VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ HOÀI THƯƠNG
NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA DOANH NGHIỆP
THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2020
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT
HÀ NỘI, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng
tơi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học rất nghiêm túc và nhiệt tình
của Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Như Phát
Những thơng tin, trích dẫn cũng như bản án trong luận văn là trung thực,
được dẫn từ các nguồn tham khảo có thật. Các phân tích, bình luận, đánh giá,
so sánh, gợi mở và kiến nghị trong cơng trình đều dựa trên một q trình làm
việc, tìm tịi, nghiên cứu một cách nghiêm túc của chính tác giả luận văn.
Nếu có bất kỳ sự gian lận nào, học viên Vũ Thị Hoài Thương xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Đà Nẵng, ngày tháng năm 2021
Tác giả luận văn
Vũ Thị Hoài Thương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA
DOANH NGHIỆP ........................................................................................... 7
1.1. Khái niệm , đặc điểm về người đại diện của doanh nghiệp ....................... 7
1.2. Vai trò của Người đại diện doanh nghiệp trong quản trị doanh nghiệp .. 13
1.3. Mối quan hệ của chủ sở hữu và người đại diện của doanh nghiệp .......... 16
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến người đại đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp .............................................................................................................. 18
1.5. Những vấn đề pháp lý về người đại diện của doanh nghiệp .................... 22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA DOANH NGHIỆP ........ 25
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về người đại diện của doanh nghiệp ..... 25
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp .......... 49
CHƯƠNG 3: ĐẢM BẢO THỰC THI HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT, TĂNG
CƯỜNG HIỆU QUẢ ÁP DỤNG LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2020
VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA DOANH NGHIỆP ...................................... 57
3.1. Nhu cầu cần thiết phải hoàn thiện các quy định pháp luật về người đại
diện của doanh nghiệp trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam .................... 57
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp
theo luật doanh nghiệp năm 2020 ................................................................... 58
3.3. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về người đại diện doanh
nghiệp.. ............................................................................................................ 59
3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật pháp luật về người đại
diện doanh nghiệp ........................................................................................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng đang
ngày càng phát triển mạnh mẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngày càng
mở rộng về hình thức cũng như quy mô và cách thức hoạt động.
Để đáp ứng các nhu cầu điều chỉnh và quản lý nền kinh tế, hệ thống
pháp luật về doanh nghiệp của nước ta khơng ngừng hồn thiện và khắc phục
qua từng giai đoạn. Pháp luật Việt Nam luôn tạo điều kiện và khuôn khổ
pháp lý để các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia hoạt động kinh doanh
lành mạnh, an tồn, minh bạch, đảm bảo quyền lợi doanh nghiệp,..v.v…
trong khn khổ pháp luật sở tại Việt Nam. Một trong những văn bản đầu
tiên đưa ra thông điệp để phát triển doanh nghiệp là Nghị quyết 35/NQ-CP
ngày 16/5/2016 của Chính phủ. Nghị quyết này nhằm hỗ trợ và phát triển
doanh nghiệp với mục tiêu “Đến năm 2020, xây dựng doanh nghiệp Việt Nam
có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững, cả nước có ít nhất một triệu
doanh nghiệp hoạt động, trong đó có các doanh nghiệp có quy mơ lớn, nguồn
lực mạnh”.
Một trong những chế định không ngừng được đổi mới qua các năm đó
là “người đại diện của doanh nghiệp” nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho
nhà đầu tư trong quản lý doanh nghiệp. Người đại diện của doanh nghiệp là
bộ mặt, là người thể hiện ý chí cũng như thay mặt doanh nghiệp thực hiện các
giao dịch trong mọi hoạt động kinh doanh đồng thời là đại diện pháp lý của
doanh nghiệp tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật
Việt Nam. Do đó doanh nghiệp cũng như cá nhân người đại diện cần có cái
nhìn tổng qt và nắm vững những quy định pháp lý điều chỉnh mối quan hệ
pháp luật này.
1
Vì vậy đề tài nghiên cứu “Người đại diện của doanh nghiệp theo luật
Doanh nghiệp năm 2020” có tính cấp thiết trong bối cảnh Chính phủ vừa
ban hành nghị định mới hướng dẫn chi tiết Luật doanh nghiệp cũng như phổ
cập thông tin tới các doanh nghiệp một cách nhanh nhất, giúp doanh nghiệp
áp dụng luật mới có hiệu quả nhất.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, chế định về người đại diện của doanh nghiệp đã được nhiều
tác giả quan tâm, đề tài này được nghiên cứu trong một số luận văn, bài báo,
tờ trình của các cơ quan tổ chức như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện nghiên
cứu nhà nước và pháp luật, bài viết trên Thời báo tài chính – Cơ quan của Bộ
Tài chính, luận văn nghiên cứu của thạc sĩ. Mỗi bài nghiên cứu có cách nhìn
nhận và tiếp cận về một khía cạnh khác nhau, điển hình như một số cơng
trình nghiên cứu sau:
Phan Thành Nhân (2018), Thực trạng quy định của pháp luật về
NĐDTPL của doanh nghiệp và hướng hồn thiện, Tạp chí Tịa án nhân dân, số
7. Bài nghiên cứu này khái quát lý luận về người đại diện theo pháp luật theo
Luật Doanh nghiệp 2014, nêu lên một số vướng mắc cũng như phương án giải
quyết, hồn thiện pháp luật.
