với lý luận
14


* Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
- Là cơ sở vì thơng qua hoạt động sản xuất ra của cải vật chất, con người tác động
vào thế giới khách quan làm cho các sự vật, hiện tượng bộc lộ những đặc điểm, thuộc
tính, bản chất, quy luật được giác quan con người phản ánh lại. Trải qua nhiều lần như
vậy, các giác quan của con người sẽ ghi nhận lại và con người sẽ có được nhận thức về
thế giới khách quan.
VD: Người nông dân qua nhiều lần trồng trọt có thể tìm ra các biện pháp,
cách thức để cải tạo, lai giống và nâng cao năng suất cho cây trồng.
- Là nguồn gốc vì thơng qua hoạt động thực tiễn giúp rèn luyện các giác quan
bộ não làm cho năng lực phản ánh của các giác quan bộ não ngày càng phát triển,
hoàn thiện, từ đó giúp nhận thức của con người cũng ngày càng phát triển, hồn
thiện hơn.
VD: Người bác sĩ qua q trình học tập và làm việc, chỉ cần qua phim ảnh,
triệu chứng lâm sàng và hỏi bệnh nhân là xác định được tình trạng bệnh tật của họ.
- Hoạt động thực tiễn giúp con người chế tạo các công cụ, phương tiện hỗ trợ

để “nối dài các giác quan của con người”, làm cho giác quan, bộ não ngày càng
hoàn thiện, nhờ đó phản ánh thế giới vật chất chính xác, khắc phục được giới hạn
nhận thức của con người.
VD: Kính viễn vọng giúp nhìn xa hơn; điện thoại di động giúp nghe từ xa và
liên lạc ngày càng thuận tiện.
* Thực tiễn là động lực của quá trình nhận thức
- Thông qua hoạt động thực tiễn làm xuất hiện hàng loạt những mâu thuẫn giữa
đúng và sai; giữa nhận thức cũ và thực tiễn mới; buộc con người phải lý giải, tìm cách
giải quyết các mâu thuẫn đó; khi mâu thuẫn được giải quyết, sẽ thúc đẩy nhận thức của
con người không ngừng phát triển tăng lên.
VD: Tại Việt Nam những năm 1975-1986, do áp dụng cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, đã làm xảy ra khủng hoảng kinh tế - xã hội; điều đó địi hỏi Đảng ta trên thực
tiễn đất nước phải nhận thức và đổi mới; từ đó Đại hội VI Đảng ta đã đổi mới và nhờ
đó đưa đất nước thốt khỏi khủng hoảng.
- Thực tiễn luôn vận động, biến đổi không ngừng, đặt ra cho con người những
nhu cầu, nhiệm vụ mới, do vậy mỗi bước đi lên của thực tiễn trở thành động lực thúc
đẩy nhận thức của con người phát triển theo.
* Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Kết quả của nhận thức phải hướng dẫn, định hướng, tổ chức, động viên hoạt
động thực tiễn có hiệu quả, chỉ khi ấy nhận thức mới hồn thành chức năng, nhiệm
vụ của nó (hướng dẫn hoạt động thực tiễn nhằm mục đích cải tạo Thế giới khách
quan).
VD: Hiện nay trên đất nước ta đang xảy ra nhiều dịch cúm như H5N1, H7N9
…; điều đó địi hỏi các nhà lãnh đạo, đặc biệt là của Bộ NN-PTNT, các nghiên cứu
khoa học phải không ngừng nghiên cứu để tìm ra biện pháp khắc phục.
* Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức (chân lý).
Chỉ thông qua hiệu quả của hoạt động thực tiễn mới khẳng định được nhận thức
của con người là đúng hay sai, đúng sai đến đâu, mức độ nào. Tuy nhiên, những tri thức
15



