Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

(Luận văn thạc sĩ) vai trò của trung tâm bồi dưỡng chính trị ở thành phố hồ chí minh trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.67 KB, 74 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------

NGUYỄN NGUN KHƠI

VAI TRỊ CỦA TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG CHÍNH TRỊ
ỞTHÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG

Hà Nội - 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------

NGUYỄN NGUN KHƠI

VAI TRỊ CỦA TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG CHÍNH TRỊ
ỞTHÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


TS. NGUYỄN THỊ HOA

Hà Nội - 2021


1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc" và "muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" [37,
tr.309]; vì vậy, trong sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn dành sự quan tâm đặc
biệt đến công tác cán bộ, coi đây là khâu "then chốt" của nhiệm vụ "then chốt",
đặc biệt là vai trò rất quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở, quyết
định kết quả triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: "Huấn luyện
cán bộ là cơng việc gốc của Đảng" [37, tr.280], do đó, trong tiến trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam ln chú trọng công tác xây dựng, đào tạo
đội ngũ cán bộ có đức có tài, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở ngang
tầm nhiệm vụ, xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của
nhân dân. Đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở được hình thành, phát triển chất
lượng bằng nhiều phương thức khác nhau, chủ yếu và quan trọng hàng đầu là từ
công tác đào tạo, bồi dưỡng tại các trường đảng, trung tâm bồi dưỡng chính trị
cấp huyện. Chính vì vậy, thực hiện tốt chính sách đào tạo, bồi dưỡng tại các
trung tâm bồi dưỡng chính trị là nhiệm vụ quan trọng cấp thiết hiện nay để nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở.

Thành phố Hồ Chí Minh là "đơ thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế,
văn hoá, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu và hội nhập

quốc tế, là đầu tàu, động lực, có sức thu hút và sức lan toả lớn của vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam, có vị trí chính trị quan trọng của cả nước" [25, tr.1].
Đến năm 2020, Thành phố Hồ Chí Minh có 24 trung tâm bồi dưỡng chính trị
cấp huyện thực hiện chức năng là đơn vị đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính
trị, chun mơn nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị ở cơ
sở. Các trung tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh đã và đang giữ vai trò rất quan trọng trong việc góp phần củng cố,
bồi đắp, các kiến thức nhằm giữ vững lập trường tư tưởng cho

2


cán bộ, đảng viên ở cơ sở, đồng thời nâng cao trình độ lý luận chính trị,
chun mơn nghiệp vụ, đáp ứng tốt hơn những địi hỏi của cơng tác lãnh đạo,
quản lý và nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ sở.
Trong những năm qua, thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán
bộ, đảng viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã được các trung tâm bồi
dưỡng chính trị quận, huyện thực hiện có hiệu quả, đảm bảo đúng tiến độ, kế
hoạch đề ra, đáp ứng ngày càng hiệu quả nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cho cán
bộ, đảng viên.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, q trình thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên tại các trung tâm bồi dưỡng chính
trị quận, huyện ở Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều hạn chế như: Nội
dung của chương trình học cịn nhiều bất cập, nhiều chương trình nặng về lý
luận; chất lượng giảng dạy có lúc có nơi còn chưa đạt yêu cầu đề ra; đội ngũ
giảng viên, báo cáo viên tham gia còn hạn chế, một số thiếu kiến thức thực
tiễn, trong giảng dạy còn nặng về lý thuyết, thiếu truyền thụ kỹ năng, thực
tiễn; đầu tư cho giảng dạy và học tập còn nhiều hạn chế…
Trước bối cảnh tình hình trên, cùng với yêu cầu chuẩn bị nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở sau Đại hội Đảng các cấp, nhất là sau Đại

hội XI Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, cần có một sự nghiên cứu tồn diện về
thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên tại các trung tâm
bồi dưỡng chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh, góp phần đề xuất các giải pháp
nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên trên địa bàn thành phố
trong thời gian tới, thực hiện hiệu quả Chương trình đột phá phát triển nhân lực
thành phố theo Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ thành phố đề ra.

Từ những lý do nêu trên, tơi chọn: "Vai trị của trung tâm bồi dưỡng
chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh trong q trình thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên" làm đề tài luận văn tốt nghiệp
ngành Chính sách công.

3


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết nói về đào tạo, bồi
dưỡng cho cán bộ, công chức, đảng viên có liên quan đến hướng nghiên cứu
của đề tài, có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu, bài viết như sau:
-