Cơng trình nghiên cứu đứng từ khía cạnh doanh nghiệp về vấn đề đại
diện theo pháp luật điển hình như luận văn thạc sỹ của Bùi Thị Tâm (2017),
“Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp từ thực tiễn Tổng công ty Thuốc lá
Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.
Thân Văn Tài (2015) “Một số nội hàm khái niệm đại diện trong dự thảo
Bộ luật dân sự (sửa đổi), Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và
Pháp luật”.
Nguyễn Vũ Hoàng (2013) “Chế định đại diện trong pháp luật Việt
Nam và vấn đề đặt ra trong thực tiễn áp dụng”, Tạp chí Luật học.
2
Nguyễn Ngọc Thanh (2010) “Vấn đề chủ sở hữu và người đại diện,
một số gợi ý về chính sách cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học, Kinh tế và
Kinh doanh.Lê Văn Thiệp (2012), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đại
diện theo pháp luật”, Tạp chí Kiểm sát, số Tân Xuân.
Ngô Huy Cương (2009)” Chế định đại diện theo quy định của pháp
luật Việt Nam - Nhìn từ góc độ Luật so sánh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật.
Ngoài ra, một vài bài viết nghiên cứu dưới góc độ quản trị cơng ty theo
từng lĩnh vực cụ thể như ngân hàng thương mại, hợp đồng kinh tế như TS
Nguyễn Ngọc Thanh “Vấn đề chủ sở hữu và người đại diện, một số gợi ý về
chính sách cho Việt Nam” của đăng trên Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia
Hà Nội, Kinh tế và Kinh doanh số 26 năm 2010.
Tuy nhiên vẫn chưa có luận văn cấp độ Thạc sĩ nghiên cứu vấn đề này
một cách toàn diện và hầu hết các bài viết phân tích tại thời điểm Luật Doanh
nghiệp 2005 và 2014 có hiệu lực. Ngày 17/06/2020, Luật Doanh nghiệp số
59/2020/QH14 được ban hành, trong đó một trong những điểm mới nổi bật
liên quan đến vấn đề người đại diện của doanh nghiệp. Hiện nay, có rất ít
cơng trình nghiên cứu theo quy định của Luật Doanh nghiệp mới kết hợp với
Bộ Luật Dân sự năm 2015.
Chính vì vậy, tác giả nghiên cứu một cách hệ thống các khía cạnh pháp
luật về người đại diện của doanh nghiệp, làm rõ những điểm mới của Luật
Doanh nghiệp năm 2020 và giải pháp áp dụng pháp luật vào thực tế một cách
nhanh chóng và hiệu quả nhất.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những các vấn đề lí luận và thực tiễn xung
quanh các quy định về người đại diện của doanh nghiệp theo Luật doanh
3
nghiệp năm 2020. Từ đó rút ra các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện
hơn nữa những vấn đề chưa được làm rõ về luật doanh nghiệp Việt Nam
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đề ra ở trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể:
Một là, nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản về quan hệ đại diện và
người đại diện của doanh nghiệp
Hai là, phân tích và đánh giá các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và
Luật doanh nghiệp năm 2020 về các quy định người đại diện của doanh nghiệp
Ba là, từ những đánh giá trên rút ra kinh nghiệm, đánh giá từ thực tiễn
những điểm còn hạn chế từ các quy định khi áp dụng vào các doanh nghiệp về
người đại diện
Bốn là, đề xuất một số giải pháp cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện quy định của pháp luật Việt Nam về người đại diện của doanh nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lý luận về người đại diện của doanh
nghiệp, thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng luật.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là toàn bộ các quy định pháp luật đang hiện hành.
Nghiên cứu các nội dung mà Luật doanh nghiệp năm 2020 mới ban hành so
sánh với các luật cũ về trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của người đại diện.
Đại diện của doanh nghiệp là vấn đề rộng, bao gồm nhiều khía cạnh khác
nhau. Trong phạm vi đề tài luận văn tốt nghiệp này tôi chỉ đi sâu nghiên cứu
một số vấn đề về lý luận chung về đại diện của doanh nghiệp, bản chất đại
diện, hình thức và phạm vi của người đại diện doanh nghiệp. Bám sát quy
định pháp luật theo Luật Doanh nghiệp năm 2020 từ đó phân tích những
4
điểm mới và thực trạng áp dụng pháp luật hiện nay. Thực trạng của việc thực
hiện trách nhiệm và quyền, nghĩa vụ của người đại diện đối với doanh nghiệp
cũng như các hành vi vi phạm, không thực hiện trách nhiệm của người đại
diện.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Về mặt lý luận, nghiên cứu dựa trên nền tảng của phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm và đường lối
của Đảng và Nhà nước về pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài ra, đề tài sử dụng phối hợp phương pháp logic, phương pháp phân
tích, phương pháp so sánh tổng hợp để làm sáng tỏ nội dung của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn này là cơng trình nghiên cứu các quy định pháp lý về người
đại diện của doanh nghiệp, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của người đại
diện đối với doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp năm 2020. Về mặt lý luận,
luận văn đã đưa ra được cái nhìn tổng quan về địa vị pháp lý người đại diện
trong doanh nghiệp.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên các cơ sở về phân tích và tổng hợp được quy định pháp luật đã
điều chỉnh và áp dụng trong thực tiễn của người đại diện doanh nghiệp thì
luận văn này sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề đã được đề cập và chưa
được đề cập trong quy định của pháp luật hiện nay của người đại diện doanh
nghiệp theo luật doanh nghiệp năm 2020. Qua những vấn đề trên sẽ có những
giải pháp để góp phần hồn thiện Luật doanh nghiệp, giúp cho việc quản lý
5
người đại diện trong công ty minh bạch, hiệu quả, bảo vệ được quyền lợi của
chủ sở hữu, nhà đầu tư và các bên liên quan đến doanh nghiệp
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm có 3 chương là:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về người đại diện của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng về người đại diện
doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật, tăng cười hiệu quả áp
dụng Luật Doanh nghiệp năm 2020 về người đại diện của doanh nghiệp
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm, đặc điểm về người đại diện của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm người đại diện của doanh nghiệp
Để hiểu rõ hơn về “Người đại diện của doanh nghiệp” đầu tiên chúng
ta cần bàn luận về khái niệm “Đại diện”. Các nước trên thế giới có quan niệm
rất đa dạng và phong phú về vấn đề này, điển hình như:
Châm ngơn La tinh có quan niệm cho rằng pháp luật về đại diện được
hình dung như sau: “Đại diện là hành động của một người thông qua một chủ
thể khác được pháp luật coi là hành động của chính người đó”.
