Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận triết 8,5 điểm : Hãy phân tích một trong hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật . Ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng của bản thân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.23 KB, 14 trang )

Tài liệu thảo luận triết ( bài làm đc 8,5)
ĐỀ TÀI : Hãy phân tích một trong hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật . Ý nghĩa phương pháp luận
và sự vận dụng của bản thân .

MỤC LỤC
Phần I: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật
1.1Sự ra đời của phép biện chứng duy vật
1,2Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật
1.2.1Khái quát về mối liên hệ phổ biến

1.2.2 Cơ sở khoa học mối liên hệ phổ biến

1.2.3 Nội dung nguyên lý
1.2.4 Tính chất của mối liên hệ phổ biến
1.2.5 Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý mối liên hệ phổ biến
Phần II : Vận dụng của bản thân
1.Trong cuộc sống
2.Trong học tập

LỜI MỞ ĐẦU
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ
bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó, nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Vì thế Ph.Ăngghen đã định nghĩa:
“phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự
phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai nguyên lý cơ bản và đóng vai trị xương sống trong
phép duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin khi xem xét, kiến giải sự vật, hiện tượng.

Nhóm 4 sẽ đi phân tích về nguyên lý mối liên hệ phổ biến, từ đó sẽ rút ra được ý nghĩa phương pháp
luận của nguyên lý này , nhằm áp dụng vào thực tiễn thông qua sự vận dụng của bản thân chúng ta.



Phần I: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật
1.1 Sự ra đời của phép biện chứng duy vật
Triết học ra đời từ thời cổ đại đánh dấu sự ra đời của phép biện chứng. Trải qua hàng ngàn năm tồn tại
và phát triển có phồn vinh có suy vong. Khởi đầu là phép biện chứng tự phát cổ đại, thể hiện rõ nét trong
thuyết “âm - dương” của Trung Quốc, đăc biệt là trong nhiều học thuyết của Hi Lạp cổ đại. Đến khoảng
thế kỷ 17 nửa đầu thế kỷ 18, phương pháp siêu hình thống trị trong tư duy triết học mà đại diện là
Đêcactơ – ông được coi là linh hồn của phương pháp siêu hình. Trong khoảng nửa sau thế kỷ 18 đầu thế
kỷ 19 đây là thời kỳ tổng kết các lịch sử triết học nhân loại và hình thành hệ thống lớn đó là phương
pháp biện chứng duy tâm mà đại diện là Hêgen ông được coi là tiền đề của phương pháp biện chứng
duy vật sau này. Ngày nay phép biện chứng đã đạt đến trình độ cao nhất đó là phép biện chứng duy vât.
Phép biện chứng duy vật được tạo thành từ một loạt những phạm trù, những nguyên lý, những quy luật
được khái quát từ hiện thực phù hợp với hiện thực. Cho nên nó phản ánh đúng sự liên hệ, sự vận động
và sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nhờ vậy nó đã khắc phục được những hạn chế vốn có của
phép biện chứng tự phát cổ đại cho rằng thế giới là một chỉnh thể thống nhất, giữa các bộ phận của nó
có mối liên hệ qua lại, thâm nhập vào nhau, tác động và chịu ảnh hưởng lẫn nhau, thế giới và các bộ
phận cấu thành thế giới ấy không ngừng vận động và phát triển. Tuy nhiên sự hạn chế của phương pháp
biện chứng này là tuy nó cho chúng ta thấy một bức tranh về sự tác động qua lại, sự vận động và phát
triển nhưng chưa làm rõ được cái gì đang liên hệ cũng như những quy luật nội tại của sự vận động và
phát triển. Hơn nữa phép biện chứng duy vật còn sửa được sai lầm của phép biện chứng duy tâm khách
quan thời cổ đại mà đại biểu là Hêgen - đại diện lỗi lạc của phép biện chứng. Hêgen cho rằng sự phát
triển biện chứng của thế giới bên ngoài chỉ là sự sao chép lại sự tự vận động của “ý niệm tuyệt đối ”mà
thôi. Phép biện chứng duy vật đã chứng minh rằng : những ý niệm trong đầu óc của chúng ta chẳng qua
là sự phản ánh của các sự vật hiện thực khách quan, do đó bản thân biện chứng của ý niệm chỉ đơn
thuần là sự phản ánh có ý thức của sự vận động biện chứng của thế giới hiện thực khách quan.Như vậy
phép biện chứng duy vật đã khái quát một cách đúng đắn những quy luật vận động và sự phát triển
chung nhất của thế giới. Vì vậy P.Ăngen đã định nghĩa: “phép biện chứng…là môn khoa học về những
quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.”

1.2 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật


1.2.1 Khái quát về mối liên hệ phổ biến


Trong thế giới có vơ vàn các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau. Vậy giữa chúng có mối
liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Trong lịch sử triết
học, để trả lời câu hỏi đó, ta thấy có những quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.

Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại
biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng khơng có sự phụ thuộc, khơng có sự ràng
buộc và quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy định bề
ngồi, mang tính ngẫu nhiên. Tuy vậy, trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có một số
người cho rằng, các sự vật, hiện tượng có mối quan hệ với nhau và mối liên hệ rất đa dạng phong phú,
song các hình thức liên hệ khác nhau khơng có khả năng chuyển hố lẫn nhau. Chẳng hạn giới vơ cơ và
giới hữu cơ khơng có mối liên hệ gì với nhau, tồn tại độc lập không thâm nhập lẫn nhau; tổng số đơn
giản của những con người riêng lẻ tạo thành xã hội đứng yên không vận động...

Trái lại, những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng các sự vật, hiện tượng và các quá trình
khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng hạn, bão từ
diễn ra trên mặt trời sẽ tác động đến từ trường của trái đất và do đó tác động đến mọi sự vật, trong đó
có con người; sự gia tăng về dân số sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế, xã hội, giáo dục y tế.v.v; môi
trường ảnh hưởng to lớn đến con người không chỉ trong một nước mà trên toàn thế giới và ngược lại,
hoạt động của con người cũng tác động, ảnh hưởng làm biến đổi môi trường.

1.2.2 Cơ sở khoa học

Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó? Trả lời câu hỏi thứ hai, những người
theo chủ nghĩa duy tâm cho rằng cái quyết định mối quan hệ, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật
hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên (như trời) hay do ý thức cảm giác của con người. Đứng trên
quan điểm duy tâm chủ quan, Bécơli cho rằng cảm giác là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật hiện

tượng. Hêghen xuất phát từ lập trường duy tâm khách quan lại vạch ra rằng “ý niệm tuyệt đối” là nền
tảng của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ
sở của mối liên hệ giữa các sự vât và hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa
dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng dều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới
duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách
rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính
trên cơ sở đó triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ
sự quy định sự tác động qua lại sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của
một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới .


Các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thơng qua sự vận động, sự tác
động qua lại lẫn nhau. Bản chất tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác
động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng đối với sự vật, hiện tượng
khác. Chúng ta chỉ có thể đánh giá sự tồn tại cũng như bản chất của một con người cụ thể thông qua mối
liên hệ, sự tác động của con người đó đối với người khác, đối với xã hội và tự nhiên thông qua hoạt động
của chính người ấy. Ngay tri thức của con người cũng chỉ có giá trị khi chúng được con người vận dụng
vào hoạt động cải biến tự nhiên, cải biến xã hội và cải biến chính con người.

Nguyên lý này được dựa trên một khẵng định trước đó của triết học Mác-Lênin là khẳng định tính thống
nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vât và hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng
tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng dều chỉ là những dạng
khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Engels đã nhấn mạnh điều này

“ Tính thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh không phải
bằng ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng sự phát triển lâu dài và khó khăn của Triết học
và khoa học tự nhiên”

Nhờ có tính thống nhất đó, chúng khơng thể tồn tại biệt lập tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động

qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện
chứng khẳng định rằng mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác động qua lại sự
chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng
trong thế giới.

1.2.3 Nội dung nguyên lý

Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại trong mọi sự vật, trong mọi
lĩnh vực hiện thực
Mối liên hệ mang tính khách quan và phổ biến. Nó chi phối tổng quát sự vận động, phát triển của mọi sự
vật, quá trình xãy ra trong thế giới; và là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng.

Mối liên hệ phổ biến được nhận thức trong các phạm trù biện chứng như mối liên hệ giữa: mặt đối lậpmặt đối lập; chất – lượng, cái cũ – cái mới; cái riêng- cái chung; nguyên nhân- kết quả; nội dung – hình
thức; bản chất- hiện tượng; tất nhiên- ngẫu nhiên; khả năng – hiện thực.

Nội dung nguyên lý:


◊ Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau.
◊ Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ biến
◊ Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình vận
động, phát triển của mọi sự vật hiện tượng xãy ra trong thế giới.

1.2.4 Tính chất của mối liên hệ phổ biến

Ø Mối liên hệ có tính khách quan
Vì mối liên hệ là vốn có của sự vật, hiện tượng. Nó khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người
hay thần linh, thượng đế. Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng đang hàng ngày chịu sự tác động của các
sự vật hiện tượng khác (như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, áp suất không khí ..., đơi khi cũng chịu sự tác
động của con người). Con người - một sinh vật phát triển cao nhất trong tự nhiên dù muốn hay không

cũng luôn luôn bị tác động của các sự vật, hiện tượng khác và các yếu tố ngay trong chính bản thân.
Ngồi sự tác động của tự nhiên, con người còn tiếp nhận sự tác động của xã hôị và của những người
khác. Chính con người và chỉ có con người mới tiếp nhận vô vàn các mối mối liên hệ. Do vậy, con người
phải hiểu biết các mối quan hệ, vận dụng chúng vào hoạt động của mình, giải quyết các mối liên hệ phù
hợp nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và bản thân con người .Chỉ có liên hệ với nhau sự vật hiện
tượng mới tồn tại, vận động, phát triển. Ví dụ : con vật thì có mối liên hệ giữa kẻ săn mồi và con mồi :
con hổ với con nai…, nếu khơng có mối liên như vậy thì con vật khơng thể tồn tại. Cịn con người thì có
các quan hệ xã hội giữa người này với người khác có như vậy con người mới tồn tại, vận động và phát
triển.