được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng cũng chỉ mang tính tương đối.
VD: Tại Việt Nam những năm 1975-1986, do áp dụng cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp đã xảy ra khủng hoảng kinh tế - xã hội; qua gần 30 năm Đảng ta tiến hành đổi
mới đất nước theo hướng CNH-HĐH, đã đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Điều
đó đã chứng minh nhận thức của Đảng ta sau Đại Hội Đảng lần VI (12/1986) là đúng
đắn.
b. Vai trò tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn
Lý luận có thể thúc đẩy tiến trình phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận
khoa học và ngược lại có thể kìm hãm sự phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận
phản khoa học, phản động, lạc hậu.
Lý luận khoa học sẽ trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Nó hướng
dẫn, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra phương pháp giúp hoạt động thực tiễn
đi tới thành công. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "Khơng có lý luận thì lúng túng như
nhắm mắt mà đi".
Lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng đắn về những quy luật vận
động và phát triển của thế giới khách quan, giúp con người xác định đúng mục tiêu
để hành động có hiệu quả hơn, tránh được những sai lầm, vấp váp.
Lý luận khoa học thâm nhập vào hoạt động của quần chúng tạo nên sức mạnh
vật chất, điều chỉnh hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động của con người trở nên
tự giác, chủ động, tiết kiệm được thời gian, cơng sức, hạn chế những mị mẫm, tự
phát.
Lý luận khoa học dự kiến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng trong
tương lai, từ đó chỉ ra phương hướng mới cho sự phát triển. Con người ngày càng đi sâu
khám phá giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những phương tiện khoa học hiện đại thì
càng cần có những dự báo đúng đắn. Nếu dự báo không đúng sẽ dẫn đến những sai lầm,
hậu quả xấu khơng thể lường được trong thực tiễn. Vì thế, chức năng dự báo tương lai là
chức năng quan trọng của lý luận.
Lý luận cách mạng có vai trị to lớn đối với thực tiễn cách mạng. Lênin cho
rằng: "Không có lý luận cách mạng thì khơng thể có phong trào cách mạng". Mác

thì nhấn mạnh: "Lý luận khi thâm nhập vào quần chúng thì nó biến thành lực lượng
vật chất".
Vai trò của lý luận khoa học ngày càng tăng lên, đặc biệt trong giai đoạn mới
của thời đại ngày nay, thời đại của cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc diễn ra gay
go, phức tạp, cùng với sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ. Ăngghen chỉ ra rằng: một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao
khoa học thì khơng thể khơng có tư duy lý luận.
Sự lạc hậu, giáo điều về lý luận dẫn đến sự khủng hoảng về lý luận của chủ
nghĩa xã hội trong thời gian qua là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng
hoảng của chủ nghĩa xã hội nói chung, cụ thể là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu trước đây.
c. Nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Theo quan điểm mácxít, lý luận và thực tiễn khơng tách rời nhau mà giữa
chúng có sự liên hệ, xâm nhập và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển.

16


Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của triết học
Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin là tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý
luận và thực tiễn trong qúa trình hình thành và phát triển của nó.
Lý luận Mác - Lênin là sự khái quát thực tiễn Cách mạng và lịch sử xã hội, là
sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực khác
nhau. Sức mạnh của nó là ở chỗ gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội, được kiểm
nghiệm, bổ sung trong thực tiễn. Chính vì vậy mà nó có vai trị cải tạo thế giới chứ
khơng chỉ giải thích thế giới. Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác Lênin nói riêng đã tìm thấy ở giai cấp vơ sản vũ khí vật chất của mình và giai cấp
vơ sản đã tìm thấy ở triết học Mác - Lênin vũ khí tinh thần của mình.
Lênin từng nhắc nhở những người cộng sản ở các nước phải biết cụ thể hóa
chủ nghĩa Mác - Lênin cho thích hợp với điều kiện, hồn cảnh từng lúc, từng nơi.
Lý luận cần phải được bổ sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn

sinh động.
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: "Thống nhất lý luận với thực tiễn là nguyên tắc căn
bản của triết học Mác - Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực
tiễn mù qng. Lý luận mà khơng liên hệ với thực tiễn là lý luận sng" hoặc "Có
kinh nghiệm mà khơng có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ".
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Là cơ sở lý luận để xây dựng quan điểm thực tiễn:
- Nhận thức, xây dựng chính sách, mục tiêu, kế hoạch hoạt động phải dựa,
phải xuất phát từ thực tiễn khách quan.
- Ln bám sát, gắn bó với thực tiễn; nếu khơng bám sát thực tiễn thì chúng ta
sẽ khơng thấy được những thay đổi mà trong quá trình hoạt động đã tác động lên
nó.
Do vai trị của thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức; là động lực của
q trình nhận thức và là mục đích của nhận thức.
+ Thường xuyên tổng kết, rút bài học kinh nghiệm, khái quát thực tiễn để nâng lên
thành lý luận để quay lại định hướng cho thực tiễn phát triển. Khái quát từ thực tiễn
nhằm bổ sung, sữa chữa những nhận thức cho phù hợp với thực tiễn mới.
+ Chú trọng tổ chức triển khai lý luận, chính sách, mục tiêu trong hoạt động thực
tiễn cho có hiệu quả. Muốn vậy phải chú trọng ngay từ các khâu ban đầu như lựa chọn;
triển khai; phổ biến thực hiện; phân công tổ chức; xây dựng chương trình, kế hoạch; đơn
đốc, kiểm tra; khen thưởng - xử lý kỷ luật cho đến khâu tổng kết đánh giá.
- Việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa rất
quan trọng, giúp chúng ta tránh được bệnh kinh nghiệm cũng như bệnh giáo điều và
rút ra được những quan điểm đúng đắn trong nhận thức và cuộc sống. .
Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ
sở thực tiễn, sâu sát thực tiễn, tổ chức hoạt động thực tiễn để triển khai lý luận, phải
coi trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung phát triển lý luận. Việc nghiên cứu
lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đơi với hành, tránh tình trạng quan liêu,
sách vở, xa rời thực tiễn.
Đồng thời cần phải phát huy vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Phát huy vai

