Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tư tưởng của Mác – Ăngghen về Đảng Cộng sản trong tác phẩm Tuyên ngôn củaĐảng Cộng sản và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng Đảng Cộng sản ViệtNam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.26 KB, 15 trang )

Tiểu luận

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Với 170 năm tồn tại và trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” (gọi tắt là Tuyên ngôn) do C.Mác và Ph.Ăng-ghen
khởi thảo vẫn luôn là cơ sở lý luận khoa học, ngọn cờ tư tưởng, ngôi sao dẫn
đường và kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, vẫn rực sáng với tư tưởng vĩ đại của nó - tư tưởng giải phóng các giai cấp và
tầng lớp lao động, và nói rộng ra là giải phóng tồn bộ xã hội, giải phóng lồi
người khỏi mọi sự áp bức, bất công. Tuyên ngôn đã trải qua gần hai thế kỷ, khơng
chỉ như một văn kiện có tính lịch sử mà còn là ngọn đuốc soi đường cho cả hiện
tại và tương lai.
Nếu như giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa cộng sản cịn là một “bóng ma” ám
ảnh châu Âu, như các thế lực của châu Âu cũ từng rêu rao, thì với sự ra đời của
Tun ngơn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ rằng, cái “bóng ma” ấy đã thực sự
trở thành một thế lực cụ thể, và cái thế lực ấy cứ ngày một lớn dần lên, trở thành
những phong trào cách mạng hừng hực khí thế, có những cuộc đấu tranh đã giành
được chính quyền. Từ đứa con đầu lịng là Cơng xã Pa-ri năm 1871, đến sau chiến
tranh thế giới thứ nhất, là sự ra đời của Liên Xô nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu
tiên, rồi đến sau chiến tranh thế giới thứ hai với thắng lợi của hàng loạt cuộc cách
mạng ở cả châu Âu, châu Á và Mỹ La tinh, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ
thống trên thế giới.
Đảng Cộng sản Việt nam – chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động Việt Nam. Sự ra đời của Đảng ta, mặc dù có những yếu tố
đặc thù riêng nhưng vẫn đảm bảo các yếu tố cho sự ra đời của một chính Đảng
cách mạng của giai cấp cơng nhân đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học
với phong trào công nhân. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, chủ
nghĩa C.Mác-Lênin ln giữ vị trí nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động của Đảng.
Đối với Việt Nam chúng ta hiện nay, đứng trước xu thế toàn cầu hóa


diễn ra mạnh mẽ, cơng cuộc xây dựng và đổi mới đất nước là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, nó địi hỏi chúng ta phải có lý luận cách mạng dẫn
đường nhằm đảm bảo cho sự phát triển ấy không đi chệch hướng con đường tiến
lên Chủ nghĩa xã hội. Để đấu tranh với những tư tưởng sai lệch về giá trị quan
trọng của lý luận về đảng cộng sản của Tuyên ngôn, giúp Đảng ta vững vàng lập
trường tư tưởng của chính Đảng lãnh đạo, trong bài tiểu luận này, ta hãy đi vào tìm
hiểu những tư tưởng về Đảng cộng sản của C.Mác và Ph.Ăngghen qua đề tài: “Tư
Page 1


Tiểu luận
tưởng của Mác – Ăngghen về Đảng Cộng sản trong tác phẩm Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam hiện nay.”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nhằm mục tiêu làm rõ tư tưởng của Mác – Ăngghen về Đảng Cộng sản
trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, từ đó vận dụng sáng tạo những tư tưởng
đó vào cơng tác xây dựng Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Để đạt được mục tiêu đó, cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ hoàn cảnh ra đời, tác giả, tác phẩm
- Phân tích nội dung cơ bản của C.Mác và Ăngghen về Đảng cộng sản
- Rút ra ý nghĩa của vấn đề đối với thực tiễn xây dựng Đảng ở Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Dựa vào những nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích, nghiên cứu tài liệu,
chọn lọc tổng hợp các tài liệu.
4. Kết cấu nội dung
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 3
chương:

Chương 1: Khái quát chung về tác giả và tác phẩm
Chương 2: Tư tưởng của Mác – Ăngghen về Đảng cộng sản trong tác phẩm
“ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.
Chương 3: Ý nghĩa tư tưởng của Mác – Ăngghen về Đảng cộng sản với việc
xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.

NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1.1.Khái quát về tác giả
C.Mác (1818 – 1883)
Page 2


Tiểu luận

C. Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Tơriơ trong gia
đình luật sư Heinrich Marx. Năm mười hai tuổi (1830) C. Mác vào học trường
trung học ở Tơriơ. Sức học của C. Mác thuộc loại giỏi, đặc biệt C. Mác nổi bật ở
những lĩnh vực địi hỏi tính độc lập sáng tạo. Mùa thu 1835, C. Mác tốt nghiệp
trường trung học, sau đó khơng lâu, tháng mười 1835, C. Mác vào trường đại học
tổng hợp Bonn để học luật. Hai tháng sau theo lời khuyên của bố C. Mác tiếp tục
học ở trường Đại học Tổng hợp Berlin. ở trường Đại học, năm 1836, ngoài luật
học, sử học và ngoại ngữ C. Mác bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết học. Mùa xuân
1837, C. Mác bắt đầu nghiên cứu kỹ những tác phẩm của Hê-ghen, sang năm 1839
thì vùi đầu vào nghiên cứu triết học, suốt cả năm 1939 và một phần của năm 1840
C. Mác tập trung nghiên cứu những vấn đề lịch sử triết học Cổ đại. Ngày 15 Tháng
Tư 1841, khi mới 23 tuổi, C. Mác nhận được bằng Tiến sĩ triết học với luận án Về
sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Démocrite, và triết học tự nhiên của
épicure tại trường Iêna.
Tháng Năm 1843, C. Mác đến Kroisnak, một thành phố nhỏ vùng Rhein và

ơng đã chính thức làm lễ thành hôn với Jenny vôn Vestphalen.
Ngày 3 tháng Hai 1845, C. Mác rời Pa-ri đến Brussel, Sau khi cách mạng
năm 1848, ở Pháp nổ ra Chính phủ Bỉ trục xuất C. Mác. Ông lại đến Pa-ri, Tháng
tư 1848, C. Mác cùng với Ph. Ăng-ghen đến Kioln, tại đây Mác trở thành Tổng
biên tập tờ Nhật báo tỉnh Ranh, cơ quan của phái dân chủ. Năm 1849 Chính phủ
Phổ đóng cửa tờ báo và trục xuất C. Mác. Ông lại đến Pa-ri, nhưng lần này ông chỉ
lưu lại ba tháng. Tháng Tám 1849, từ Pa-ri C. Mác đi Luân-đôn và sống đến cuối
đời (1883). C. Mác qua đời ngày 14 Tháng Ba 1883 ở Luân-đôn.
Ph. Ăngghen ( Friedrich Engels, 1820 – 1895 )

Ph. Ăng-ghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 tại Barmen, tỉnh Ranh,
Vương quốc Phổ trong một gia đình chủ xưởng dệt. Năm 14 tuổi, Ph. Ăng- ghen
học ở trường tại thành phố Barmen. Tháng Mười 1834, Ph. Ăng- ghen chuyển
sang học ở trường trung học Elberfelder, một trường tốt nhất ở Phổ thời bấy giờ.
Năm 1837, theo yêu cầu của bố, Ph. Ăng- ghen buộc phải rời bỏ trường trung
học khi chưa tốt nghiệp để bắt đầu cơng việc bn bán ở văn phịng của bố ơng.
Trong thời gian này ông tự học các ngành sử học, triết học, văn học va ngôn ngữ.
Cuối năm 1839 Ph. Ăng- ghen bắt tay vào nghiên cứu các tác phẩm của Hêghen. Tháng 9- 1841, Ph. Ăng- ghen đến Berlin và gia nhập pháo binh nhưng
ông thường tới trường Đại học tổng hợp Berlin nghe các bài giảng triết học, tham
Page 3