Ø Mối liên hệ có tính phổ biến
Bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác. Không có sự vật hiện tượng nào
nằm ngồi mối liên hệ.Xuất phát từ bản thân tính biện chứng của thế giới mỗi sự vật, hiện tượng là một
thể thống nhất, không có sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập mà chúng là một thể
thống nhât. Không chỉ trong tự nhiên, mà cả trong xã hội, lẫn trong trong tư duy, các sự vật hiện tượng
cũng liện hệ tác động qua lai lẫn nhau. Không thể tìm bất cứ ở đâu, khi nào các sự vật, hiện tượng lại tồn
tại một cách cô lập tách rời. Ví dụ : Trong tự nhiên cây xanh có mối liên hệ với mơi trường ( khơng khí,
nhiệt độ…), cịn có mối liên hệ với con người ( con người chăm sóc cây xanh, chặt phá rừng…). Trong xã
hội, khơng có người nào mà khơng có các mối quan hệ xã hội như: quan hệ hàng xóm, gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp…, các hình thái kinh tế-xã hội cũng có mối liên hệ với nhau, hình thái kinh tế -xã hội sau ra
đời từ hình thái kinh tế-xã hội trước(cơng xã nguyên thủy-chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa, cộng sản chủ nghĩa). Trong tư duy, có mối liên hệ giữa các sự suy đoán, các tâm tư, tình cảm, các
cách suy nghĩ khác nhau ví dụ như : nhìn vào một cơ gái ta có các suy đốn cơ ấy là người giàu có, cơ ấy
khơng được tốt, cơ ấy rất khó tính… Trong thời đại ngày nay khơng một quốc gia nào khơng có quan hệ,
khơng có liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế, hiện nay, trên thế
giới đã và đang xuất hiện xu hướng tồn cầu hố, khu vực hố mọi mặt đời sống xã hội. Nhiều vấn đề đã


và đang trở thành vấn đề tồn cầu như: đói nghèo, bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh thái, dân số và kế
hoạch hố gia đình, chiến tranh và hồ bình.v.v.


Ø Mối liên hệ có tính đa dạng, mn vẻ
Xuất phát từ tính đa đạng mn màu mn vẻ của thế giới vật chất. Có nhiều hình thức mối liên hệ, mỗi
hình thức mối liên hệ có vai trị, vị trí, đặc điểm riêng của nó.
+ Mối liên hệ bên trong :
Là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau giữa các bộ phận, giữa các, các thuộc tính, các mặt khác
nhau của sự vật, nó giữ vai trò quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Ví dụ : trong xã
hội tư bản chủ nghĩa, có mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và cơng nhân giải quyết nó làm cho xã hội phát
triển. Trong bản thân con người có mâu thuẫn giữa hai q trình đồng hóa và dị hóa giải quyết nó làm
cho cơ thể phát triển….
+ Mối liên hệ bên ngoài :
Là mối liên hệ giữa một sự vật, hiện tượng này với một sự vật hiện tượng khác, hoặc một sự vật, hiện
tượng này với các sự vật hiện tượng khác.

Mối liên hệ này không quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật mà nó chỉ đóng vai trị
trung gian. Ví dụ : xét xã hội Việt Nam hiện nay có mâu thuẫn giữa Việt Nam và các nước tư bản chủ
nghĩa đó là mối liên hệ bên ngoài giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Trong tự
nhiên, xét một cây xanh thì mối mối liên hệ bên ngồi là là giữa nó với mơi trường sống, với con người….

+ Ngồi ra cịn có các mối liên hệ khác như: mối liên hệ bản chất -không bản chất; mối liên hệ tất yếu và
ngẫu nhiên v.v….

Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển của bản thân sự vật và hiện tượng quy
định tính đa dạng của mối liên hệ.Vì vậy, trong một sự vật có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ chứ
khơng phải chỉ có một cặp mối liên hệ xác định. Chẳng hạn, mỗi cá nhân trong một tập thể nhất định vừa
có mối liên hệ bên trong, vừa có mối liên hệ bên ngồi, vừa có mối liên hệ bản chất, vừa có mối liên hệ
khơng bản chất, vừa có mối liên hệ trực tiếp vừa có mối liên hệ gián tiếp ...

Đương nhiên, mỗi cặp mối liên hệ có những đặc trưng riêng. Trong các cặp mối liên hệ đó, nói chung,
mối liên hệ bản chất, mối liên hệ tất nhiên, mối liên hệ chủ yếu giữ vai trò quyết định. Song tuỳ theo

những điều kiện hoàn cảnh cụ thể, các mối liên hệ tương ứng với chúng có thể giữ vai trị quyết định.
Nói cách khác, vai trò quyết định của các mối liên hệ trong từng cặp một phụ thuộc vào quan hệ hiện
thực xác định .


Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức,
một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển
hố lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động của chính các sự vật.
Chẳng hạn, nếu xem xét các doanh nghiệp tồn tại với tư cách là các đơn vị độc lập thì mối liên hệ giữa
chúng là mối liên hệ bên ngoài. Trong quá trình vận động và phát triển của mình, các doanh nghiệp kết
hợp với nhau tạo thành công ty, thành tổng cơng ty thì mối liên hệ giữa các doanh nghiệp lại là mối liên
hệ bên trong.

Tuy sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính tương đối ví dụ như các lồi cá ,chim và thú
đều có quan hệ với nước nhưng cá với nước là mối liên hệ về môi trường sống, cá chủ yếu sống trong
nước cịn chim và thú thì khơng sống được trong nước .Nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết bởi vì
mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai trò xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con người
phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp, nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất
trong hoạt động của mình.
1.2.5 Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý mối liên hệ phổ biến.
Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến có thể rút ra phương pháp luận
khoa học để nhận thức và cải tạo hiện thực
a) Quan điểm tồn diện
Vì bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật khác và mối
liên hệ rất đa dạng phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm
tồn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận
về bản chất hay về tính quy luật của chúng.

Quan điểm tồn diện địi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận,
giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật

khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về
sự vật. Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và đầy đủ tri thức của khoa học triết học, chúng ta cịn phải
tìm ra mối liên hệ của tri thức triết học với tri thức khoa học khác, với tri thức cuộc sống và ngược lại, vì
tri thức triết học được khái quát từ tri thức của các khoa học khác và hoạt động của con người, nhất là
tri thức chuyên môn được chúng ta lĩnh hội.
Đồng thời, quan điểm tồn diện địi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các mối liên hệ, phải biết chú ý đến
các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên ... để hiểu rõ
bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát
triển của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hoá
lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định. Trong quan hệ giữa con người với con người,
chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng con người. Ngay cả quan hệ với một con người nhất
định ở những không gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cách
quan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”.


Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không những phải
chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà cịn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các
sự vật khác. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để
tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu : “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác phải biết
tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và tồn
cầu hố kinh tế đưa lại.

- Từ quan điểm toàn diện trong sự xem xét chúng ta đi đến nguyên tắc đồng bộ trong hành động thực
tiễn: để cải tạo một sự vât bao giờ chúng ta cũng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống những biện pháp
nhất định. Tuy nhiên cũng như đã nói ở trên, đồng bộ khơng có nghĩa là dàn đều, bình qn mà trong
từng buớc, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu then chốt. Thực hiện quan điểm tồn diện góp phần
khắc phục bệnh phiến diện, một chiều chỉ thấy một mặt mà khơng thấy nhiều mặt hoặc có khi tuy có chú
ý đến nhiều mặt nhưng khơng nhìn thấy được mặt bản chất của sự vật. Quan điểm toàn diện cũng góp
phần khắc phục lối suy nghĩ giản đơn.

- Quan điểm tồn diện cịn có ý nghĩa trong việc chống chủ nghĩa chiết Trung mà đặc trưng của nó là
nhân danh quan điểm tồn diện để kết hợp một cách vơ nguyên tắc những mặt khác nhau mà thực chất
là không thể kết hợp với nhau được. Trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác (kể cả
trực tiếp và gián tiếp).

Hơn thế nữa, quan điểm tồn diện cịn địi hỏi để nhận thức được sự vật hiện tượng chúng ta cần xem
xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Quan điểm toàn diện đối lập với quan
điểm phiến diện khơng chỉ ở chỗ nó chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối kiên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt,
nhiều mối liên hệ của sự vật vẫn có thể là phiến diện, nếu chúng ta đánh giá ngang nhau những thuộc
tính, những tính quy định khác nhau của sự vật được thẻ hiện trong những mối liên hệ khác nhau đó.
Quan điểm tồn diện chân thực địi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của
sự vật đến chỗ khái quát đẻ rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng
đó. Quan điểm toàn diện khác với chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ biện. Chủ nghĩa chiết trung tuy
cũng tỏ ra chú ý tới nhiều mặt khác nhau thế nhưng lại kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau
của sự vật. Chính vì vậy hồn tồn bất lực khi phải đưa ra một quyết sách đúng. Còn thuật nguỵ biện
cũng để ý tới những mặt khác nhau của sự vật, nhưng lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái
khơng bản chất thành cái bản chất.Ví dụ: biện hộ cho việc ăn cướp là vì nghèo. Theo luật Hình sự thì đây
chỉ là tình tiết giảm nhẹ mà thơi-> vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Cả hai đều đưa đến nhứng kết luận
sai lầm.

b) Quan điểm lịch sử - cụ thể


Vì sự vật nào cũng có q trình hình thành tồn tại, biến đổi và phát triển ,mỗi giai đoạn phát triển của sự
vật lại có những mối liên hệ riêng đặc trưng cho nó. Cho nên khi xem xét sự vật vừa phải xem xét quá
trình phát triển của nó, vừa phải xem xét trong từng điều kiện quá trình . Do đó cần phải có quan điểm
lịch sử , cụ thể.
Vậy thế nào là quan điểm lịch sử - cụ thể?
Chúng ta có thể tách chúng ra làm 2 phần để dễ hiểu hơn : lịch sử và cụ thể.
Quan điểm lịch sử là sao?