Quan niệm của tác giả Ngơ Huy Cương trong Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật cho rằng vấn đề đại diện lúc này như: “Giao hoàn toàn một đoàn
tàu nhiều toa cho thuyền trưởng điều khiển và quản lý hay hoạt động mua
bán, kinh doanh gián tiếp qua sự điều hành của người, tập thể khác”.
Hay khái niệm cơ bản và dễ hiểu nhất của đại diện theo từ điển Tiếng
Việt là “Một cá nhân, tổ chức thay mặt cho cá nhân, tổ chức khác hoặc tổ
chức làm việc gì”. Xét trên phương diện chun mơn thì đại diện theo Từ
điển Luật học là: “Việc một cá nhân, một người, một cơ quan, tổ chức nhân
danh người, cơ quan tổ chức khác xác lập, thực hiện hành vi pháp lý trong
phạm vi thẩm quyền được đại diện”
Như vậy, đại diện là quan hệ mà chủ thể bao gồm bên đại diện và bên
được đại diện. Bên đại diện nhân danh bên được đại diện xác lập quan hệ với
bên thứ ba, vì lợi ích của bên đại diện, thể hiện ý chí làm phát sinh hậu quả,
kết quả nhất định đối với bên được đại diện. Bên được đại diện tiếp nhận các
hậu quả, kết quả từ quan hệ do bên đại diện xác lập, thực hiện đúng thẩm
7
quyền đại diện. Xét từ góc độ lý luận pháp lý có thể thấy đại diện là một chế
định pháp lý thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo trong cách thức tham gia vào
giao dịch dân sự.
Một trong những quan hệ đại diện diễn ra phổ biến trong lĩnh vực kinh
doanh thương mại đó là quan hệ người đại diện với doanh nghiệp. Người đại
diện của doanh nghiệp là người thay mặt doanh nghiệp thực hiện các giao
dịch trong hoạt động kinh doanh hoặc tham gia vào hoạt động tố tụng nhân
danh doanh nghiệp. Mặt khác, chúng ta có thể hiểu người đại diện của doanh
nghiệp “Là người được chỉ định hoặc được thuê của chủ sở hữu nguồn lực và
được chủ sở hữu nguồn lực trao một số quyền quản lý nhất định đối với
nguồn lực của chủ sở hữu nhằm phục vụ lợi ích của chủ sở hữu.” Người đại
diện giúp tối đa hóa lợi nhuận từ doanh nghiệp cho chủ sở hữu, thành viên
góp vốn hoặc cổ đơng.
Khi nhắc đến quan hệ này khái niệm được nói đến nhiều nhất đó là
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Đối với pháp luật các công
ty trên thế giới, một số nước phát triển có khái niệm khác nhau về người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Ví dụ như:
Luật doanh nghiệp của Úc có quy định: “Người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp là cá nhân do doanh nghiệp chỉ định để thực hiện”
Tại nước Đức người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không
được định nghĩa riêng biệt, tuy nhiên được nhắc đến thơng qua vị trí Giám
đốc ở loại hình cơng ty trách nhiệm hữu hạn: “Công ty sẽ do các Giám đốc
làm đại diện. Công ty sẽ được đại diện bởi các cổ đơng bất cứ khi nào có
tun bố ý định hoặc các tài liệu được cung cấp kèm theo, nếu cơng ty TNHH
đó khơng có chức danh giám đốc”.
8
Luật pháp của nước Anh thì quy định người đại diện theo pháp luật của
công ty là: “Một người, cá nhân, thành viên công ty được ủy quyền bởi công ty
thì có quyền thực hiện các quyền hạn tương tự mà cơng ty đó có thể thực hiện”.
Ở Nhật Bản thì pháp luật nước sở tại có cách tiếp cận người đại diện
theo pháp luật thông qua chức năng quản lý: “Người quản lý có quyền thực
hiện bất kỳ và tất cả các hành vi pháp lý hoặc không pháp lý nhân danh công
ty liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình”.
Như vậy, với nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau nhưng nhìn
chung người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người quản lý hoạt
động kinh doanh, thay mặt doanh nghiệp thực hiện tất cả các giao dịch và
chức năng của doanh nghiệp. Người đại diện pháp luật là một phạm trù được
nhắc đến nhiều và đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong một doanh nghiệp.