17


trị của lý luận u cầu phải nâng cao trình độ tư duy lý luận, đổi mới phương pháp
tư duy cho toàn Đảng, toàn dân nghĩa là chuyển từ tư duy kinh nghiệm sang tư duy
lý luận, từ tư duy siêu hình, duy tâm sang tư duy biện chứng duy vật; đổi mới công
tác lý luận, hướng công tác lý luận vào những vấn đề do cuộc sống đặt ra, làm rõ
những căn cứ khách quan của đường lối chính sách của Đảng.
 Phải khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong tư duy lãnh
đạo và quản lý hiện nay
Nếu coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn thì sẽ dẫn đến sai
lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
+ Bệnh kinh nghiệm: là căn bệnh tuyệt đối hóa kinh nghiệm, nhận thức và
hành động chỉ dựa vào kinh nghiệm, đề cao vai trị thực tiễn, hạ thấp lý luận, khơng
chịu học hỏi để vương lên, không coi trọng việc tổng kết thực tiễn để khái quát
thành lý luận. Thể hiện ở chỗ tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi thường lý luận, “chỉ
biết tối ngày vùi đầu vào cơng tác sự vụ”, ít đào sâu suy nghĩ, nhất là đối với những
người trình độ văn hố kém, ít quen đọc sách và suy nghĩ, áp dụng kinh nghiệm
một cách thiếu sáng tạo.
+ Bệnh giáo điều: là căn bệnh tuyệt đối hóa lý luận, nhận thức và hành động chỉ
dựa vào lý luận, coi lý luận là "chìa khóa vạn năng" cho tư duy và hành động, bất chấp
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Thể hiện ở chỗ: coi tri thức là chân lý tuyệt đối, là cứng
nhắc, tách lý luận khỏi thực tiễn, rơi vào bệnh lý luận suông, không biết cụ thể hóa lý
luận cách mạng cho thích hợp với điều kiện, hồn cảnh của từng lúc, từng nơi, khơng
biết bổ sung lý luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động và vận dụng một cách máy
móc, rập khn, cứng nhắc, thiếu sáng tạo vào hoạt động nhận thức cũng như hoạt động
cải tạo hiện thực mà không chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể đối tượng, mang lại hiệu
quả xấu cho hoạt động lý luận và thực tiễn.
Để khắc phục hai căn bệnh trên cần phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực
tiễn, thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận, đồng thời phải

coi trọng lý luận, nâng cao trình độ tư duy lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu
“phải học tập tinh thần chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập lập trường quan điểm và
phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng giải quyết cho tốt những vấn đề
thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”. Từ nhận thức đúng đắn mối quan
hệ biện chứng giưa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã phê phán sai lầm của chủ
nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều.
VD: Xây dựng chương trình, cơng tác năm 2016 tại đơn vị phải dựa trên chức
năng, nhiệm vụ đơn vị được giao; dựa trên thực tiễn tình hình đã thực hiện các
nhiệm vụ của đơn vị để đề ra mục tiêu, phương hướng, kế hoạch, chương trình và
biện pháp thực hiện. Phải thường xuyên sơ kết 6 tháng, tổng kết đánh giá năm để
rút ra kinh nghiệm, đề ra phương hướng thực hiện trong thời gian tiếp theo.

18


Bài 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
DUY VẬT LỊCH SỬ
Câu 1: Trình bày ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất ? Liên hệ sự vận dụng quy luật này trên đất nước ta?
1. Nội dung của Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển
của Lực lượng sản xuất
Đây là quy luật kinh tế cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của xã hội loài
người. Sự tác động của quy luật đó cùng các quản lý khác đã làm cho xã hội vận động
và phát triển từ thấp đến cao.
Mỗi xã hội đặc trưng bằng 1 PTSX nhất định. Sự thay thế kế tiếp nhau của các
PTSX trong lịch sử quyết định sự phát triển XH loài người từ thấp đến cao.
Theo quan điểm Chủ nghĩa duy vật lịch sử, SXVC là nền tảng của toàn bộ đời
sống xã hội, PTSX là nhân tố quyết định tính chất và kết cấu của xã hội, là chỉnh thể
thống nhất của 2 mặt SXVC là LLSX ở 1 trình độ nhất định và QHSX tương ứng. Vậy