Nhiều người nghĩ đó là quan điểm cho rằng khi xem xét bất kỳ chuyện gì chúng ta đều phải xét tới hồn
cảnh lịch sử mà chuyện đó diễn ra. Ví dụ, thời nay ai cũng có thể phán là Khổng Minh nên làm thế này,
thế nọ thì tốt hơn là cách ơng đã làm. Tuy nhiên cần đặt mình vào trong bối cảnh lịch sử thời đó để hiểu
vì sao Khổng Minh lại có quyết định như thế chứ khơng phải khác.
Đó là một cách hiểu về quan điểm lịch sử.

Tuy nhiên đây khơng hẳn là quan điểm lịch sử được nói đến trong phép biện chứng của Hegel và trong
triết học của Marx.

Phép biện chứng của Hegel nói rằng mọi sự trên thế gian này đều luôn luôn vận động và phát triển.
Trong q trình vận động, phát triển đó, thì ở mỗi giai đoạn nhất định, tương ứng với một trình độ phát
triển nhất định, sẽ có những khái niệm, phạm trù, quy luật nhất định. Hết giai đoạn đó thì các khái niệm,
phạm trù, quy luật đặc thù của giai đoạn đó sẽ tiêu vong, thay thế bằng các khái niệm, phạm trù, quy
luật khác, đặc trưng cho giai đoạn mới. Cái đó chính là quan điểm lịch sử vậy.

Ví dụ : Nét đặc trưng của xã hội loài người là con người ta phải sản xuất thì mới có thể tồn tại và phát
triển. Thời đại nào cũng phải sản xuất hết. Như thế, nói theo ngơn ngữ biện chứng thì sản xuất là một
phạm trù “vĩnh viễn”, nghĩa là nó ln ln xảy ra, bất kể trong hình thái xã hội nào, ở giai đoạn nào.

Nhưng nền sản xuất ở mỗi thời đại lại có những nét riêng biệt. Thời phong kiến, nét chủ đạo của nền sản
xuất xã hội là ở chỗ: xã hội gồm hai giai cấp chính – nơng nơ và lãnh chúa. Nơng nơ lao động trên phần
đất do lãnh chúa giao cho, và phải nộp một phần hoa lợi cho lãnh chúa. Đó là phương thức sản xuất
phong kiến.

Phương thức sản xuất phong kiến này trước kia chưa tồn tại (thời cộng sản ngun thủy, hay chiếm nơ).
Nó chỉ phát sinh trong những điều kiện nhất định, ở giai đoạn nhất định của lịch sử phát triển xã hội. Khi
những điều kiện đó mất đi (cách mạng tư sản xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của các lãnh chúa) thì



phương thức sản xuất này bị thủ tiêu, kèm theo nó là giai cấp lãnh chúa và nơng nơ cũng biến mất. Ta nói
rằng phương thức sản xuất phong kiến, cũng như các khái niệm lãnh chúa, nông nô là những thứ mang
tính lịch sử (trái với sản xuất là phạm trù mang tính vĩnh viễn).

Tương tự, phương thức sản xuất TBCN, với đặc trưng là chế độ lao động làm thuê, với các phạm trù kinh
tế như giá trị, giá trị thặng dư, lợi nhuận, bóc lột, giai cấp tư sản, vơ sản… là những thứ mang tính lịch sử.
Nếu không hiểu điều này, người ta sẽ nghĩ rằng kinh tế thị trường, với các phạm trù hàng hóa, giá cả, lợi
nhuận, cũng như chế độ lao động làm th, là cái gì đó rất tự nhiên, mang tính vĩnh viễn.
Lấy ví dụ khác nữa: Con người ta từ lúc mới sinh ra cho tới lúc chết đi đều trải qua các giai đoạn phát
triển sinh – lão – bệnh – tử, và mỗi giai đoạn có những nét đặc trưng riêng. Lúc cịn bé thì hay khóc nhè.
Lớn lên một chút thì hết khóc nhè, nhưng lại sinh ra tính thích làm những gì mình thích,nơng nổi. Lúc về
già thì lại hay dỗi,ốm yếu , bệnh tật. Như thế mỗi giai đoạn phát triển có những nét đặc thù mang tính
lịch sử của nó. Hiểu được điều đó, tức là nắm được “cái tất yếu” – nói theo kiểu Hegel – thì sẽ biết cách
đối xử đối với từng lứa tuổi một cách hợp lý nhất.