Tiểu luận
gia hội thảo về lịch sử tôn giáo. Mùa xuân 1842, Ph. Ăng- ghen bắt đầu cộng tác
với tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Trong những bài báo in năm
1842, trên tờ báo Ph. Ăng- ghen đã lên tiếng phản kháng chế độ kiểm duyệt của
Chính phủ Vương quốc Phổ, trật tự phong kiến ở Đức. Ngày 8 tháng 10 năm
1842, Ph. Ăng- ghen mãn hạn phục vụ trong quân đội. Từ Berlin ông trở về
Barmen, một tháng sau, Ph. Ăng- ghen sang Anh thực tập buôn bán.
Lần đầu tiên, Ph. Ăngghen gặp C. Mác vào cuối tháng Mười

Một 1842, khi Ph. Ăngghen ghé thăm ban biên tập tờ Rheinische
Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Mùa hè năm 1844, Ph. Ăngghen đến
thăm K.Marx ở Pa-ri. Hai ông đã trở thành những người bạn cùng
chung lý tưởng và quan điểm trong tất cả mọi vấn đề lý luận và thực
tiễn và đây được xem như là “cuộc gặp mặt lịch sử” của hai vĩ nhân.
Tháng 2-1845, cuốn sách Gia đình và Thần thánh của C. Mác và Ph. Ăngghen ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và phương pháp của nó,
nêu luận điểm về vai trị quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Hai
ơng cùng hợp sức viết cơng trình nổi tiếng Hệ tư tưởng Đức (1845-1846), phê
phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm của Hê- ghen và phái Hê- ghen trẻ đồng thời
phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất quán của Ludvich Phoiơbach nêu ra
những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
Tiếp đó năm 1848, Đại hội II Liên đồn những người cộng sản đã uỷ nhiệm C.
Mác và Ph. Ăng- ghen cùng viết Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.
Sau khi C. Mác qua đời (1883), Ph. Ăng-ghen là người lãnh đạo tổ chức
những người theo chủ nghĩa xã hội ở châu Âu, chuẩn bị cho in tập 2 và 3 của bộ
Tư bản mà C. Mác chưa kịp hoàn thành. Ph. Ăng-ghen viết nhiều tác phẩm nổi
tiếng vào những năm cuối đời: Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước
(1884), Lút-vích Phơ-bách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1866),
Biện chứng tự nhiên, Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894).
1.2.Khái quát về tác phẩm “Tun ngơn của Đảng cộng sản”

Hồn cảnh ra đời
Giữa thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đạt tới trình
độ phát triển: đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã phát triển ở một số nước châu
Page 4


Tiểu luận
Âu. Trong những năm 30 và 40 của thế kỷ XIX, ở một số nước tư bản phát triển,

giai cấp vô sản đã vùng lên đấu tranh chống lại giai cấp tư sản đòi thực hiện những
yêu sách của mình cả về kinh tế lẫn chính trị. Sự lớn mạnh của phong trào đấu
tranh của giai cấp vô sản địi hỏi một cách bức thiết phải có một hệ thống lý luận
soi đường và một cương lĩnh chính trị làm kim chỉ nam cho hành động cách mạng.
Cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1847, Đại hội lần thứ hai Liên đoàn những người
cộng sản đã thảo luận và thông qua những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản do
Mác và Ăng ghen trình bày. Trên cơ sở sự nhất trí ấy, C.Mác và Ph.Ăngghen được
Đại hội ủy nhiệm thảo ra bản tun ngơn chính thức.
Tác phẩm Tun ngơn của Đảng cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn
thảo vào cuối năm 1847 và được xuất bản vào ngày 21 tháng 2 năm 1848. Mục
đích của tác phẩm như C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Hiện nay, đã đến lúc
những người cộng sản phải cơng khai trình bày trước tồn thế giới những quan
điểm, mục đích, ý đồ của mình; và phải có một Tun ngơn của Đảng của mình để
đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản.”
Việc công bố Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là thông báo về sự ra đời của
một học thuyết cách mạng, một thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác. Lần
đầu tiên trong lịch sử loài người thực hiện được cuộc cách mạng tư tưởng với đỉnh
cao của trí tuệ khám phá và hệ thống hóa những quy luật vận động của giới tự
nhiên, xã hội và tư duy của con người. Tồn bộ thành tựu trí tuệ của loài người đã
được tổng kết, khái quát.
Kết cấu và nội dung cơ bản của tác phẩm
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được C.Mác và Ph. Ănghen trình bày
thành 4 chương.
- Chương I. Tư sản và vô sản: Mác – Ăngghen luận giải làm rõ sứ mệnh lịch
sử và vai trò của giai cấp vô sản.
- Chương II. Những người vô sản và những người Cộng sản: Thể hiện mối
quan hệ giữa Đảng cộng sản với giai cấp công nhân, qua đó để xác định
nhiệm vụ của Đảng cộng sản và những biện pháp để thực hiện nhiệm vụ ấy,
đồng thời chống lại sự vụ khống của giai cấp tư sản đối với Đảng cộng sản.
Page 5