Nguyễn Văn Trung (2009) với: "Công tác đào tạo, bồi dưỡng cơng

chức ở một số nước", tạp chí quản lý Nhà nước số 3/2009. Nghiên cứu đã khái
quát được vị trí, vai trị của đội ngũ cơng chức đối với nền hành chính một số
nước trên thế giới như Singapore, Hàn Quốc, Hoa Kỳ… Đồng thời đề
cao vai trị của cơng tác đào tạo bồi dưỡng trong việc nâng cao năng lực của
đội ngũ này. Đây là những luận thuyết quan trọng, tác giả sẽ kế thừa những
vấn đề này để bổ sung vào phần lý luận cho hướng nghiên cứu của luận văn.
- Ngô Thành Can (2014) với bài viết: "Cải cách quy trình đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức nhằm nâng cao năng lực thực thi cơng vụ", Tạp chí
Quản lý nhà nước số tháng 5/2014. Nghiên cứu đã tập trung làm rõ những vấn
đề lý luận về tác đào tạo, bồi dưỡng như: nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng; lập kế
hoạch, thực hiện kế hoạch, đánh giá đào tạo bồi dưỡng, quy trình thực hiện
đào tạo bồi dưỡng cho cán bộ, công chức…Luận văn sẽ kế thừa những vấn đề
này trong quá trình nghiên cứu những vấn đề lý luận của đề tài.
- Đề tài "Thực hiện chính sách bồi dưỡng chính trị cho cơng chức cấp

sở từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh" của Võ Hoàng Phú, năm 2017. Tác
giả đề tài này đã tiếp cận, nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện chính
sách bồi dưỡng chính trị cho cơng chức cấp cơ sở, đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách bồi dưỡng chính trị cho đội
ngũ cơng chức cấp cơ sở cùng những đề nghị đối với các cơ quan có liên
quan. Tác giả nghiên cứu sẽ tiếp thu một số nội dung có liên quan đến chủ thể,
đối tượng về đào tạo, bồi dưỡng để bổ sung hoàn thiện cho cơ sở lý luận mà
luận văn hướng đến.

4


-

Đề tài "Chính sách phát triển cán bộ, cơng chức từ thực tiễn tỉnh Đồng

Nai" của Thái Bình Dương, năm 2017. Tác giả đi sâu vào nghiên cứu tình
hình thực hiện chính sách phát triển cán bộ, cơng chức từ thực tiễn tỉnh Đồng
Nai, từ đó đánh giá nhận xét về ưu điểm, hạn chế và bất cập của chính sách,
chỉ ra những nguyên nhân chủ quan và khách quan của những hạn chế và bất
cập. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra các kiến nghị và đề xuất để hồn thiện
chính sách tại nơi nghiên cứu. Luận văn sẽ kế thừa các đánh giá, tiếp tục

nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách, cụ thể là
thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng trong quá trình nghiên cứu, thực hiện
đề tài.
- Đề tài "Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức tại các cơ
quan chuyên môn tỉnh Hưng Yên" của Phạm Thị Ngoan, năm 2019. Tác giả đề
tài này đã tiếp cận, nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng tại các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Luận văn sẽ kế thừa các nội
dung về lý luận, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng công chức, các quy định của pháp luật về đội ngũ cơng
chức trong q trình nghiên cứu những vấn đề lý luận của đề tài.
- Đề tài "Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ" của Trần Thị Phương Viên, năm 2019. Tác giả đề tài
này đã tiếp cận, nghiên cứu về thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 20132018; từ đó đề xuất các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách này trong
giai đoạn tiếp theo. Luận văn sẽ kế thừa, tiếp thu một số nội dung có liên quan
đến thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đặc biệt là gắn với tình hình tại
cơ sở để nghiên cứu, hồn thiện phù hợp với tình hình, điều kiện, đặc điểm ở
Thành phố Hồ Chí Minh trong q trình thực hiện đề tài.

5


-

Đề tài "Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức tại

huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội" của Nguyễn Tuấn Anh, năm 2020. Tác giả
đề tài này đã tiếp cận, nghiên cứu việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cho cán bộ, công chức tại cấp huyện và đề xuất các giải pháp nâng cao

trong thời gian tới. Các giải pháp thực hiện chính sách ngay tại địa phương
cấp huyện và hướng đến đối tượng là cán bộ, công chức cấp cơ sở. Tác giả
luận văn sẽ kế thừa những vấn đề này trong quá trình làm rõ vấn đề nghiên
cứu của đề tài.
-

Đề tài "Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã từ thực

tiễn tỉnh Cao Bằng" của Đinh Thị Thủy, năm 2020. Tác giả đề tài này đã tiếp
cận nghiên cứu dưới góc độ quản lý hành chính Nhà nước về đội ngũ cán bộ,
công chức ở cấp xã, thực trạng thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật trên địa bàn cấp tỉnh. Các giải
pháp và khuyến nghị được nêu trong đề tài góp phần vào cơng tác quản lý
Nhà nước, quản lý đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở. Đây là những lý luận
hết sức quan trọng về công tác đào tạo, bồi dưỡng, vì vậy, tác giả luận văn sẽ
kế thừa và bổ sung vào hướng nghiên cứu của đề tài.
Tóm lại, trong phần tổng thuật tài liệu, tác giả thấy rằng những đề tài nêu
trên chỉ tập trung vào chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công
chức, đa số lấy thực tiễn từ một địa bàn cấp huyện; tuy nhiên, chưa có đề tài
nào đánh giá về mặt lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cho cán bộ, đảng viên; chưa có đề tài nào phân tích, đi sâu nghiên cứu
về vai trị của trung tâm bồi dưỡng chính trị trong q trình thực hiện chính
sách này tại cơ sở. Vì vậy, đề tài "Vai trị của trung tâm bồi dưỡng chính trị ở
Thành phố Hồ Chí Minh trong q trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cho cán bộ, đảng viên" là hồn tồn mới, khơng trùng khớp với các đề
tài đã cơng bố trước đó.