Quan điểm lịch sử cho rằng ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định, trong những điều kiện nhất định, thì
các sự vật, hiện tượng có những thuộc tính, phạm trù, khái niệm, quy luật nhất định, tương ứng với giai
đoạn đó, điều kiện đó. Vậy, mỗi khi xem xét một hiện tượng nào đó, ta phải xét xem nó mang tính vĩnh
viễn hay lịch sử, và nếu nó mang tính lịch sử, thì đâu là những điều kiện đã khiến nó phát sinh, phát triển
rồi tiêu vong (ngôn ngữ biện chứng gọi các điều kiện đó là các “tính quy định lịch sử - tiếng Đức là
geschichtliche Bestimmungen”). Ví dụ, khi nói tới thị trường chứng khốn Việt Nam, thì phải hiểu là nó
đang ở giai đoạn sơ khai và do đó nó có những nét đặc thù :chụp giựt, thiếu minh bạch, lừa đảo v.v…

Còn thế nào là quan điểm cụ thể ?.
Cũng theo Hegel, mọi sự đều phát triển dần dần, từ thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp, từ trừu tượng
đến cụ thể. Vậy “cụ thể” ở đây là cái đối lập với “trừu tượng”. Hai cái này có ý nghĩa gì?
Theo Hegel thì “trừu tượng” nghĩa là sự vật đang ở mức độ phát triển rất thấp, cịn rất giản đơn, thiếu
các nội dung, thuộc tính. Sự vật càng phát triển thì nó càng có thêm nhiều nội dung, thuộc tính phong
phú hơn, và Hegel gọi là càng “cụ thể” hơn.
Như thế, khi đề cập đến bất kỳ vấn đề gì, ta cũng cần tránh lối nói chung chung, trừu tượng, mà cần nói

rõ ràng, cụ thể, tức là phải chỉ ra các thuộc tính đặc thù của nó. Ví dụ, trên thị trường chứng khốn, câu
hỏi kiểu “hôm nay nên mua hay bán?” là một câu hỏi trừu tượng của người khơng hiểu gì về TTCK, vì nó
khơng có nội dung cụ thể. Bởi vì, cùng trong ngày hơm nay, có những CP nên mua, và có những CP nên
bán. Chưa hết, với cùng một CP, thì với người này thì nên mua, với người khác lại nên bán. Như thế cần
đặt vấn đề một cách cụ thể như sau: “Tôi đang nắm giữ những cổ phiếu A, B, C này, tôi đã mua chúng
theo giá trung bình như thế này, vào các thời điểm này, vậy thì lúc này nên mua thêm hay bán bớt chúng
đi, vân vân”.


Quan điểm cụ thể: khi đề cập tới một sự vật, hiện tượng nào đó, thì khơng được nói chung chung, mà
phải chỉ rõ: sự vật, hiện tượng đó đang ở mức độ phát triển nào, trong điều kiện cụ thể nào, với những
thuộc tính cụ thể nào. Ví dụ: không nên hỏi “kinh tế thị trường” một cách chung chung, mà phải nói rõ:
“kinh tế thị trường tiền TBCN”, “kinh tế thị trường TBCN”, hay “kinh tế thị trường XHCN”. Các loại KTTT
đó có những thuộc tính rất khác nhau.

Tổng kết lại :Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật
phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra tồn tại và phát
triển. Một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ không phải là luận
điểm khoa học trong điều kiện khác. Chẳng hạn, thường thường trong các định luật của hố học bao giờ
cũng có hai điều kiện: nhiệt độ và áp suất xác định. Nếu vượt khỏi những điều kiện đó định luật sẽkhơng
cịn đúng nữa. Trong lịch sử triết học khi xem xét các hệ thống triết học bao giờ chúng ta cũng xem xét
hoàn cảnh ra đời và phát triển của các hệ thống đó .

Phần II : Vận dụng của bản thân

Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể góp
phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính
bản thân chúng ta. Song để thực hiện được chúng, mỗi chúng ta cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo
trong hoạt động của mình. Đối với sinh viên, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, vẫn có thể sử
dụng các nguyên tắc phương pháp luận đó vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình góp phần xây

dựng đất nước ngày càng phồn vinh, xã hội ta ngày càng tươi đẹp.

Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong cuộc sống
Chúng ta hiện nay đều là những tân sinh viên, khi mới nhập học hầu như là không quen biết nhau. Khi
nhìn thấy 1 bạn nào đấy , chắc chắn chúng ta đều có những ấn tượng đầu tiên về ngoại hình , tính cách
của bạn đó. Nhưng nếu chỉ qua 1 vài lần gặp mặt mà chúng ta đã đánh giá bạn là người xấu hoặc tốt , dễ
tính hay khó tính. Cách đánh giá như vậy là phiến diện , chủ quan trái với quan điểm toàn diện.Điều có
thể làm cho chúng ta có những quyết định sai lầm . Chẳng hạn như khi nhìn thấy một người có gương
mặt ưa nhìn , ăn nói nhỏ nhẹ đã vội vàng kết luận là người tốt và muốn làm bạn , cịn khi nhìn thấy một
người ít nói , khơng hay cười thì cho là khó tính khơng muốn kết bạn. Qua một thời gian kết bạn mới
nhận ra người bạn mà mình chọn có những đức tính khơng tốt như lợi dụng bạn bè, ích kỷ. Cịn người
bạn ít nói kia thực ra rất tốt bụng , hay giúp đỡ bạn bè. Ấn tượng đầu tiên chỉ quyết định đến quá trình
giao tiếp về sau. Quan điểm toàn diện dạy cho ta biết rằng khi xem xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng
phải xem xét đánh giá một cách toàn diện , mọi mặt của vấn đề để hiểu được bản chất thật sự của sự vật
hiện tượng. Chúng ta khơng thể chỉ nhìn bề ngồi mà phán xét về phẩm chất, đạo đức của người đó.Vẻ
bề ngồi khơng nói lên được tất cả , có thể bạn đó có gương mặt lạnh lùng nhưng tính bạn rất cởi mở,


hịa đồng, dễ gần. Vì vậy muốn đánh giá 1 con người cần phải có thời gian tiếp xúc lâu dài , nhìn nhận họ
trên mọi phương diện , ở từng thời điểm ,từng hoàn cảnh khác nhau.

Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng con
người. Đối với những người bề trên như ông ,bà ,bố ,mẹ, thầy cơ… thì chúng ta cần có thái độ cư xử lễ
phép, tơn trọng họ. Đối với bạn bè thì có những hành động , thái độ thoải mái,tự nhiên .Ngay cả quan hệ
với một con người nhất định ở những không gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng
phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”. Ví dụ như khi
xưa anh ta là người xấu ,tính cách khơng tốt hay vụ lợi khơng nên giao tiếp chơi thân, nhưng hiện nay
anh ta đã sửa đổi tính cách tốt hơn biết quan tâm mọi người khơng như xưa , chúng ta cần nhìn nhận
anh ta khác đi , có thể cư xử khác trước, có thể giao tiếp , kết bạn với anh ta.
Hay khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta cần xem xét chúng trong các

mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải quyết, xử lý tốt . Khi ta học kém đi , điểm số giảm
cần tìm nguyên nhân do đâu khiến ta như vậy. Do lười học, không hiểu bài, khơng làm bài tập hay khơng
có thời gian học. Nếu tìm được nguyên nhân cụ thể, chủ yếu , thì sẽ tìm được cách giải quyết đúng đắn.

Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong việc học tập:
Trong học tập bao giờ cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn thì mới có kết quả cao hơn.
Việc vận dụng quan điểm tồn diện và lịch sử cụ thể trong học tập sẽ giúp định hướng học tập sâu hơn
và cao hơn, quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể là thế giới quan của mỗi con người.

Để vận dụng quan điểm trên chúng ta cần phân tích, xem xét các mặt của việc học một cách cụ thể, toàn
diện, phù hợp với từng thời điểm :
- Học tập là suốt đời, học bằng cái gì: bằng mắt, bằng tai, bằng tay, bằng da, bằng mũi, bằng miệng, học
cái gì trước, cái gì sau, học cái gì để biết, cái gì để làm, học để tồn tại, học để chung sống với con người,
với vạn vật, với mn lồi...
- Người học phải biết khiêm tốn, học phải hỏi, học ở mọi người.

- Nhiều thứ con người muốn học, nhưng muốn hiểu kỷ và sâu sắc thì phải tốn nhiều thời gian, kiên trì,
kiên nhẫn. ví dụ như người trồng lúa: học biết các giống lúa, loại nào phù hợp vùng đất nào, thời tiết
nào, những điều kiện và cách chăm bón đúng cách để đạt năng suất, khi phát hiện có sâu rầy phải giải
quyết thế nào...


- Học phải gắn với hành thì việc học có kết quả nhanh hơn. Người xưa vẫn dạy rằng: “Trăm hay không
bằng tay quen”. Lao động thời nào cũng vậy, phải ln ý thực là lí thuyết hay cũng khơng bằng thực hành
giỏi. Vai trò của thực hành được đề cao là điều hiển nhiên.
Ngày nay với đà phát triển của xã hội, quan niệm lí thuyết và thực hành được hiểu khác hơn, học và
hành lúc nào cũng đi đôi, không thể tách rời nhau. Trước hết ta cần hiểu : “học” là tiếp thu kiến thức đã
được tích luỹ trong sách vở, là nắm vững lí luận đã được đúc kết trong các bộ môn khoa học, đồng thời
tếp nhận những kinh nghiệm của cha anh đi trước. “Học” là trau dồi kiến thức, mở mang trí tuệ, từng lúc
cập nhật hóa sự hiểu biết của mình, khơng để tụt lùi, lạc hậu. “Học” là tìm hiểu, khám phá những tri thức

của loài người nhằm chinh phục thiên nhiên, chinh phục vũ trụ. Còn “hành” nghĩa là làm, là thực hành, là
ứng dụng kiến thức, lí thuyết vào thực tiễn đời sống. Cho nên học và hành có mối quan hệ rất chặt chẽ
với nhau. Học và hành là hai mặt của một qua trình thống nhất, nó không thể tách rời mà phải luôn gắn
chặt với nhau làm một.