Tiểu luận
- Chương III.Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa: Mác –
Ăngghen phân biệt chủ nghĩa xã hội khoa học với các trào lưu chủ nghĩa xã
hội khác.
-

Chương IV. Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập:

Mác đã trình bày, làm rõ những tư tưởng cách mạng không ngừng; tinh thần cách
mạng triệt để, liên minh giai cấp, sự đoàn kết, đấu tranh của những người cộng sản
đối với các đảng phái dân chủ trong cuộc đấu tranh chống các thế lực phản động
đương thời.
C.Mác và Ănghen đã trình bày rõ: “Lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày
nay, chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.” Đến xã hội Tư bản hiện đại xã hội cũng
phân chia thành nhiều giai cấp trong đó có 2 giai cấp cơ bản đối kháng đó là giai
cấp vơ sản và giai cấp tư sản. Nội dung cơ bản của lịch sử xã hội hiện đại là cuộc
đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Cuộc đấu tranh đó đưa tới sự diệt
vong tất yếu của chủ nghĩa Tư bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Trong
sự vận động của quy luật ấy C.Mác và Ph.Ănghen đã đánh giá rất cao vai trò của
giai cấp tư sản khi nó cịn giữ vị trí là giai cấp tiến bộ lật đổ chế độ phong kiến đã
lỗi thời : “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ,
đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của
tất cả các thế hệ trước kia gộp lại.”
Đồng thời Tuyên ngôn cũng chỉ rõ quy luật vận động tất yếu của xã hội loài
người là cái cách mạng, cái tiến bộ nhất định sẽ thay thế cái lạc hậu khơng ai có thể
cưỡng lại cũng như sự thắng lợi của chế độ Tư bản chủ nghĩa đối với chế độ phong
kiến đó là: “Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng
tất cả những bức vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một

cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục”.
Vốn có bản chất là giai cấp tư hữu và bóc lột nên vai trò cách mạng của giai
cấp tư sản bị hạn chế ngay từ đầu, giai cấp tư sản chỉ làm đơn giản hóa giai cấp và
đối kháng giai cấp mà thơi. “Những vũ khí mà giai cấp tư sản dùng để đánh đổ chế
Page 6


Tiểu luận
độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản”. “Giai cấp
tư sản khơng những đã rèn những vũ khí giết mình, nó cịn tạo ra những người sử
dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại, những người vô sản”.
Tuyên ngôn cộng sản đã chỉ cho giai cấp vô sản thấy rõ sứ mệnh lịch sử vẻ
vang của mình là người đào huyệt chôn chủ nghĩa Tư bản và sáng tạo ra một xã hội
tốt đẹp hơn. Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vơ sản do vị trí kinh tế - xã hội
của giai cấp vô sản trong lịch sử quy định.

Chương 2
TƯ TƯỞNG CỦA MÁC – ĂNGGHEN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG TÁC
PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”
2.1. Khái niệm về Đảng Cộng sản
Tun ngơn trình bày mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai câp vô sản,
những người Cộng sản và giai cấp vô sản: “họ tuyệt nhiên khơng có một lợi ích
nào tách khỏi lợi ích của tồn thể giai cấp vơ sản”
Khái niệm về Đảng trong Tuyên ngôn được hiểu như sau: Đảng là đội tiền
phong, là bộ phận giác ngộ nhất của giai câp vô sản. Mác-Ăngghen nêu rõ: “Về
mặt thực tiễn, những người Cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng
công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt
lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ họ hiểu rõ những điều
kiện, tiến trình là kết quả chung của phong trão vơ sản.”
Sự hình thành của Đảng bắt nguồn từ sự liên hợp của những người vơ sản