6



3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cho cán bộ, đảng viên; phân tích, đánh giá thực trạng q trình thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên tại các trung tâm bồi
dưỡng chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh; từ đó đề xuất giải pháp nâng cao
hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên tại
các trung tâm bồi dưỡng chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tiến hành phân
tích, làm rõ các nhiệm vụ trọng tâm sau:
-

Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cho cán bộ, đảng viên.
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ,

đảng viên tại các trung tâm bồi dưỡng chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh.
-

Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đào

tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên tại các trung tâm bồi dưỡng chính trị ở
Thành phố Hồ Chí Minh.
4.


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ,

đảng viên tại các trung tâm bồi dưỡng chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: tại các trung tâm bồi dưỡng chính trị ở Thành phố
Hồ Chí Minh.
- Về thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2020.
-

Về nội dung: Nghiên cứu việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cho cán bộ, đảng viên tại các trung tâm bồi dưỡng chính trị ở Thành phố Hồ
Chí Minh.

7


5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin,

vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách cơng, cùng với nghiên cứu lý
thuyết, nghiên cứu thực tế về chu trình chính sách cơng, từ hoạch định đến
xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách cơng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu của đề tài, tác giả sử dụng các phương

pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê, thu thập số liệu: Đề tài sử dụng số liệu từ các
báo cáo, văn bản của cấp ủy, chính quyền các địa phương, đơn vị nhằm phân
tích, đánh giá thực trạng để qua đó, khái quát, đề xuất, khuyến nghị với các cơ
quan có liên quan trong q trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho
cán bộ, đảng viên tại các trung tâm bồi dưỡng chính trị ở Thành phố Hồ Chí
Minh.
-

Phương pháp điều tra khảo sát: Đề tài sử dụng phương pháp điều tra

khảo sát từ các học viên, giảng viên tại các trung tâm bồi dưỡng chính trị ở
Thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp này giúp cho tác giả nghiên cứu tìm ra
những thơng tin thực tế, khách quan và đó là những căn cứ cần thiết cho
những kết luận nghiên cứu khoa học.
-

Phương pháp phân tích tổng hợp: Từ việc thu thập số liệu khảo sát trên,

tác giả sẽ phân tích chi tiết từng nội dung khảo sát để đánh giá quá trình thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên tại các trung tâm
bồi dưỡng chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh.
-

Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tài liệu được sử dụng trong nghiên

cứu này chủ yếu là các cơng trình nghiên cứu, các đề tài khoa học về đào tạo
bồi dưỡng nói chung và chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên nói
riêng nhằm làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu của luận văn.


8


6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Qua nghiên cứu đề tài sẽ giúp người học vận dụng, làm rõ những vấn đề

lý thuyết về thực hiện chính sách cơng vào việc phân tích, đánh giá thực hiện
chính sách.
Ngồi ra, nghiên cứu đề tài còn giúp làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên theo quan điểm, định
hướng của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cung cấp những vấn đề thực tiễn trong quá trình thực hiện một
chính sách cơng cụ thể tại một địa phương cụ thể. Từ đó, luận văn cung cấp
cơ sở khoa học cho các cơ quan, đơn vị có chức năng liên quan ở cấp quận,
huyện, cấp thành phố và Trung ương trong tổ chức thực hiện chính sách tại
địa phương trong thời gian tới.
Mặt khác, luận văn cũng là cơ sở nghiên cứu, có giá trị tham khảo cho
các học viên cao học và những ai quan tâm về chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cho cán bộ, đảng viên tại các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 03 chương, cụ thể như sau:
-

Chương 1. Cơ sở lý luận về vai trị của trung tâm bồi dưỡng chính trị trong


q trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên.

-Chương 2. Thực trạng vai trị của trung tâm bồi dưỡng chính trị ở
Thành phố Hồ Chí Minh trong q trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cho cán bộ, đảng viên.
-

Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả vai trò của

trung tâm bồi dưỡng chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh trong q trình thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên.

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TRUNG TÂM BỒI
DƯỠNG CHÍNH TRỊ TRONG Q TRÌNH THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CHO CÁN BỘ,
ĐẢNG VIÊN

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng
Theo Từ điển Tiếng Việt do GS. Hoàng Phê chủ biên, Đào tạo - là làm
cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định; còn Bồi
dưỡng – là làm cho – 1) tăng thêm sức của cơ thể bằng chất bổ và – 2) tăng
thêm năng lực hoặc phẩm chất.
Theo Đại từ điển do GS. Nguyễn Như Ý chủ biên, Đào tạo – là dạy dỗ,
rèn luyện để trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp; còn Bồi dưỡng – là
làm cho – 1) khỏe thêm, mạnh thêm và – 2) tốt hơn, giỏi hơn.