Người đại diện theo pháp luật sẽ thực hiện các quyền và nghĩa vụ, theo quy
định của nhà nước Việt Nam.
Người đại diện theo ủy quyền là hình thức đại diện mà quyền đại diện
được xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa người đại diện và người được đại
diện. Người đại diện theo ủy quyền và người được ủy quyền lại sẽ có phạm vi
quyền hạn theo như nội dung được ủy quyền tương ứng. Bên cạnh đó, cịn có
khái niệm đại diện theo ủy quyền lại, tức là người đại diện có thể ủy quyền
lại cho một cá nhân là bên thứ ba đại diện cho doanh nghiệp, nội dung này chỉ
được phép thực hiện khi nội dung ủy quyền ban đầu cho phép ủy quyền lại hoặc
do sự kiện bất khả kháng. Ví dụ thực tế điển hình như: Tổng Giám đốc là đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp, ủy quyền cho Phó tổng Giám đốc ký hợp
đồng và cho phép Phó tổng Giám đốc được ủy quyền lại cho các Giám đốc hay
Giám đốc, Phó Giám đốc các chi nhánh ký hợp đồng. Các trường hợp này
thường thấy ở các doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp lớn có chi nhánh lớn trên cả
nước và thậm chí nước ngồi cũng như các ngân hàng nhiều chi nhánh.
9
Tại Luật doanh nghiệp năm 2005 không đưa ra khái niệm người đại
diện của doanh nghiệp, mà quy định về người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp chỉ nằm rải rác ở các điều luật quy định về cơ cấu tổ chức,
quản lý của các loại hình doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp năm 2014 ra đời
đã thể hiện bước tiến khi có một điều khoản dành riêng để quy định về người
đại diện theo pháp luật. Hiện nay Luật doanh nghiệp năm 2020 giữ nguyên
những điều khoản quy định về người đại diện và bổ sung thêm một số quy
định nhằm hoàn thiện pháp luật, ngày càng hỗ trợ tốt hơn cho công cuộc quản
lý của cơ quan nhà nước cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
tại Việt Nam hoặc các doanh nghiệp nước ngoài, liên doanh,.v.v...
Đúc kết từ những định nghĩa, quan niệm, nghiên cứu, học thuyết nói
trên, cho thấy đại diện của doanh nghiệp là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây
gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác
lập, thực hiện giao dịch. Và tác giả đồng tình với định nghĩa trên về khái
niệm “người đại diện của doanh nghiệp”.
1.1.2. Đặc điểm người đại diện của doanh nghiệp
Một là, người đại diện của doanh nghiệp là cá nhân có đầy đủ năng
luật pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự
Doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập để hoạt động kinh doanh.
Bản thân doanh nghiệp bao gồm nhiều cá thể, bộ phận, vì vậy khơng phải bộ
phận hay ai cũng có thể nhân danh doanh nghiệp thực hiện các giao dịch với
bên ngoài. Do đó, ý chí của doanh nghiệp phải được thể hiện thông qua một
hoặc nhiều cá nhân nhất định. Do đó, người đại diện theo pháp luật của tổ
chức nói chung, doanh nghiệp nói riêng phải là cá nhân. Đối với đại diện theo
ủy quyền thì người đại diện theo ủy quyền có thể cá nhân hoặc tổ chức, chẳng
hạn, doanh nghiệp có thể ủy quyền cho một tổ chức khác để xác lập, thực
hiện giao dịch theo cơ chế đại diện theo quy định của pháp luật thương mại.
10
Tuy nhiên, dù là bên ủy quyền là tổ chức thì tổ chức đó cũng phải cử cá nhân
là người đại diện cho phần nhận ủy quyền này.
Như vậy, người đại diện là cá nhân nên để có thể thể hiện ý chí của
doanh nghiệp, người đại diện phải có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực
hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân
bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực
pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và
nghĩa vụ dân sự và có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trước hết có đầy đủ
năng lực này và không bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đây
là điều kiện bắt buộc và tiên quyết để trở thành người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp mà nếu không đáp ứng thì pháp luật có quy định thay thế
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Hai là, người đại diện được ghi nhận trên Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp (ERC) đối với người đại diện theo pháp luật và văn bản ủy
quyền đối với người đại diện theo ủy quyền
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là căn cứ pháp lý quan trọng
của doanh nghiệp, trong đó nội dung về người đại diện theo pháp luật là phần
không thể thiếu. Hay nói cách khác, cơ sở để xác định người đại diện theo
pháp luật của một doanh nghiệp chính là Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh của doanh nghiệp. Ngồi ra, thơng tin người đại diện theo quy định
pháp luật còn được ghi nhận trên các tài liệu khác như: Quyết định của Hội
đồng quản trị, Quyết định của Đại Hội đồng cổ đông, Điều lệ của doanh
nghiệp,… Tuy nhiên các văn bản này là văn bản lưu hành nội bộ của doanh
11
nghiệp nên bên thứ ba khó có thể căn cứ vào những văn bản này để xác minh
người đại diện của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, thông tin doanh nghiệp được công khai trên trang thông tin
điện tử Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, do đó để kiểm tra
chính xác thơng tin người đại diện theo pháp luật cần phải đối chiếu thông tin
người đại diện trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và thông tin tra cứu
trên trang điện tử quốc gia.