thành các đồn thể, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh. Tuyên ngôn cho rằng sự ra đời
của chính Đảng vơ sản là một tất yếu khách quan phù hợp với quy luật đấu tranh
giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. “ Sự tổ chức như vậy của những
người vô sản thành giai cấp và do đó thành chính Đảng, luôn luôn bị sự cạnh
tranh giữa công nhân với nhau phá vỡ. Nhưng nó ln ln được tái lập và luôn
luôn mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn, hùng mạnh hơn.”
2.2. Mối liên hệ giữa Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân

Page 7


Tiểu luận
 Mác và Ăngghen chỉ ra Đảng cộng sản là một bộ phận không thể
tách rời giai cấp vô sản, vì vậy, mục đích và lợi ích của Đảng cộng
sản và giai cấp vô sản là thống nhất cả về mặt lý luận và thực tiễn .
Mác-Ăngghen khẳng định: “Những người Cộng sản không phải là một Đảng
riêng biệt đối lập với các Đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên khơng có một lợi
ích nào tách khỏi lợi ích của tồn thể giai cấp vơ sản.” Quan niệm của Mác –
Ăngghen về những người vô sản và Đảng cộng sản là thống nhất với nhau.
 Đảng cộng sản là lực lượng đại biểu cho quyền lợi của giai cấp vơ
sản cũng như của nhân dân lao động, nó cũng đại diện cho lợi ích
chung của tồn bộ phong trào cộng sản, của tồn giai cấp cơng
nhân trên thế giới khơng phân biệt ngành nghề, địa phương và dân
tộc .Vì thế, Đảng cộng sản khơng những mang tính chất của giai
cấp vơ sản mà cịn mang bản chất quốc tế.
Đảng Cộng sản là Đảng của giai cấp công nhân. Đảng là người đại biểu
trung thành cho lợi ích của giai cấp cơng nhân và tồn thể nhân dân lao động. Đảng
ln cơng khai mục tiêu đấu tranh của mình là: lật đổ sự thống trị của giai cấp tư
sản, giành chính quyền về tay giai cấp cơng nhân. Vì vậy Đảng cộng sản mang bản
chất của giai cấp công nhân.


 Tuyên ngôn của Đảng cộng sản khẳng định sự thống nhất về mục
đích và lợi ích của Đảng cộng sản và giai cấp cơng nhân khơng có
nghĩa Đảng cộng sản và giai cấp công nhân là một.
Đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân nhưng không có
nghĩa là Đảng phải là tồn bộ giai cấp cơng nhân. Đảng cộng sản là một bộ phận
của giai cấp cơng nhân.
Tính độc lập của Đảng là đặc trưng, dấu hiệu và là điều kiện cơ bản khẳng
định giai cấp cơng nhân là một lực lượng chính trị độc lập, tồn tại với tư cách một
giai cấp. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản không phải là một tổ chức biệt lập mà là bộ
phận tiên phong của giai cấp công nhân, gắn bó mật thiết với giai câp cơng nhân,
mang hệ tư tưởng của giai cấp vô sản. Đảng Cộng sản là tổ chức có mục đích,
nhiệm vụ rõ ràng. Mác và Ăngghen cho rằng việc tổ chức những người vô sản
thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và giành lấy chính quyền, đó
là mục đích trước mắt của những người Cộng sản và của tất cả các Đảng với nhau.
Mục đích cuối cùng của họ là xây dựng chủ nghĩa cộng sản mà trong đó “sự phát
triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người”.
Page 8