LLSX là gì? QHSX là gì? MQH giữa LLSX-QHSX như thế nào?
a. Các khái niệm
* Lực lượng sản xuất (LLSX):
- Là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất.
- LLSX gồm 2 yếu tố: Người lao động và tư liệu sản xuất (TLSX)
+ Người lao động: hội đủ 3 nhân tố là thể lực; trí lực và kỹ năng.
+ Tư liệu sản xuất: gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Tư liệu lao động: gồm có Cơng cụ lao động (là những vật mà qua đó con người sử
dụng nó để sản xuất ra vật chất, như cái cày, cái cuốc…) và Phương tiện lao động (là
yếu tố vật chất kỹ thuật của xã hội để phục vụ cho nền sản xuất của xã hội như cầu
cống, sân bay, bến cảng….)
Đối tượng lao động: Là vật mà con người tác động đến nó để tạo ra của cải VC (có sẵn
trong tự nhiên hoặc do quá trình sản xuất tạo ra) như cây lúa, phân bón, đất đai….
- Cơng cụ lao động là yếu tố trực tiếp, quan trọng ảnh hưởng đến toàn bộ năng
suất lao động, bởi vì cơng cụ lao động do con người chế tạo ra, là “sức mạnh của tri
thức đã được vật thể hóa”, nó “nhân” sức mạnh của con người trong quá trình lao động
sản xuất.
- Người lao động là yếu tố quyết định, hiệu quả đến LLSX, bởi vì người lao động
là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của
mình, sử dụng tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, để tác động vào đối
tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
- Trình độ của LLSX được đánh giá qua: Trình độ kỹ năng của người lao động;
trình độ của cơng cụ lao động; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất và trình độ tổ
chức, phân cơng lao động.
* Quan hệ sản xuất (QHSX):

19


- QHSX là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất,

bao gồm các quan hệ về Sở hữu TLSX; quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất tổ chức;
quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.
- Trong các quan hệ đó thì quan hệ về Tư liệu sản xuất là quan trọng nhất vì người nào
nắm TLSX thì người đó có quyền tổ chức quản lý sản xuất tổ chức và phân phối sản phẩm
lao động.
- Lịch sử phát triển nhân loại chứng kiến có 2 hình thức sở hữu cơ bản về TLSX là sở
hữu tư nhân (là hình thức sở hữu mà trong đó TLSX tập trung trong tay 1 số ít người) và
sở hữu cơng cộng (là hình thức sở hữu mà trong đó TLSX thuộc về mọi thành viên trong
cộng đồng).
b. Quy luật về sự phù hợp của QHSX đối với trình độ của LLSX
LLSX và QHSX là 2 mặt của PTSX, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động
qua lại nhau 1 cách biện chứng, tạo thành quy luật Quy luật về sự phù hợp của QHSX
đối với trình độ của LLSX - quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển của xã hội.
Quy luật này khẳng định vai trò của LLSX quyết định đến QHSX, đồng thời chỉ ra sự
tác động trở lại của QHSX đến LLSX, cụ thể:
* LLSX quyết định QHSX:
- Trong 1 PTSX, LLSX là nội dung, QHSX là hình thức biểu hiện của quá trình sản
xuất. Nội dung quyết định hình thức
Khuynh hướng chung của xã hội là không ngừng biến đổi theo chiều hướng tiến
bộ. Sự biến đổi đó, xét đến cùng bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển của
LLSX, trước hết là cơng cụ lao động. Do đó trong 1 PTSX, LLSX bao giờ cũng giữ vai
trò quyết định: chất lượng, năng suất.
- LLSX quyết định sự hình thành của QHSX, LLSX ở trình độ và tính chất như
thế nào thì sẽ quy định 1 QHSX tương ứng phù hợp với nó.
Sở hữu TLSX bao gồm Sở hữu tư nhân (với Chế độ tư hữu TLSX) và Sở hữu
công cộng (với Chế độ công hữu TLSX).
VD: Người nông dân sau sản xuất bị lỗ sẽ bỏ việc, chuyển ngành nghề, đồng thời
di chuyển lên thành phố, dẫn đến thành phố tăng dân nhập cư; ngành nơng nghiệp suy
yếu, nhân cơng cịn làm nghề nông sẽ nâng giá tiền công lao động => đẫn đến cần có
mơ hình liên kết: Nơng dân + Nhà nước + Khoa học + Doanh nghiệp.