Căn cứ vào những nét nghĩa chính của khái niệm "đào tạo" và "bồi
dưỡng" được các Từ điển giải thích trên đây cho thấy, đây là hai khái niệm,
mặc dù có những nét nghĩa tương đồng nhất định (như đều chỉ quá trình làm
tốt hơn, lành mạnh hơn, chuyên nghiệp hơn cho khách thể), song đây là hai
khái niệm không đồng nghĩa nhau bằng những nội hàm nghĩa rất cụ thể – mà
trước hết, đó là bản chất của q trình giáo dục. Cụ thể, khái niệm "đào tạo"
được hiểu là một q trình dài, khép kín nhằm trang bị và xây dựng cho khách
thể các tố chất mà trước đó khách thể đó khơng có; trong khi đó, khái niệm
"bồi dưỡng" chỉ được coi là một giai đoạn ngắn, bổ trợ, nhằm bồi bổ thêm,
làm tốt thêm và nâng cao hơn các tố chất vốn đã có sẵn của khách thể.
Đến nay, về mặt khoa học và pháp lý, có sự thống nhất cơ bản về các
khái niệm "đào tạo", "bồi dưỡng" và tồn tại với hai khái niệm độc lập. Tuy
nhiên, bên cạnh hai khái niệm đào tạo và bồi dưỡng là những khái niệm độc
lập, trong thực tiễn vẫn còn một quan niệm mới là "đào tạo bồi dưỡng", với

10


nhận thức là một thuật ngữ chung không tách rời, đó là "đào tạo bồi dưỡng" là
q trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy
định của từng cấp bậc đào tạo, đồng thời vừa trang bị, cập nhật, rèn luyện để
nâng cao kiến thức, kỹ năng cần thiết cho một đối tượng học tập.
Như vậy, việc phân định độc lập giữa đào tạo và bồi dưỡng hiện nay
cũng chỉ mang tính chất tương đối, trong nhiều trường hợp khơng hồn tồn
xác định chính xác khi nào diễn ra quá trình đào tạo, khi nào thực hiện bồi
dưỡng. Trong đề tài này sẽ sử dụng khái niệm "đào tạo" và "bồi dưỡng", được
sử dụng trong tất các loại hình đào tạo và bồi dưỡng cụ thể.
Đào tạo là quá trình truyền đạt những kiến thức và kỹ năng cho người
học theo từng cấp độ khác nhau nhằm hình thành và phát triển một cách có hệ
thống các tri thức, trình độ, năng lực của con người.

Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức và kỹ năng
làm việc, phù hợp với tình hình thực tiễn để người học đủ khả năng giải quyết
cơng việc một cách có hiệu quả trong tình hình mới.
1.1.2. Khái niệm về chính sách
"Chính sách" là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các tài liệu, văn
bản và trên các phương tiện truyền thông đại chúng, tuy nhiên, đây là thuật
ngữ khó có thể định nghĩa một cách cụ thể và rõ ràng. Các chính sách đơi khi
có thể được nhận thấy dưới hình thức các quyết định đơn lẻ, nhưng thơng
thường nó bao gồm một tập hợp các quyết định hoặc được nhìn nhận như là
một sự định hướng. Do đó, các định nghĩa khi đưa ra cũng khó có thể xác
định những thời điểm cụ thể mà chính sách được ban hành.
Theo Từ điển Tiếng Việt do GS. Hồng Phê chủ biên, "chính sách là sách
lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối
chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra" [39, tr.157]. Theo tác giả Vũ
Cao Đàm thì "chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một
chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi

11


một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định
hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong
chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội" [16, tr.29].
Theo cách tiếp cận của một số học giả trên thế giới thì cho rằng, chính
sách là sản phẩm của tất cả các chủ thể trong xã hội và chính sách chính là
cơng cụ quan trọng giúp các chủ thể đó đạt được mục đích đặt ra. Nhóm tác
giả Nguyễn Thị Hoa và Bùi Nghĩa dẫn giải cách tiếp cận của Colebatch với
quan niệm "chính sách là cách thức huy động sự tham gia của các yếu tố liên
quan đến vật chất, tổ chức các nhóm đối tượng chính sách vào q trình điều
hành của Nhà nước, mong đạt được tiếng nói và những hành động chung, trên

cơ sở hình dung về thế giới ở hiện tại và tương lai" [36, tr.53].
Nhóm tác giả Nguyễn Thị Hoa và Bùi Nghĩa đưa ra quan niệm về chính
sách được hiểu "là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản
lý đề ra để giải quyết vấn đề vì mục tiêu phát triển của tổ chức" [36, tr.54].
Như vậy, dù tiếp cận ở góc độ nào và quan niệm như thế nào thì chính
sách cũng có những đặc điểm nổi bật như sau:
(1) Chính sách là do một chủ thể trong xã hội ban hành, không phải là bất
kỳ một cá nhân nào trong xã hội mà phải là cá nhân đại diện cho một tổ chức.