Tiểu luận
Đảng có cương lĩnh chính trị, có chiến lược, sách lược cách mạng. Tuyên
ngôn tuyên bố rằng đã đến lúc những người Cộng sản phải cơng khai trình bày
trước tồn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình và phải có một
Tun ngơn của Đảng của mình. Tun ngơn của Đảng Cộng sản là cương lĩnh
chính trị của Đảng vơ sản, trong đó trình bày quan điểm, mục đích, nhiệm vụ,
chiến lược, và sách lược của Đảng.
Đảng Cộng sản là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp công
nhân. Tuyên ngôn khẳng định Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vô

sản, là lãnh tụ chính trị, là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp vơ sản. Tính tiên
phong , độc lập ấy được thể hiện toàn diện trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức.
 Về mặt chính trị, Đảng phải kiên định với mục tiêu, lý tưởng, đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân, xác định đường lối chiến
lược, sách lược đúng đắn, kịp thời, phù hợp với từng giai đoạn cách
mạng, trong từng điều kiện lịch sử cụ thể, để lãnh đạo cách mạng vô
sản đi tới thắng lợi.

Về tư tưởng: Đảng được vũ trang bằng hệ tư tưởng Cộng sản chủ
nghĩa. Đảng có lý luận soi đường cho hoạt động của mình. Lý luận đó khơng phải
là giáo điều mà là những ngun lý được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn.
Tuyên ngôn nêu rõ: “ Những người Cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành
một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu.” trên lĩnh vực tư tưởng,
Đảng có nhiệm vụ truyền bá chủ nghĩa xã hội khoa học, nâng cao trình độ giác ngộ
của giai cấp cơng nhân, Đảng là một chính thể có tổ chức, là một khối thống nhất ý
chí và hành động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, kỷ luật tự giác nghiêm minh.
Tuyên ngôn thể hiện rõ nguyên tắc tổ chức Đảng là Đảng Cộng sản được xây dựng
từ đội ngũ đảng viên, là những người vô sản cách mạng nhất cả trong hành động và
trong nhận thức. Tuân thủ nguyên tắc này mới đảm bảo cho Đảng trở thành đội tiên
phong của giai cấp cơng nhân.

2.3. Mục đích, nhiệm vụ của Đảng Cộng sản
Tuyên ngôn đã chỉ rõ mục đích của những người Cộng sản bao gồm mục
đích trước mắt và mục đích cuối cùng, trong đó mục đích cuối cùng của những
người Cộng sản là phải thực hiện chủ nghĩa Cộng sản trên toàn thế giới: “Theo ý
nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành cơng thức
duy nhất này là : xóa bỏ chế độ tư hữu”.
Page 9



Tiểu luận
Theo C.Mác và Ph. Ănghen, mục tiêu trước mắt của Đảng là lật đổ sự
thống trị của giai cấp tư sản giành lấy chính quyền cho giai cấp vơ sản: “Mục đích
trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các
đảng vơ sản khác; tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị
của giai cấp tư sản, giai cấp vơ sản giành lấy chính quyền”.
Nhưng mục tiêu đấu tranh của Đảng không chỉ là làm thay đổi chế độ tư
hữu, mà mục tiêu cuối cùng của Đảng là thủ tiêu chế độ đó, khơng phải là xố
nhồ các mâu thuẫn giai cấp, mà là thủ tiêu các giai cấp, xây dựng một xã hội mới,
xã hội cộng sản chủ nghĩa: “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản khơng phái là xố
bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xoá bỏ chế độ sở hữu tư sản…
Trong khi hợp tác với các đảng đối lập vì mục tiêu trước mắt, những người
cộng sản không bao giờ được qn mục đích cuối cùng của mình là lật đổ giai cấp
tư sản, giành lấy chính quyền về tay giai cấp vô sản: “Nhưng không giờ phút nào,
Đảng cộng sản lại quên gây cho công nhân một ý thức sáng suốt và rõ rệt về sự
đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, để khi có thời cơ thì có
bao nhiêu điều kiện chính trị và xã hội do chế độ tư sản tạo ra, cơng nhân Đức
biết đổi thành bấy nhiêu vũ khí chống lại giai cấp tư sản, để ngay sau khi diệt xong
những giai cấp phản động ở Đức, là có thể tiến hành đấu tranh chống lại chính
ngay giai cấp tư sản”.
Như vậy, thao C.Mác và Ăngghen trong cuộc đấu tranh của mình, để giành
được thắng lợi, giai cấp vơ sản phải liên minh với các giai cấp khác và thậm chí có
thể phải hợp tác cả với những đảng khối lập vì những quyền lợi trước mắt của giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản, giai cấp tư sản các nước đã liên kết lại với nhau để
chống lại giai cấp vơ sản. Vì vậy giai cấp vơ sản phải đồn kết lại: “Vơ sản tất cả
các nước, đoàn kết lại !”