- LLSX quyết định sự biến đổi, phát triển của QHSX. LLSX có tính động, cách
mạng. Khi LLSX phát triển đến 1 trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn gay gắt với QHSX,
QHSX khơng cịn phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX nữa, trở thành kìm
hãm sự phát triển của LLSX. Do đó, dẫn đến địi hỏi phá vỡ QHSX cũ, lạc hậu hình
thành 1 QHSX mới, tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, thúc đẩy
LLSX phát triển đưa đến sự ra đời 1 PTSX mới.
Các Mác đã nói: “Tới 1 giai đọan phát triển nào đó của chúng, các LLSX vật chất của
xã hội mâu thuẫn với những QHSX hiện có…trong đó từ trước đến nay các LLSX vẫn phát
triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của LLSX, những QHSX ấy trở thành những
xiềng xích của các LLSX. Khi đó bắt đầu thời đại 1 cuộc Cách mạng xã hội”.
VD: Trong PTSX PK, khi LLSX phát triển (qua sự xuất hiện của SXCN TBCN
trong giai đoạn cuối chế độ địa chủ phong kiến đã xảy ra mâu thuẫn giữa QHSX địa
20


chủ dựa trên quan hệ bóc lột bằng địa tơ) với mâu thuẫn với QHSX PK, từ đó tạo điều
kiện khách quan cho cuộc Cách mạng tư sản lật đổ chế độ PK, hình thành TBCN.
* QHSX tác động trở lại LLSX:
- QHSX quy định mục đích sản xuất, hệ thống tổ chức quản lý sản xuất, cơ cấu
lợi ích của người lao động .. nên thường xuyên tác động trở lại LLSX.
VD: Trong một cơ quan, người lao động được trả lương cao, đúng với trình độ và
năng lực của mình sẽ kích thích người lao động làm việc hăng say, sáng tạo, cố gắng
học tập để nâng cao trình độ => góp phần nâng cao NSLĐ.
- QHSX tác động trở lại LLSX theo 2 hướng: QHSX phù hợp với trình độ của
LLSX sẽ thúc đẩy, mở đường cho LLSX phát triển. Ngược lại, QHSX lỗi thời, không
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của
LLSX. Khi QHSX kìm hãm sự phát triển của LLSX thì theo quy luật chung, QHSX cũ
sẽ được thay thế bằng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX để thức
đẩy LLSX phát triển.
VD: Việt Nam giai đoạn 1976-1985: Nước ta chủ trương đưa người nơng dân vào

HTX, ở đó HTX áp dụng hình thức cào bằng, người làm ít làm nhiều hưởng như nhau,
sản phẩm chia đều, tiền công được hưởng như nhau … người nơng dân khơng có động
lực sản xuất nên hiệu quả thấp. Sau khi đổi mới, Đảng ta áp dụng hình thức nhiều
thành phần, người dân sản xuất trong HTX nhưng theo chế độ làm nhiều hưởng nhiều
… đã thúc đẩy người nơng dân có động lực sản xuất nên hiệu quả lao động cao.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
* Cung cấp cơ sở lý luận khoa học xây dựng quan điểm Duy vật về lịch sử để giải
thích nguồn gốc, động lực sự vận động, phát triển của XH, của các PTSX trong lịch
sử, bác bỏ quan điểm duy tâm, tôn giáo về sự phát triển của lịch sử.
- Quan điểm duy tâm, tôn giáo giải thích nguyên nhân, động lực phát triển của xã
hội từ ý thức tư tưởng của con người hay 1 lực lượng siêu tự nhiên nào đó.
- Quan điểm duy vật triết học trước Mác giải thích duy tâm về sự phát triển của xã hội.
- Các Mác tìm thấy nguyên nhân phát triển của lịch sử ngay trong đời sống vật chất
của con người, từ đó thấy mối quan hệ giứa sự phát triển của LLSX và sự thay đổi của
QHSX.
- CNDV lịch sử đã bác bỏ quan điểm duy tâm và tôn giáo; khẳng định nguồn gốc,
động lực vận động phát triển của xã hội là do các quy luật khách quan vốn có của lịch
sử quyết định và các quy luật khác của đời sống xã hội.
Muốn tìm hiểu lịch sử xã hội phải hiểu quy luật khách quan về sự phù hợp của
QHSX đối với trình độ phát triển của LLSX.
* Cung cấp cơ sở lý luận khoa học để Đảng - Nhà nước ta hoạch định đường lối
phát triển kinh tế, phát triển xã hội:
- Đảng - Nhà nước ta chủ trương muốn thúc đẩy nền sản xuất vật chất của xã hội
phải ưu tiên phát triển trình độ của LLSX, đồng thời phải xây dựng các QHSX phù hợp
với trình độ của LLSX. Xây dựng QHSX dựa trên cơ sở LLSX.
Muốn phát triển LLSX: phải thực hiện CNH-HĐH đất nước, phải đầu tư cho
người lao động (phát triển nguồn nhân lực, phát triển GD-ĐT, KHKTCN)
Muốn phát triển QHSX: Phát triển Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ chế
21