(2) Chính sách được ban hành căn cứ vào chủ trương, đường lối
của tổ
chức đó, là một cơng cụ được các tổ chức sử dụng để làm cầu nối giữa chủ
trương, đường lối và các kế hoạch hành động thực tế của tổ chức.
(3)

Chính sách là sự phản ứng nhưng là sự phản ứng của tổ chức và kết

quả của sự phản ứng được thể hiện dưới dạng vật chất là văn bản, dùng để đạt
được những mục tiêu của tổ chức đặt ra.
Tóm lại, chính sách là hành động của chủ thể quản lý để giải quyết một
vấn đề nào đó nhằm đạt được mục tiêu mà chủ thể quản lý hướng đến.
1.1.3. Khái niệm về chính sách cơng

12


Tác giả Nguyễn Hữu Hải đưa ra khái niệm "chính sách công là những
hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng
đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội
phát triển" [32, tr.14]. Theo quan niệm này thì mục đích chính sách cơng là

thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng, chứ không đơn giản chỉ dừng lại ở
việc giải quyết vấn đề cơng. Nói khác đi, chính sách cơng là cơng cụ để thực
hiện mục tiêu chính trị của Nhà nước.
Nhóm tác giả Lê Như Thanh và Lê Văn Hịa thì đưa ra khái niệm "chính
sách cơng là một tập hợp các quyết định liên quan với nhau do Nhà nước ban
hành, bao gồm các mục tiêu và giải pháp để giải quyết một vấn đề công nhằm
đạt được các mục tiêu phát triển" [44, tr.10].
Trong bài nghiên cứu "Bàn về khái niệm chính sách công", PGS.TS. Hồ
Việt Hạnh đã đưa ra khái niệm "chính sách cơng là những quyết định của chủ
thể được trao quyền lực công nhằm giải quyết các vấn đề về lợi ích chung của
cộng đồng" [34, tr.4-6]. Theo quan niệm này thì tác giả đã tiếp cận chính sách
cơng từ góc độ quyền lực trong sự so sánh với chính sách tư, cung cấp thêm
nhận thức và có tính gợi mở cao về chính sách cơng gắn với tình hình thực
tiễn ở Việt Nam.
Nhóm tác giả Nguyễn Thị Hoa và Bùi Nghĩa đưa ra định nghĩa "chính
sách cơng là tập hợp các quyết định do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban
hành hướng đến các nhóm đối tượng thụ hưởng nhằm phục vụ cho lợi ích
cơng, cho sự phát triển của xã hội" [36, tr.57]. Theo quan niệm này thì chính
sách cơng có những đặc điểm nổi bật như chủ thể ban hành là Nhà nước, được
thể hiện bằng những văn bản pháp luật, hướng tới mục tiêu nhất định và từng
nhóm đối tượng thụ hưởng cụ thể.
Cho đến nay có khá nhiều định nghĩa về chính sách cơng được các học
giả đưa ra. Cho dù có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng tất cả các định nghĩa
đều thống nhất ở hai điểm cơ bản, đó là chính sách công bắt nguồn từ

13


các quyết định của Nhà nước và dùng để giải quyết những vấn đề chung vì lợi
ích của đời sống cộng đồng.

1.1.4. Khái niệm về chính sách đào tạo, bồi dưỡng
Từ những khái niệm nêu trên, gắn với tình hình thực tiễn nước ta, có thể
hiểu chính sách đào tạo, bồi dưỡng như sau:
Chính sách đào tạo, bồi dưỡng là những công cụ của Nhà nước, được
Nhà nước ban hành để thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục - đào tạo của đất
nước, nhằm hướng đến việc phát triển con người tồn diện, ưu tiên khuyến
khích xã hội học tập, nâng cao mặt bằng dân trí, bồi dưỡng nhân tài để xây
dựng và phát triển đất nước. Các chính sách này đều dựa trên cơ sở thực tiễn,
dựa vào diễn biến tình hình phát sinh trong từng giai đoạn cụ thể của đất
nước.
1.1.5. Khái niệm về cán bộ, đảng viên
Cán bộ, công chức là những thuật ngữ cơ bản của chế độ công vụ, công
chức, thường xuyên xuất hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thuật
ngữ "cán bộ" được sử dụng khá lâu tại các nước xã hội chủ nghĩa và bao hàm
trong phạm vi rộng những người làm việc thuộc khu vực nhà nước và tổ chức
chính trị và các tổ chức chính trị- xã hội.
Quốc hội khoá XII đã lần lượt ban hành Luật Cán bộ, cơng chức
(13/11/2008), đồng thời Quốc hội khóa XIV đã sửa đổi, bổ sung một số điều
của luật này, trong đó xác định rõ hàm nghĩa của các từ cán bộ, công chức.
Theo Luật Cán bộ, công chức hiện hành, cán bộ là công dân Việt Nam,
được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung
là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là
cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

14


Đồng thời, theo Luật Cán bộ, công chức hiện hành, công chức là công

dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh
tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong
cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, qn nhân
chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên
nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước.
Như vậy, theo quy định của Luật cán bộ, cơng chức thì cán bộ và cơng
chức có những tiêu chí chung là: cơng dân Việt Nam; trong biên chế; hưởng
lương từ Ngân sách nhà nước; giữ một công vụ thường xuyên; làm việc trong
công sở; được phân định theo cấp hành chính. Bên cạnh đó, giữa cán bộ và
cơng chức được phân định rõ theo tiêu chí riêng, gắn với nguồn gốc hình
thành.
Đảng viên là thành tố cơ bản cấu thành các tổ chức đảng và tồn Đảng, ở
nước ta thì đó là thành tố cơ bản cấu thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh thì "để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng
mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt" [38, tr.113].
Theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam hiện hành có quy định "Đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho
mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà
nước; có lao động, hồn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống
lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của
Đảng, giữ gìn đồn kết thống nhất trong Đảng" [31, tr.7].