Chương 3
Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG CỦA MÁC – ĂNGGHEN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN
VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Đảng cộng sản Việt Nam

3.1.1. Khái quát sự ra đời
Page 10


Tiểu luận
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam),
đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến,
hồn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên
chống lại chúng. Từ năm 1958 đến trước năm 1930, hàng trăm phong trào, cuộc
khởi nghĩa oanh liệt chống thực dân Pháp đã nổ ra theo nhiều hướng khác nhau,
dưới ngọn cờ của các sĩ phu và các nhà yêu nước đương thời. Các cuộc khởi
nghĩa, phong trào đấu tranh đó vơ cùng anh dung, nhưng đều thất bại và bị thực
dân Pháp đàn áp tàn bạo.
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang chìm trong cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc đi tìm đường
cứu nước. Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi Người
đọc toàn văn: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa của Lênin. Người hiểu ra vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc, đó
là con đường cách mạng vơ sản, từ đây Người dứt khốt đi theo con đường cách
mạng của Lênin. Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu Trung Quốc
trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được
tuyên bố thành lập: Ở Bắc Kỳ có Đơng Dương Cộng sản Đảng (6-1929).Ở Nam
Kỳ có An Nam Cộng sản Đảng (7-1929). Ở Trung Kỳ có Đơng Dương Cộng sản

Liên đồn (9-1929). Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Song, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có
nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Nguyễn Ái Quốc, người chién sĩ cách mạng lỗi lạc
của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín để thống nhất các
tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghi hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu
Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam,
thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều
lệ vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng.
Ngày 3/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó là kết quả của sự chuẩn
bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự ra đời của
Đảng đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước ta, phù hợp với xã thế phát triển của
thời đại.
Page 11


Tiểu luận

3.2. Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
3.2.1. Bối cảnh Việt Nam từ khi đổi mới đến nay
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI (năm
1986). Sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội cơng bằng dân chủ văn minh của nhân dân ta đã trải qua một chặng
đường hơn 30 năm.

Đánh giá khát quát 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng đã nêu ra những
thành tựu, han chế, Mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu quan trọng và

một số nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm 2016 - 2020

Về thực tiễn, Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mơ và
tiềm lực được nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát;
tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý. Chính trị - xã hội ổn định; quốc
phòng, an ninh được tăng cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hịa bình,
ổn định. Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Vị thế,
uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy. Công tác xây dựng Đảng,
xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và đạt kết quả quan trọng.
Về lý luận, nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn. Đến nay, Đảng ta đã bước đầu
hình thành được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về công
cuộc đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; làm cơ sở cho việc
xây dựng và phát triển đường lối của Đảng, góp phần bổ sung, phát triển quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc chưa được phát huy đầy đủ. Còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính
trị - xã hội. Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt diễn biến phức
tạp. Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi.
Một số mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị chuyển biến
chậm.
Page 12


Tiểu luận
Những hạn chế, yếu kém có nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của
tình hình thế giới và khu vực có nhiều diến biến phức tạp; sự chống phá của các

thế lực thù địch; nhưng trực tiếp và quyết định nhất vẫn là nguyên nhân chủ
quan: Công tác nghiên cứu lýluận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu. Công tác dự báo trong nhiều lĩnh vực cịn yếu. Quản lý nhà nước
cịn bng lỏng, để xả ra nhiều sai phạm
3.2.2. Vận dụng các nguyên lý trong Tuyên ngôn trong xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam hiện nay
Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
Tiếp thu học thuyết của Mác và Ănghen về Đảng Cộng sản, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện và hoàn cảnh của Việt
Nam thời kì hội nhập . Coi trọng cơng tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
ngang tầm với yêu cầu của nhiệm vụ mới, Đảng xác định nhiệm vụ “Xây dựng
Đảng là then chốt”. Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng luôn đề cao việc tăng
cường và giữ vững bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng; kiên trì chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đó là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động của Đảng; tích cực tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về xây dựng
Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền theo tư tưởng của C.Mác và Ph.Angghen.