thị trường có sự quản lý của nhà nước. Phát huy mọi tiềm năng của các thành phần
kinh tế, phát triển mạnh mẽ LLSX để xây dựng cơ sở kinh tế XHCN, từng bước xã hội
hóa XHCN, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo.
- Phải thường xuyên chú ý phát hiện và giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX.
Phải phát hiện mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX qua hiệu quả công việc và NSLĐ.
3. Liên hệ sự vận dụng ở nước ta
* Giai đoạn 1975 -1985: Chủ trương của Đảng ta là quá độ lên XHCN, bỏ qua TBCN.
Tuy nhiên do quá nóng vội, chưa hiểu tường tận, đúng bản chất của mối quan hệ LLSX và
QHSX nên Đảng ta đã đề ra chiến lược xây dựng CNXH có sai lầm như:
Tại Đại hội IV của Đảng (12-1976) đã quyết định đường lối xây dựng nền kinh tế
XHCN là “Đẩy mạnh CNH-XHCN, xây dựng CSVSKT của CNXH, đưa nền kinh tế
nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN, ưu tiên phát triên công nghiệp nặng
một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”…
Cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có của nên kinh tế cịn yếu kém, đất nước lại mới trải qua
30 năm chiến tranh tàn phá, nền kinh tế chủ yếu vẫn là sản xuẩt nhỏ, phân công lao động
kém phát triển. LLSX của nước ta vẫn cịn ở trình độ thấp kém, phát triển chưa đồng đều
nhưng chúng ta đã xây dựng nền kinh tế XHCN thuần nhất với 2 thành phần kinh tế quốc
doanh và tập thể, không phát triển nền KTTT nhiều thành phần, ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng là không phù hợp. Sai lầm ở đây là:
- Tách rời LLSX và QHSX, cho QHSX đi trước 1 bước mở đường cho LLSX mà
thực chất là vượt trước quá xa so với trình độ phát triển của LLSX.
+ Đẩy QHSX lên q cao với LLSX như hợp tác hóa, khơng chú ý tới các thành
phần kinh tế khác.
+ Đẩy LLSX lên quá cao, không phù hợp với QHSX như đưa máy móc, thiết bị
hiện đại vào những nơi khơng quản lý, không sử dụng được.
- Trong 3 mặt của QHSX thì quá chú trọng vào mặt sở hữu mà xem nhẹ 2 mặt còn
lại là tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm lao động.
- Cải tạo QHSX mà không chú ý LLSX, chỉ chú ý đến thời gian, nặng về hình
thức, khơng chú ý nội dung.

- Xóa bỏ kinh tế tư nhân 1 cách ồ ạt, xác lập sở hữu, cơng hữu 1 cách tràn lan
trong khi trình độ của LLSX thấp kém chưa đồng đều.
Từ dó dẫn đến LLSX bị kìm hãm, đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kéo dài,
giá cả tăng cao, lạm phát phi mã….
* Giai đoạn 1986 đến nay: Đại hội VI (tháng 12/1986), Đại hội VII ( tháng
6/1991) của Đảng đã thừa nhận những sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy
luật khách quan của giai đoạn 1975 - 1985 và khẳng định do LLSX của nước ta cịn
nhiều tính chất và trình độ khác nhau nên phải có nhiều loại QHSX tương ứng cho
phù hợp, tức là phải thiết lập 1 nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường định hướng XHCN ra đời: Mục đích của nền KTTT định hướng XHCN là
phát triển LLSX, phát triển kinh tế để xây dựng CSVC kỹ thuật của CNXH, nâng
cao đời sống nhân dân. Phát triển LLSX hiện đại gắn liền xây dựng QHSX mới phù
hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. KTTT định hướng XHCN có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
22


tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc.
Trong gần 30 năm đổi mới, đã chứng minh chúng ta đã sữa chữa sai lầm,
đáp ứng đòi hỏi khách quan của quy luật, huy động được LLSX làm cho LLSX
được giải phóng, các tiềm năng, thế mạnh kinh tế trong nội bộ nhân dân được
phát huy; từ đó kinh tế đất nước liên tục phát triển trong thời gian vừa qua (về cơ
bản là đúng).
Câu 2: Từ lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, liên hệ vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
1. Mối quan hệ biện chứng giữa Cơ sở hạ tầng và Kiến trúc thượng tầng:
a. Khái niệm
* Cơ sở hạ tầng (CSHT):