15



1.1.6. Khái niệm về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên là một trong những khâu quan
trọng trong công tác cán bộ của Đảng ta. Đây là một công tác rất khó khăn,
phức tạp, địi hỏi phải có tính khoa học và nghệ thuật. Vận dụng một cách
sáng tạo và phát triển những quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về cơng
tác cán bộ, đảng viên nói chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng
viên nói riêng vào điều kiện của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln cho
rằng: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc" [37, tr.309]; "Muôn việc thành
công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định"
[37, tr.280]; đồng thời Người cũng rất coi trọng vai trò của đào tạo, bồi dưỡng
cho cán bộ, đảng viên: "Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của
Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình
hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính
sách cho đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi cơng việc. Vì vậy, huấn
luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng" [37, tr.309]. Người thường xuyên
nhấn mạnh: "Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng
những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một
người có ích cho cơng việc chung của chúng ta" [37, tr.313].
Từ những khái niệm nêu trên, có thể hiểu chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cho cán bộ, đảng viên là các chương trình, kế hoạch do cơ quan quản lý Nhà
nước ban hành để thực hiện mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên tại
các địa phương, đơn vị nhằm hướng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng u cầu cơng việc, góp phần
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đất
nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
1.2. Vị trí, vai trị của trung tâm bồi dưỡng chính trị
Theo quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X xác định:
"Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện là đơn vị sự nghiệp trực thuộc cấp


16


uỷ và uỷ ban nhân dân cấp huyện, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường
xuyên của ban thường vụ cấp uỷ cấp huyện" [23, tr.1].
Trung tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện có vai trị tổ chức đào tạo,
bồi dưỡng về lý luận chính trị - hành chính; các nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiến thức, kỹ năng và chuyên môn,
nghiệp vụ cơng tác xây dựng đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể chính trị - xã hội, kiến thức quản lý nhà nước cho cán bộ, đảng viên
trong hệ thống chính trị ở cơ sở trên địa bàn, không thuộc đối tượng đào tạo,
bồi dưỡng của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Nhiệm vụ của các trung tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện:
(1) Đào tạo sơ cấp lý luận chính trị - hành chính; bồi dưỡng các chương
trình lý luận chính trị cho các đối tượng theo quy định; các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên trên
địa bàn;
(2)

Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới về chuyên môn, nghiệp vụ công

tác xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính
trị - xã hội và một số lĩnh vực khác cho cán bộ đảng, cán bộ chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các đồn thể ở cơ sở.
(3)

Bồi dưỡng chính trị cho đối tượng phát triển đảng; lý luận chính trị

cho đảng viên mới; nghiệp vụ công tác đảng cho cấp ủy viên cơ sở.

(4) Tổ chức thơng tin về tình hình thời sự, chính sách... cho đội ngũ
báo
cáo viên, tuyên truyền viên ở cơ sở.
(5)

Thực hiện một số nhiệm vụ khác theo yêu cầu và tình hình thực tế do

chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương.
Thực tế hiện nay trong cả nước, trung tâm bồi dưỡng chính trị quận,
huyện là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng rất quan trọng, thực hiện nhiệm vụ truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của

17


Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ
sở.
1.3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, đảng viên
Quá trình lịch sử cách mạng của nước ta trong gần 100 năm qua là một
chặng đường cách mạng đầy gian nan, vất vả, hy sinh nhưng cũng rất hào
hùng, oanh liệt của Đảng và nhân dân ta. Đảng, Nhà nước ta ln quan tâm
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên thông qua nhiều nghị quyết,
kết luận, chỉ thị,… và thông qua nhiều hội nghị Trung ương trực tiếp bàn về
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên.
Đại hội VI (tháng 12 năm 1986) là một bước đột phá trong công tác cán
bộ nói chung và cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên nói riêng. Đại
hội đã xác định: "Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải tuân theo một quy trình
chặt chẽ. Đó là kết hợp giữa bồi dưỡng kiến thức ở các trường học với rèn
luyện trong thực tiễn" [17, tr.134], "Nhân tài không phải là sản phẩm tự phát,

mà phải được phát hiện và bồi dưỡng công phu" [17, tr.134].
Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta chủ trương: "Đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ theo quy hoạch. Đào tạo gắn với tiêu chuẩn từng chức danh và
yêu cầu sử dụng cán bộ. Đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học. Đầu tư
thích đáng cho việc đào tạo cán bộ đảng" [18, tr.162].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta xác định: "Xây dựng,
chỉnh đốn hệ thống các học viện, trường và trung tâm chính trị, nâng cao chất
lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết là đối với cán bộ lãnh
đạo và quản lý các cấp" [21, tr.142].
Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 của Hội nghị lần thứ ba Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã xác định "Cán bộ lãnh đạo phải
được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện, trước hết về đường lối chính trị,