Về xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong giai đoạn hiện nay cần tập trung
thực hiện những nhiệm vụ then chốt sau đây:
 Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Làm
tốt cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởngđấu tranh chống những biểu hiện tiêu
cực trong Đảng.
 Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt quy định về chức năng, nhiệm vụ,
phương thức hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở Đảng.
 Thực hiện tốt nguyên tắc dựa vào dân để xây dựng tổ chức cơ sở đanngr. Có
cơ chế để nhân dân tham gia vào việc xây dựng các Nghị quyết của Đảng
bộ, Chi bộ. Tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên phải luôn giữ mối liên hệ
mật thiết với dân.
 Thực hiến các biện pháp đồng bộ củng cố tổ chức cơ sở đảng, tập trung cho
các địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, các đảng bộ, chi bộ yếu kém.

Xây dựng đội ngũ Đảng viên
Page 13


Tiểu luận
“Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội ngũ tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng
của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
lên trên lợi ích cá nhân, chấp hành nghiêm chỉnh cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hồn
thành tốt nhiệm vụ được giao, có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết
với nhân dân, phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đồn kết thông nhất
trong Đảng.”
Nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên cả về tư tưởng chính trị, trình độ năng
lực, phẩm chất đạo đức, lối sống cụ thể là:
 Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, tích cực thực hiện đường lối
đổi mới của Đảng, Có bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức giữ vững và
nêu cao vai trị lãnh đạo của Đảng.
 Có hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có
trình độ chun mơn, nghiệp vụ; có năng lực vận động quần chúng thực hiện
chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
 Có tinh thần trách nhiệm cao, gương mẫu, đi đầu trong công tác; đặt lợi ích
của Đảng, của dân tộc lên trên hết, Liên hệ mật thiết với nhân dân,. Có lối
sống trong sạch, lành mạnh, khơng quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
 Chú trọng công tác phát triển Đảng viên mới. Việc kết nạp Đảng viên phải
coi trọng chất lượng, tiêu chuẩn, coi trọng giáo dục, rèn luyện Đảng viên dự
bị.

KẾT LUẬN


Sự ra đời của Tuyên ngôn với tư cách là cương lĩnh đầu tiên của những
người Cộng sản đánh dấu bước ngoặt của phong trào công nhân: giai cấp công
nhân bước lên vũ đài chính trị với tư cách là một lực lượng xã hội độc lập, đấu
tranh giải phóng mình, đồng thời giải phóng tồn thể con người. Các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác đã để lại cho thế hệ sau một di sản vô giá, một kiệt tác vĩ đại mà nội
dung, tầm vóc và ý nghĩa cách mạng của nó khơng chỉ có tác dụng sâu sắc đối với
Page 14


Tiểu luận
giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa lúc bấy giờ, mà
còn có ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả nhân loại cho đến tận ngày nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam trong q trình lãnh đạo cách mạng đã ln trung
thành và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của Tuyên ngôn về Đảng cộng sản.
Công cuộc đổi mới của Việt Nam đang bước vào chiều sâu càng đòi hỏi chúng ta
phải quán triệt, tiếp cận những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin một cách
đầy đủ, sâu sắc. Đảng ta phải không ngừng quán triệt nguyên tắc lý luận phải gắn
liền với thực tiễn, phải bảo vệ và phát triển sáng tạo những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác -Lênin trong thời đại mới để lý luận khoa học thực sự biến thành sức
mạnh vật chất, chỉ trên cơ sở như vậy chúng ta mới biến tư tưởng của chủ nghĩa
Mác-Lênin nói chung trong đó có Tun ngơn của Đảng Cộng sản trở thành sức
mạnh vơ địch trong q trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, Nxb. Chính trị Quốc gia 2004
2.
Tài liệu học tập lý luận chính trị dành cho học viên lớp đối tượng
kết nạp Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011
3.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,

2006

4.
5.

Tạp chí cộng sản,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. tapchicongsan.org.vn

6. Báo điện tử. Cpv.org.vn

Page 15



×