- Là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội.
- CSHT gồm 3 yếu tố: QHSX thống trị; QHSX tàn dư và QHSX mầm mống.
- Trong các QHSX đó thì QHSX thống trị là yếu tố quyết định do nó gắn liền với
lợi ích của giai cấp thống trị. Trong một xã hội, giai cấp thống trị sẽ nắm quyền về lợi
ích kinh tế nên sẽ chi phối tất cả các QHSX khác.
=> Đặc trưng của CSHT: QHSX thống trị có vai trị quyết định chi phối các
QHSX khác và quy định chế độ xã hội đó.
VD: Trong chế độ Phong kiến: QHSX Phong kiến là QHSX thống trị, QHSX
Chiếm hữu nô lệ là QHSX tàn dư và QHSX TBCN là QHSX mầm mống
- CSHT của nước ta hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần do LLSX nhiều tính
chất, trình độ khác nhau nên có nhiều QHSX.
Kinh tế nước ta hiện nay thì Thành phần kinh tế Nhà nước là thành phần chủ đạo;
ngồi ra cịn có các thành phần khác như Thành phần kinh tế tư nhân; Thành phần kinh
tế tập thể và Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
* Kiến trúc thượng tầng (KTTT):
- Là mặt tư tưởng, chính trị, văn hóa, là tồn bộ các quan điểm chính trị như Pháp quyền,
Tơn giáo, Đạo đức, Triết học…và các thiết chế tương ứng như Đảng phái, Nhà nước, Giáo
hội, Trường - viện, tổ chức đồn thể…được hình thành trên 1 CSHT nhất định.
Trong các thiết chế tương ứng thì các Đảng, Nhà nước và tổ chức đồn thể đóng
vai trị quan trọng nhất.
=> Đặc trưng của KTTT: Tư tưởng thống trị XH bao giờ cũng là tư tưởng của giai
cấp thống trị.
- Trong xã hội có giai cấp, Nhà nước có vai trị đặc biệt quan trọng trong KTTT,
nó tiêu biểu cho chế độ chính trị hiện đang tồn tại.
b. MQH biện chứng giữa CSHT và KTTT
* CSHT quyết định KTTT:
- CSHT quy định tính chất, đặc điểm, nội dung của KTTT:
KTTT có đặc điểm, tính chất, nội dung như thế nào thì do CSHT quyết định. Tất
cả các tư tưởng, chính sách đều do CSHT quyết định và chi phối. QHSX nào giữ địa vị
23



thống trị thì sẽ tạo KTTT tương ứng.
VD: Trong XH Phong kiến, CSHT được ra đời nhằm bảo vệ lợi ích cho giai cấp địa chủ;
QHSX cơ bản là QHSX Phong kiến được bảo vệ và được xem là QHSX thống trị.
- Khi CSHT thay đổi căn bản thì sớm muộn gì KTTT cũng thay đổi theo. Sự thay
đổi này diễn ra từ XH này sang XH khác mang tính cách mạng, quy luật.
VD: QHSX Phong kiến mất đi; dẫn tới QHSX TBCN hình thành thì các thiết chế
của KTTT sẽ được hình thành để bảo vệ lợi ích của giai cấp TBCN.
- Trong XH, kinh tế quyết định chính trị. Giai cấp nào thống trị XH về kinh tế thì
sẽ chiếm địa vị thống trị XH về chính trị và thống trị trong đời sống tinh thần. Mâu
thuẫn trong đời sống kinh tế quy định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng.
Vì để làm chủ về kinh tế, giai cấp thống trị tổ chức ra bộ máy nhà nước cùng với
quy định các luật lệ, quan điểm tư tưởng xã hội để bảo vệ QHSX thống trị đó, bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị.
VD: Trong QHSX TBCN: giai cấp tư sản nắm quyền về kinh tế nên mọi quyền
lực, QHSX TBCN đều phục vụ cho sự thống trị của giai cấp tư sản. Các thiết chế
KTTT tương ứng như Đảng phái, Nhà nước, Giáo hội, Trường - viện đều do QHSX
TBCN quyết định.
* KTTT tác động trở lại CSHT
- Chức năng của KTTT là bảo vệ, duy trì và phát triển CSHT sinh ra nó, nhằm bảo
vệ, duy trì và phát triển QHSX thống trị, lợi ích của giai cấp cầm quyền gắn liền với
QHSX đó, trong đó Đảng, Nhà nước và hệ tư tưởng của Nhà nước là yếu tố quyết định.
- Tất cả các KTTT đều có tác động trở lại CSHT, trong đó Nhà nước giữ vai trị
đặc biệt quan trọng, có tác dụng to lớn đối với sự phát triển của CSHT (Nhà nước tác
động trực tiếp, là lực lượng vật chất có sức mạnh kinh tế). Nhà nước chi phối vào trong
nhiều trường hợp, quyết định khả năng tác động của các yếu tố khác của KTTT đến
toàn bộ đời sống xã hội nói chung và CSHT nói riêng.
- KTTT tác động phù hợp với quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển,
CSHT phát triển và ngược lại, sự tác động không phù hợp quy luật khách quan sẽ kìm hãm sự