Chúng ta cần hiểu rõ “hành” vừa là mục đích vừa là phương pháp học tập. Một khi đã nắm vững kiến
thức, đã tiếp thu lí thuyết mà ta khơng vận dụng vào thực tiễn, thì học cũng trở nên vơ ích. Có nhiều bạn
trẻ khi rời ghế nhà trường vào một nhà máy, một cơ quan… Lúng túng khơng biết phải làm cơng việc mà
chun mơn mình đã được học như thế nào? Dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khi là sự hoang
mang, chán nản. Nguyên do dẫn đến việc “học” mà không “hành” được là do học khơng thấu đáo, khi
cịn ngồi trên ghế nhà trường không thật sự chuyên tâm, rèn luyện, trau dồi kiến thức hoặc thiếu môi
trường hoạt động.
Ngược lại nếu hành mà khơng có lí luận, lí thuyết soi sáng và kinh nghiệm đã được đúc kết dẫn dắt thì
việc ứng dụng vào thực tiễn sẽ lúng túng, gặp rất nhiều khó khăn trở ngại, thậm chí có khi cịn dẫn đến
những sai lầm to lớn nữa. Do vậy việc học tập, trau dồi kiến thức và kinh nghiệm là nền tảng để mỗi
người áp dụng vào thực tế, thực hành trong thực tiễn cuộc sống.
Một thực tế cho thấy, sự thiếu liên hệ giữa kiến thức với thực tiễn ở các trường phổ thông đã khiến các
sinh viên tương lai không biết nên lựa chọn ngành học nào trước mùa thi. Đa số các em không biết sử
dụng những kiến thức đã được học vào việc gì ngồi việc để... thi đỗ đại học
Hậu quả sâu xa hơn của việc “học” khơng đi đơi với “hành” là có nhiều học sinh, sinh viên đạt kết quả
học tập rất cao nhưng vẫn ngơ ngác khi bước vào cuộc sống, nhiều thủ khoa sau khi ra trường, va vấp
cuộc sống mới tự hỏi: “Khơng biết việc chọn trường chọn ngành của mình đã đúng hay chưa?”. Nhất là
khi xã hội đang cần những người có tay nghề cao phục vụ cho cơng cuộc cơng nghiệp hố - hiện đại hố
thì việc “Học đi đôi với hành” càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

- Tuy nhiên, nếu chỉ chăm vào học tập thơi thì chưa đủ, chúng ta cần phải rèn luyện cả về phẩm chất, đạo
đức như Bác đã từng dạy “Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài thì làm việc
gì cũng khó” Tài và đức là những phẩm chất khác nhau nhưng ln ln gắn bó mật thiết khơng thể tách
rời. Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, bởi tài năng đó khơng phục vụ cái chung mà chỉ mưu cầu
lợi ích cho một cá nhân thì cũng trở thành vô giá trị. Con người ta không thể sống một mình, khơng thể

tách rời khỏi gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, nhân dân, nhân loại. Giá trị một con người được xem xét
chính bởi tác dụng của cá nhân đó trong mối quan hệ với đồng loại. Người khơng có đức là người khơng


quan tâm đến quyền lợi của người khác. Nếu có tài, họ cũng chỉ vun vén để có lợi cho riêng họ. Người có
tài mà phản bội Tổ quốc, đi ngược lại lợi ích của tập thể thì chẳng những vơ dụng mà cịn có tội. Người
càng có tài mà kém đạo đức thì tác hại mang đến cho gia đình, xã hội càng lớn.

Nhưng nếu chỉ có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó. Có đức, có khát vọng hành động vì lợi ích
của mọi người nhưng khơng có kiến thức, năng lực kém thì những ý định tốt cũng khó trở thành hiện
thực. Tài năng giúp con người lao động có hiệu quả. Thiếu tài năng, người ta trở nên ít có tác dụng trong
đời sống con người. Rõ ràng là giá trị con người phải bao gồm cả tài và đức. Đức và tài bổ sung, hỗ trợ
cho nhau thì con người mới trở nên toàn diện, mới đạt hiệu quả lao động cao và mới có ích cho mọi
người.

Chúng ta hiện nay đang là những sinh viên, là những người đang trong quá trình phát triển về mọi mặt
cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân cách... cho nên thời kì này phải tranh thủ điều kiện để
hoàn thiện bản thân, phải rèn luyện cả phẩm chất, năng lực, cả đức cả tài, học hỏi bạn bè, gia đình, nhà
trường và xã hội để trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện nay
làm nền tảng cho sự phát triển tiếp tục trong tương lai.



×