Ba là, người đại diện nhân danh doanh nghiệp, thực hiện các quyền
và nghĩa vụ của doanh nghiệp trong phạm vi nhất định
Bản chất của quan hệ đại diện là thay mặt người được đại diện mà cụ thể
trong trường hợp này là người đại diện nhân danh doanh nghiệp xác lập, thực
hiện giao dịch vì lợi ích doanh nghiệp. Người đại diện theo pháp luật xác lập,
thực hiện các quyền và nghĩa vụ chung của doanh nghiệp. Tuy nhiên, người
đại diện chịu sự ràng buộc của pháp luật nói chung và điều lệ cơng ty nói
riêng. Nên người đại diện thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong phạm vi
nhất định theo quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa là, người đại diện
theo pháp luật có quyền nhân danh doanh nghiệp xác lập, thực hiện mọi giao
dịch của doanh nghiệp, ngoại trừ trường hợp giới hạn phạm vi, thẩm quyền
do pháp luật hoặc điều lệ công ty quy định.
Khác với người đại diện theo pháp luật thì người đại diện theo ủy quyền
chỉ xác lập, phạm vi, trách nhiệm theo phạm vi ủy quyền trong văn bản ủy
quyền, mối quan hệ dân sự được thể hiện rõ trong ở đây.
Bốn là, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một
hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật
Theo pháp luật cũ thì mỗi doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo
pháp luật, điều này dẫn đến một số khó khăn trong việc linh hoạt xử lý các
cơng việc của cơng ty. Do đó, để pháp luật có thể giải quyết được hết các
12
trường hợp xảy ra trong thực tế thì các nhà làm luật đã bổ sung quy định một
doanh nghiệp có thể có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật.
Số lượng người đại diện theo pháp luật do doanh nghiệp tự quyết định,
trừ doanh nghiệp tư nhân. Số lượng, chức danh quản lý, quyền và nghĩa vụ
của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được quy định cụ thể tại
điều lệ doanh nghiệp đó. Đây là quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp tận dụng được mọi cơ hội kinh doanh với bên ngoài thông qua
các đại diện pháp luật. Tất cả những người được điều lệ quy định đại diện
theo pháp luật đều có quyền nhân danh cơng ty thực hiện các giao dịch đó mà
khơng cần bất kỳ sự ủy quyền nào như trước đây. Ngồi những vấn đề trên
thì quy định này còn giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong việc quản lý nội
bộ, tăng trách nhiệm của những người được chỉ định là đại diện theo pháp
luật, giảm bớt các thủ tục hành chính khi khơng cần phải tiến hành các thủ
tục khác như ủy quyền và còn gỡ rối cho doanh nghiệp trong một số trường
hợp đặc biệt như là người đại diện duy nhất của doanh nghiệp không hợp tác,
không thực hiện các yêu cầu của thành viên, cổ đơng trong q trình quản lý
điều hành nội bộ cũng như giao dịch với bên ngoài doanh nghiệp
Năm là, doanh nghiệp bắt buộc phải có Người đại diện theo pháp luật
Như phần mở đầu tác giả đã nêu rõ về tầm quan trọng cũng như tính cấp
thiết của nười đại diện theo pháp luật. Do đó, doanh nghiệp bắt buộc phải có
ít nhất một người đại diện theo pháp luật, đây là điều kiện cần để thành lập
một doanh nghiệp, cũng như điều kiện để duy trì sự tồn tại phát triển của
doanh nghiệp đó.
1.2. Vai trị của Người đại diện doanh nghiệp trong quản trị doanh
nghiệp
Doanh nghiệp là một thực thể pháp lý nhưng tự thân nó khơng thể trực
tiếp tham gia các giao dịch được mà phải thông qua những người đại diện của
13
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có thể tồn tại hay phát triển hay không
trước hết phụ thuộc vào người đứng đầu doanh nghiệp có đưa ra những quyết
sách sáng suốt để doanh nghiệp phát triển hay không.
Theo pháp luật Việt Nam thì đại diện doanh nghiệp hợp pháp cho pháp
nhân của doanh nghiệp đó bao gồm hai hình thức là đại diện theo pháp luật
và đại diện theo ủy quyền. Với sự phân chia hai hình thức đại diện thì vị trí,
vai trị của chúng cũng có sự khác biệt nhất định.
1.2.1. Vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Thứ nhất, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thể là một
người lao động của cơng ty, có vị trí bắt buộc. Do đó, họ sẽ được quyền
hưởng các chế độ phúc lợi, lương, bảo hiểm,… theo quy định của Luật lao
động. Ngoài ra, tùy theo từng công ty, người đại diện theo pháp luật sẽ có
những quyền lợi khác, ghi nhận trong điều lệ hoặc hợp đồng lao động.
Thứ hai, người đại diện theo pháp luật nhân danh doanh nghiệp giao
dịch với bên thứ ba bằng ý chí của doanh nghiệp thơng qua hành động của
mình. Khi cá nhân nhân danh doanh nghiệp để thực hiện giao dịch trong
phạm vi cho phép thì các quyền và nghĩa vụ từ giao dịch phát sinh cho
doanh nghiệp chứ khơng phát sinh cho cá nhân đó. Bằng hoạt động của
người đại diện theo pháp luật, doanh nghiệp khơng thể thối thác trách
nhiệm của mình với chủ thể khác. Bên thứ ba khi giao dịch với công ty thì
chỉ cần quan tâm đến việc ràng buộc trách nhiệm công ty thông qua hành
động của người đại diện.