phát triển kinh tế, thâm chí là đẩy nền kinh tế vào tình trạng khủng hoảng.
VD: Đường lối phát triển kinh tế của Đảng đúng đắn sẽ thúc đẩy nền kinh tế đất nước
phát triển. Các quyết sách về kinh tế-chính trị sai sẽ kìm hãm đất nước phát triển (như tình
hình chính trị của Thái Lan, Ucraina hiện nay).
2. Ý nghĩa phương pháp luận
* Là cơ sở lý luận khoa học để xây dựng quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử,
bác bỏ những quan điểm duy tâm về lịch sử; được thể hiện trong việc xem xét sự tác
động qua lại giữa CSHT và KTTT; đồng thời không được tuyệt đối hóa hay xem nhẹ
bất cứ mặt nào (kinh tế - chính trị):
- Quan điểm duy tâm: tuyệt đối hóa ý thức, chính trị, tư tưởng, KTTT.
- Quan điểm tơn giáo: do đấng tối cao, lực lượng siêu nhân quyết định mối quan
hệ giữa CSHT và KTTT.
- Quan điểm duy vật tầm thường: tuyệt đối hóa CSHT, xem KTTT khơng ra gì.
- Quan điểm duy vật Macxit: khẳng định quan hệ kinh tế quyết định các lĩnh vực
chính trị, tư tưởng, tôn giáo…Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì chiếm
24


địa vị thống trị trong đời sống xã hội. Muốn phát triển CSHT phải dựa vào phát triển
KTTT, tuy nhiên KTTT cũng tác động trở lại CSHT.
* Là cơ sở lý luận khoa học để Đảng - Nhà nước ta xây dựng đường lối kết hợp
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, VH-XH-GD-ANQP.
- Khẳng định: “Đổi mới đồng bộ phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây
dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đảng ta xác định như vậy bởi vì CSHT-KTTT ; kinh tế-chính trị nằm trong mối
quan hệ biện chứng lẫn nhau.
+ Trong đó lấy kinh tế là trọng tâm, chính trị là then chốt vì kinh tế quyết định
chính trị; đổi mới chính trị trên cơ sở đổi mới kinh tế. Cải cách hành chính là vấn đề
cấp bách trong thời kỳ hiện nay.
+ Về kinh tế: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xem đây là vấn

đề có ý nghĩa quyết định.
+ Về chính trị: xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, của dân, do dân, vì dân;
phải đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước, xem xây dựng Đảng là
vấn đề cấp bách, then chốt, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của nước nhà.
Đổi mới tổ chức hoạt động của cơ quan lập pháp, bộ máy hành chính, bộ máy cơ
quan tư pháp cũng như tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.
+ Về tư tưởng - Văn hóa: kiên định mục tiêu ĐLDT gắn liền CNXH
Kiên định lập trường CN M-LN, TT HCM, xem đây là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho mọi hành động.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Kế thừa, phát huy truyền
thống văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa tinh hoa của nhân loại.
+ Việc thường xuyên đổi mới, kiện toàn hệ thống KTTT XHCN là rất quan trọng. Vì
tác động mạnh mẽ đến kinh tế (CSHT) sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế nên phải thường
xuyên đổi mới, kiện toàn hệ thống KTTT (thể chế) để thúc đẩy kinh tế phát triển.
3. Liên hệ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam :
a. Nhận thức và vận dụng vào nước ta:
* Trong giai đoạn 1975 - 1985: Chủ trương của Đảng ta là quá độ lên XHCN, bỏ qua
TBCN. Tuy nhiên do quá nóng vội, chưa hiểu tường tận, đúng bản chất của mối quan hệ giữa
CSHT và KTTT nên Đảng ta đã đề ra chiến lược xây dựng CNXH có sai lầm như:
Tại Đại hội IV của Đảng (12-1976) đã quyết định đường lối xây dựng nền kinh tế
XHCN là “Đẩy mạnh CNH-XHCN, xây dựng CSVSKT của CNXH, đưa nền kinh tế
nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN, ưu tiên phát triên công nghiệp nặng
một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”…
Cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có của nên kinh tế cịn yếu kém, nền kinh tế chủ yếu
vẫn là sản xuẩt nhỏ, phân công lao động kém phát triển. Chủ trương xây dựng nền kinh
tế XHCN thuần nhất với 2 thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể.
Thực hiện bố trí cơ cấu kinh tế chưa hợp lý, mất cân đối giữa các ngành, lĩnh vực,
đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp. Đối với cải tạo XHCN thì chủ quan nóng vội, chạy
theo thành tích, coi nhẹ chất lượng và hiệu quả. Đối với cơ chế quản lý thì thiếu động
bộ, mang tính chắp vá, kinh nghiệm quản lý kém, buông lỏng quản lý.

Nhà nước lại áp dụng các chính sách cào bằng, ngăn sông cấm chợ, không giao
25


×