18


về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; được bố trí, điều động theo nhu
cầu và lợi ích của đất nước, có thể được ln chuyển từ trung ương về địa
phương, từ địa phương lên trung ương và từ địa phương này ra địa phương
khác" [20, tr.1].
Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018, của Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII về Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các
cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ đã xác định chủ trương "Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ
cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của
Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và
hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền
vững" [49, tr.58].
1.4. Vai trò của các trung tâm bồi dưỡng chính trị trong q trình tổ

chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên
1.4.1. Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho
cán bộ, đảng viên
Căn cứ vào bối cảnh tình hình, điều kiện thực tiễn theo giai đoạn, trên cơ
sở xác định nhu cầu thực tế, các tổ chức đảng và cơ quan quản lý Nhà nước ở
từng cấp sẽ phối hợp chủ trì, xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên.
Cấp Trung ương sẽ do Ban Tổ chức Trung ương và Bộ Nội vụ xây dựng
và ban hành kế hoạch. Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sẽ do Ban
Thường vụ tỉnh, thành ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố ban hành kế
hoạch. Đối với cấp huyện sẽ do cấp ủy, ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành
kế hoạch; sau đó trung tâm bồi dưỡng chính trị sẽ xây dựng và ban hành kế
hoạch tổ chức đào tạo, bồi dưỡng tại đơn vị.
Nếu cấp có thẩm quyền tổ chức xây dựng và ban hành kế hoạch tốt thì
việc thực hiện chính sách sẽ được tiến hành tốt; quá trình triển khai thực hiện

19


chính sách sẽ khơng cần phải điều chỉnh, trừ trường hợp phát sinh hoặc bất
khả kháng. Kế hoạch thực hiện chính sách chỉ có thể được điều chỉnh bởi cấp
có thẩm quyền xây dựng chính sách.
Kế hoạch này được lập ra trên cơ sở tiêu chuẩn về mặt kiến thức đã đề ra
cho từng loại chức danh cán bộ trong từng tổ chức, nhưng phải có tính hiện
thực. Từ mục tiêu đã định trong kế hoạch và căn cứ vào thực trạng đối tượng
cán bộ đã lựa chọn mà đặt ra yêu cầu đối với từng cán bộ cho phù hợp trong
từng giai đoạn nhất định (ai học gì, học ở đâu, bao giờ học, hình thức đi học,
thời gian đi học...). Nội dung của kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cho cán bộ, đảng viên phải bao gồm:
(1) Kế hoạch tổ chức, điều hành: gồm những nội dung dự kiến về hệ

thống tất cả các chủ thể, cơ quan chủ trì, phối hợp triển khai thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên; số lượng, nhân lực tham gia
thực thi kế hoạch; trách nhiệm của cán bộ quản lý và công chức thực thi kế
hoạch; cơ chế phối hợp và trách nhiệm giữa các cơ quan thực thi.
(2)

Kế hoạch dự kiến các nguồn lực: gồm những dự kiến về cơ sở vật

chất, trang thiết bị, phương tiện, điều kiện kỹ thuật phục vụ cho việc thực thi
chính sách đào tạo, bồi dưỡng; các nguồn lực tài chính, vật tư, văn phịng
phẩm,…
(3)

Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện: gồm dự kiến về thời gian của

quy trình thực hiện chính sách; mỗi bước đều có mục tiêu cần đạt được và
thời gian dự kiến cho việc thực hiện mục tiêu trong từng bước.
(4)

Kế hoạch kiểm tra, đơn đốc thực thi chính sách đào tạo, bồi dưỡng

cho cán bộ, đảng viên: gồm những nội dung dự kiến về tiến độ, phương thức
kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện chính sách; dự kiến về nội quy, quy
chế đào tạo, bồi dưỡng, quy chế điều hành nguồn lực tham gia thực thi chính
sách; dự kiến về trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức và