Thứ ba, trong nhiều mối quan hệ với chủ sở hữu, người đại diện doanh
nghiệp nhân danh chủ sở hữu thực hiện việc quản lí doanh nghiệp cho họ
hoặc đóng vai trị hỗ trợ cho chủ sở hữu kiểm sốt hoạt động của các chức
danh quản lí khác. Trong đó bao gồm thẩm quyền, ra quyết định và hoạt động
vì lợi ích của doanh nghiệp cũng như định đoạt tài sản doanh nghiệp. Đồng
14
thời qua đó cùng với chủ sở hữu hoạch định các chiến lược, kinh doanh của
cơng ty, góp phần nâng cao giá trị tài sản vốn góp của chủ sở hữu. Người đại
diện là người nắm những thông tin quan trọng của cơng ty. Do đó, doanh
nghiệp cần có cơ chế giám sát nội bộ của doanh nghiệp chặt chẽ, hạn chế tình
trạng lạm quyền các chức danh quản lý và đặc biệt là việc có liên quan đến
cơng ty khác có thể dẫn đến việc khơng khách quan trong công việc của
người đại diện.
Thứ tư, các mối quan hệ với khách hàng và các bên liên quan khác thì
người đại diện chính là người nhân danh doanh nghiệp trong các mối quan hệ
đối ngoại và ngoại giao của doanh nghiệp. Tầm quan trọng của chữ ký người
đại diện theo pháp luật trên một văn bản của công ty nằm ở chỗ ràng buộc
công ty vào nội dung văn bản. Hành vi của người đại diện chính là chứng cứ
pháp lí để ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp. Đồng thời, thông qua
hành vi của người đại diện, các cơ quan quản lí nhà nước có thể kiểm sốt,
đánh giá ý thức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp để có những biện pháp
xử lý, can thiệp kịp thời nhằm đảm bảo doanh nghiệp phát triển lành mạnh
theo khuôn khổ pháp luật.
Từ đó, Luật Doanh nghiệp 2020 đã hồn thiện vai trò cho người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp. Khoản 1 Điều 12 Luật này ghi nhận người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh
nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh
nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc
dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước
Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Vai trò của người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp
Thứ nhất, người đại diện của doanh nghiệp theo ủy quyền chịu trách
nhiệm trước chủ sở hữu, cổ đông, thành viên theo sự ủy quyền của doanh
nghiệp về vi phạm các nghĩa vụ quy định của pháp luật. Chủ sở hữu, thành
15
viên, cổ đông ủy quyền chịu trách nhiệm trước bên thứ ba đối với trách
nhiệm phát sinh liên quan đến quyền và nghĩa vụ được thực hiện thông qua
người đại diện theo ủy quyền.
Thứ hai, người đại diện theo ủy quyền có trách nhiệm tham dự đầy đủ
cuộc họp của Hội đồng thành viên, Đại hội đồng cổ đông, thực hiện các
quyền và nghĩa vụ được ủy quyền của doanh nghiệp bảo vệ lợi ích hợp pháp
của chủ sở hữu, thành viên, cổ đông ủy quyền.
1.3. Mối quan hệ của chủ sở hữu và người đại diện của doanh
nghiệp
Trong các mối quan hệ doanh nghiệp từ trước đến nay thì quan hệ giữa
chủ sở hữu và người đại diện là mối quan hệ vô cùng quan trọng và cần thiết.
Người quản lí với vai trị là người đại diện cho chủ sở hữu nhận các quyền
điều phối và kiểm tra doanh nghiệp. Do sự tách biệt giữa chủ sở hữu và
người đại diện hay tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền điều hành, về mặt lý
thuyết và thực tiễn đôi khi xuất hiện những vấn đề một người hoạt động vì lợi
ích của người khác, về bản chất thì người đại diện ln muốn có tư lợi hơn là
hành động vì chủ sở hữu và các cổ đơng. Chính vì vậy, trong các mối quan hệ
ln tiềm ẩn sự xung đột lợi ích giữa các thành viên tham gia góp vốn và
người quản lí, điều hành doanh nghiệp
Ngun nhân của vấn đề trên là do mỗi doanh nghiệp đều có sự tách biệt
giữa quyền sở hữu và quyền điều hành đã tạo ra thông tin không cân xứng
với tư cách là người tiếp quản công ty với tư cách là người trực tiếp quản lí,
sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp. Người đại diện của doanh nghiệp dễ
phát sinh hành động tư lợi, vì vậy việc giám sát các hành động của người đại
diện rất quan trọng, phức tạp nên cần ràng buộc người đại diện hành động
theo nhiệm vụ được giao là vì lợi ích của những người khác thì họ cần đến
động lực phù hợp như nhằm đảm bảo lợi ích như vật chất, tinh thần, thực
16
hiện nhiệm vụ bắt buộc. Ngồi các đặc tính tự nhiên của quan hệ đại diện dẫn
đến giả thiết khác nhau về người đại diện và đưa ra các chế độ đãi ngộ và
thiết lập các hiệu quả để hạn chế hành vi tư lợi của người điều hành doanh
nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp cần xây dựng những điều cần thiết để người
đại diện quan tâm làm tốt công việc của họ theo hướng lợi ích của chủ sở hữu
và lợi ích gắn liền với nhau trong dài hạn
Ở nhiều góc độ khác nhau, các nhà kinh tế học đánh giá mối quan hệ
giữa người chủ sở hữu và người đại diện dưới góc độ lợi ích của cả hai bên.
Khi quan hệ đại diện phát sinh thì lợi ích của một bên (gọi là người sở hữu,
người đại diện) phụ thuộc vào hành vi, sự tích cực và thiện chí của bên khác
(gọi là người đại diện, người hợp tác). Khi lợi ích giữa người chủ sở hữu và
người đại diện khơng giống nhau thì ngồi chi phí sản xuất kinh doanh thông
thường cần phải bổ sung các loại chi phí khác nhau như: chi phí ký hợp đồng
với người đại diện và các chi phí khác, những chi phí này gọi chung là chi
phí đại diện. Vì vậy, các nghiên cứu xoay quanh vấn đề giải quyết mâu thuẫn
giữa người chủ sở hữu và người đại diện, từ đó đưa ra những giải pháp, chiến
lược hợp lý nhằm hạn chế chi phí đại diện thúc đẩy các giao dịch phát triển
hơn.
Qua đó, nhận định được các vấn đề đại diện đều quan tâm đến mối quan
hệ giữa chủ sở hữu và người đại diện. Nhìn từ vấn đề khách quan thì sẽ có
góc nhìn khác nhau và các hạn chế riêng của nó, mỗi lý thuyết ở phương diện
chưa có một cơ sở lý thuyết nào được chấp nhận rộng rãi như một khn mẫu
có sẵn, cũng chưa có một mơ hình quản trị nào đánh giá hồn thiện. Những
vẫn đề đã đề cập ở trên thì cịn khá mới mẻ ở Việt Nam, mặc dù có học hỏi,
tiếp thu và được ghi nhận nhưng vẫn chưa được hiểu đúng và phát huy tác
dụng trong luật thực định Việt Nam.
17
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến người đại đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp
Thực tế hiện nay cho thấy sự thành cơng hay thất bại của doanh nghiệp
ngồi các yếu tố cần thiết ra thì cịn nhiều yếu tố phụ thuộc khác như: yếu tố
về pháp luật, điều kiện kinh tế của doanh nghiệp, người ra quyết định, sự
cạnh tranh của các doanh nghiệp, mơi trường bên ngồi, xã hội,.. Các yếu tố
bên trong sẽ tạo nhiều năng lượng, sức mạnh cho doanh nghiệp giúp doanh
nghiệp có nhiều cách khác nhau để đưa ra những định hướng, kế hoạch, điều
khiển và kiểm tra tốt hơn để hạn chế các rủi ro có thể xảy ra từ các yếu tố bên
ngồi mà doanh nghiệp khơng kiểm sốt được. Một trong nhiều yếu tố quan
trọng và chủ lực để góp phần thành công cho doanh nghiệp là đạo đức, năng
lực, sự giúp đỡ của ban quản trị giúp cho doanh nghiệp có được những thành
tựu to lớn, tiếp cận được với thị trường quốc tế, trong đó phải kể đến có sự
góp mặt của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Các quy định pháp luật về đại diện có tác động lên quy chế pháp lý về
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Điển hình trong đó là Bộ
luật dân sự 2015 và Luật doanh nghiệp năm 2020. Trước hết các quy định
pháp luật ghi nhận các nguyên tắc cơ bản về người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp
Thứ nhất, yếu tố về pháp luật
Ban hành các văn bản hay hệ thống pháp luật có chất lượng là điều cốt
lõi đảm bảo môi trường kinh doanh cân bằng cho các doanh nghiệp kinh
doanh có trách nhiệm. Qua đó nếu hệ thống pháp luật chưa hồn thiện thì
cũng có nhiều ảnh hưởng đến mơi trường kinh doanh gây ra nhiều khó khăn
tong các hoạt động sản xuất, đồng thời ảnh hưởng đến việc ra quyết định của
người đại diện.
18
Từ những điều kiện đó, pháp luật đưa ra những quy định chặt chẽ về
những điều hạn chế cũng như điều kiện ràng buộc các doanh nghiệp phải tuân
thủ. Những vấn đề cần đặt ra đối với doanh nghiệp là phải hiểu rõ tinh thần
của pháp luật và tuân theo quy định đã đề ra cho doanh nghiệp, nghiên cứu từ
các quy định về các điều khoản của pháp lý mang lại và có những đối sách
kịp thời trước những nguy cơ tránh gây ra những thiệt hại đáng tiếc do sự
thiếu hiểu biết về pháp lý trong kinh doanh.
Thứ hai, yếu tố về điều kiện của doanh nghiệp
Trong điều kiện của doanh nghiệp thì ln tồn tại một số vấn đề về bối
cảnh kinh tế. Bối cảnh thông qua các loại chỉ tiêu khác nhau như: về tốc độ
về tăng trưởng, tỷ số hối đoái, tỷ giá ngoại tệ hay các chỉ số trên thị trường
chứng khoán,... Mặc dù mơi trường kinh tế mang nhiều yếu tố và tính chất
khách quan khác nhau nhưng ảnh hưởng của chúng tới giá trị lại là sự tác
động trực tiếp lên doanh nghiệp
Khi có một sự thay đổi của các yếu tố đó thì cũng nhr hưởng ít nhiều tới
sự đánh giá chung về doanh nghiệp: nền kinh tế luôn trưởng với tốc độ cao,..
Ngồi ra các chỉ số giá chứng khốn phản ánh đúng quan hệ cung cầu, đồng
tiền ổn định, tỷ giá và lãi suất. Ngược lại, các yếu tố liên quan giảm sẽ mang
đến nhiều rủi ro về sự suy thoái kinh tế, giá chứng khoán ảo,... là biểu hiện
môi trường tồn tại của doanh nghiệp đang bị lung lay.