20


các cấp ủy, chính quyền tham gia thực thi chính sách; các biện pháp khen

thưởng, kỷ luật,…
1.4.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán
bộ, đảng viên
Việc tổ chức phổ biến, tuyên truyền chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho
cán bộ, đảng viên giúp cho cán bộ, đảng viên (là những người trực tiếp thụ
hưởng chính sách) nhận thức rõ mục đích, yêu cầu, sự cần thiết, đúng đắn của
chính sách để tự giác tham gia thực hiện chính sách; đồng thời cũng tích cực
tìm kiếm các giải pháp, cách thức để thực hiện chính sách.
Thực hiện phổ biến, tuyên truyền cho các đối tượng gồm cán bộ, đảng
viên và các cấp ủy, chính quyền theo kế hoạch đề ra; thực hiện bằng nhiều
hình thức như tổ chức truyền thơng qua báo chí, bản tin, qua các trang mạng
xã hội, trực tiếp tuyên truyền thông qua các cuộc hội nghị, diễn đàn, hội thảo,
tập huấn, sinh hoạt chuyên đề, câu lạc bộ,… Trong đó, cần chú ý về nội dung
đảm bảo phù hợp đối tượng, không gian, thời gian, phương pháp cần cụ thể,
dễ hiểu, dễ thực hiện, khơng bổ sung các nội dung mang tính chất cá nhân,
hoặc làm sai lệch chính sách.
1.4.3. Phân cơng, phối hợp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cho cán bộ, đảng viên
Để thực hiện tốt chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên thì
cần phải có sự phân cơng, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị có liên
quan, cùng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong thực thi chính sách, trong đó phải
bao gồm các đơn vị quản lý về lĩnh vực tài chính, ngân sách, nội vụ, tổ chức,
kiểm tra,… Trong q trình phân cơng, phối hợp cần đảm bảo về trình độ
chun mơn, nghiệp vụ và lợi thế của từng tập thể, cá nhân; tránh việc phân
công chồng chéo, không cụ thể sẽ dẫn đến việc thực hiện chính sách khơng
hiệu quả.
1.4.4. Duy trì chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên

21



Trong q trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ,
đảng viên, các tổ chức, cá nhân cần thường xuyên theo dõi, đánh giá kết quả
thực hiện, từ đó căn cứ vào yêu cầu quản lý và tình hình thực tiễn để tham
mưu, đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo chính sách được duy trì, phát huy
hiệu quả, áp dụng các biện pháp thực hiện chính sách phù hợp với hồn cảnh,
điều kiện, tình hình thực tiễn.
Để duy trì chính sách thì nội dung phải triển khai bằng văn bản có tính
pháp lý với các quy định rõ ràng, rành mạch, đồng thời tổ chức phối hợp
thống nhất, hiệu quả, đồng bộ. Ngoài ra, chủ thể thực hiện cần đảm bảo các
điều kiện về nhân lực, vật lực, tài lực, thông tin liên lạc; đảm bảo về thời gian
và quy trình theo kế hoạch; đảm bảo cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng
phí trong điều hành, quản lý, thực thi chính sách.
1.4.5. Điều chỉnh chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng
viên
Trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ,
đảng viên, trước yêu cầu quản lý và tình hình thực tế của địa phương, đơn vị
thì quá trình thực hiện cần có sự điều chỉnh nhất định để chính sách đáp ứng
yêu cầu, mục tiêu và phù hợp tình hình thực tiễn, khắc phục những mặt khó
khăn, hạn chế. Về mặt thẩm quyền thì cơ quan nào ban hành chính sách thì cơ
quan đó có thẩm quyền điều chỉnh chính sách, mặc dù vậy, thực tế việc điều
chỉnh về nội dung và biện pháp thực hiện chính sách cũng diễn ra linh hoạt
theo điều kiện, tình hình của từng địa phương, đơn vị. Do vậy, các cấp ủy, cơ
quan quản lý Nhà nước chủ động điều chỉnh về biện pháp, giải pháp cơ chế
thực hiện chính sách nhưng khơng thay đổi mục tiêu của chính sách đã đề ra;
bởi nếu thay đổi mục tiêu chính sách đào tạo, bồi dưỡng thì coi như chính
sách thất bại.
1.4.6. Đơn đốc, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên


22


Việc đôn đốc, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cho cán bộ, đảng viên giúp cho cấp có thẩm quyền kịp thời bổ sung,
hồn thiện chính sách; đồng thời chấn chỉnh cơng tác tổ chức, thực hiện chính
sách, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện mục tiêu chính sách và phát hiện
xử lý các vi phạm chính sách.
Để thực hiện đơn đốc, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên thì cấp có thẩm quyền cần phải tổ chức
thu thập, cập nhật đầy đủ các nguồn thơng tin, dữ liệu về q trình triển khai,
đánh giá kết quả thực hiện chính sách từ các tổ chức, cá nhân, nhất là đối
tượng thụ hưởng là cán bộ, công chức. Trên cơ sở căn cứ vào kế hoạch triển
khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên mà đề ra
biện pháp, cơ chế, giải pháp góp phần hồn thiện chính sách và nâng cao hiệu
quả thực hiện chính sách.
1.4.7. Tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên
Tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cho cán bộ, đảng viên là một khâu quan trọng và khơng thể thiếu trong
q trình thực hiện chính sách này. Để thực hiện việc này thì cần phải xây
dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn và các nguyên tắc, thang điểm đánh giá trên cơ
sở kế hoạch thực hiện chính sách, các nội quy, quy chế đề ra; đồng thời bám
sát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và còn hiệu lực đến thời
điểm đánh giá. Việc tổ chức tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm được thực
hiện theo phân kỳ hoặc theo quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cho cán bộ, đảng viên, gắn chặt với thời gian thực hiện mà kế hoạch đã đề ra;
nội dung đánh giá, rút kinh nghiệm phải đảm bảo chỉ ra được những mặt làm
được, những mặt chưa làm được và bài học kinh nghiệm trong thực hiện
chính sách.


23


×