Trong quản trị doanh nghiệp, ngoài những yếu tố trên thì tổ chức doanh
nghiệp đã mang lại mơi trường thuận lợi và quan trọng cho việc thực hiện sứ
mệnh, chiến lược, mục tiêu dài hạn đã được đề ra. Nó đã bao gồm giá trị
mang tính chất lượng,những chuẩn mực, khn khổ có tác dụng định hướng
các kết quả trong doanh nghiệp. Quản trị chính là việc làm thế nào để sai
khiến được những người dưới quyền mình thực hiện công việc một cách hiểu
19
quả để đạt được mục tiêu chung. Từ đó, văn hóa doanh nghiệp là dụng cụ,
phương tiện mà người quản trị thực hiện cơng việc quản lý mình.
Thứ ba, yếu tố về người ra quyết định
Hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc vào quyết định của nhà quản trị
nói chung và của người đại diện doanh nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, các yếu
tố ảnh hưởng đến quyết định của người đại diện còn tùy thuộc vào nhiều vấn
đề khác nhau như trình độ, nhận thức, vị trí, tính cách,.. Nếu người đại diện
có động cơ ra quyết định đúng đắn vì lợi ích của doanh nghiệp, của tập thể
sẽ mang lại nhiều giá trị xứng đáng cho doanh nghiệp. Ngược lại, nếu
ngươi đại diện vì nhu cầu vụ lợi cá nhân thì sẽ ảnh hường nghiệm trọng
đến doanh nghiệp. Để người đại diện có được động cơ ra quyết định tốt
nhất thì doanh nghiệp phải có hệ thống kiểm sốt khoa học, khen thưởng
và kỷ luật phải thực hiện nghiêm túc, cơ chế phúc lợi rõ ràng và thiết lập
môi trường làm việc văn minh.
Thứ tư, yếu tố về tài, đạo đức và năng lực
Môi trường kinh doanh là môi trường cạnh tranh khốc liệt, do đó người
đại diện của doanh nghiệp cần đối đầu với khó khăn, chịu dựng được áp lực,
không ngừng thay đổi, cải tiến,.v.v.. Đặc biệt cịn cần có thêm những yếu tố
quyết định như tài, tâm, đức.
Tài năng được thể hiện qua nhiều phương thức khác nhau như trình độ,
năng lực, lãnh đạo, khả năng giao tiếp, thuyết phục khách hàng, ứng xử khéo
léo. Song song với đó là nhà quản trị, lãnh đạo hiểu quả cơng việc có đầu óc
sáng tạo, biết phân tích, tiên đoán trước các rủi ro, phản ứng nhanh với những
thay đổi khôn lường trong kinh doanh để đưa ra những quyết định quyết đoán
và đúng đắn.
Tâm là những hiểu biết nền tảng hiện tương tâm lý trong kinh doanh là
sự hy sinh và làm việc phục vụ lợi ích cho mình cho mọi người, khơng trục
lợi riêng cho bản thân, làm những điều tốt về việc nên làm và đáng làm.
20
Trong mơi trường kinh doanh đầy những khó khăn thì tâm huyết và sự tận
tâm, tận lực với công việc của mình thì ý thức được trách nhiệm đối với xã
hội và cộng đồng có ý nghĩa to lớn.
Khi nhắc đến kinh doanh là nhắc đến lợi ích lợi nhuận, nhưng khơng
phải lúc nào vì những lợi nhuận trước mắt mà bất chấp thủ đoạn, kinh doanh
bất hợp pháp đánh mất những lợi ích lâu dài của doanh nghiệp. Người đại
diện với nhiều chức năng quan trọng trong lãnh đạo, là người nắm giữ, sử
dụng quyền lực và tiền bạc nên cái tâm cịn thể hiện qua đức tính minh bạch,
công bằng, quý trọng những thành quả mà người lao động tạo ra.
Thiết nghĩ, một trong những biểu hiện đó là sự chân thật trong kinh
doanh. Được hiểu là không lừa dối trong kinh doanh, chân thật trong những
gì cam kết với khách hàng. Chân thật là cách tốt nhất để quảng bá hình ảnh
uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng và thu hút khách hàng tiềm năng.
Mà biểu hiện này thường được khách hàng đánh giá qua hành vi của người
đại diện của doanh nghiệp.
Đạo đức kinh doanh hay còn gọi là đạo đức doanh nghiệp là một hình
thức đạo đức ứng dụng hoặc đạo đức nghề nghiệp, xem xét các nguyên tắc
đạo đức và các vấn đề đạo đức có thể phát sinh trong mơi trường kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh áp dụng cho tất cả các khía cạnh của hành vi kinh doanh
và có liên quan đến hành vi của các cá nhân và toàn bộ tổ chức. Yếu tố đạo
đức của doanh nghiệp được thể hiện thông qua cá nhân người đại diện của
doanh nghiệp đó.
Thứ năm, yếu tố về sự đãi ngộ của doanh nghiệp
Chế độ đãi ngộ người đại diện trong các doanh nghiệp thì thùy thuộc
vào chức danh quản lý và phạm vi công việc cũng như yếu tố chuyên môn,
yêu cầu đặc biệt của doanh nghiệp đó.
Ngày nay, hệ thống lương thưởng đã chuyển dần từ chỗ trả lương theo
thời gian làm việc, theo thâm niên công tác hay chức vụ sang trả lương theo
21