Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂNCỦA NHO GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.2 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nho giáo có một vị thế hết sức to lớn trong đời sống xã hội Trung Quốc trong
nhiều thế kỷ. Nho giáo như là một thành tố văn hóa góp phần làm phong phú văn hóa
Trung Quốc vốn được hình thành trên nền tảng của văn hóa Hán cùng với sự giao lưu
tiếp xúc văn hóa với các tộc người khác. Tuy nhiên trong suốt chiều dài lịch sử ngàn
năm của Trung Quốc, nho giáo được nhìn nhận hết sức khác nhau có những giai đoạn
lịch sử người ta đề cao Nho giáo, coi đó như là chuẩn mực để xây dựng đời sống xã
hội, lại có thời gian người ta phê phán thậm chí còn phủ nhận Nho giáo. Đương nhiên,
khi đã coi Nho giáo như là một học thuyết thì việc xem xét, đánh giá trong các giai
đoạn lịch sử cũng là việc làm bình thường.
Ở việt nam trong những thập niên gần đây thì việc tìm hiểu Nho giáo có chiều
hướng gia tăng. Bên cạnh, nhiều bộ sách kinh điển Nho giáo được tái bản, nhiều công
trình nghiên cứu về Nho giáo lại càng trở nên cần thiết hơn khi mà một số nước trong
khu vực chịu ảnh hưởng rất sâu đậm. Nho giáo đang vươn lên thành những “ con
rồng”. Hai cuộc tọa đàm về Nho giáo diễn ra tại trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn giữa các nhà khoa học Mỹ và các nhà khoa học Việt Nam cũng không ngoài
mục đích góp phần nghiên cứu một cách toàn diện về hệ thống Nho giáo.
Nét đặc thù của triết học Trung Quốc nói chung hay Nho giáo nói riêng là có
xu hướng đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị – đạo đức của xã hội có
nội dung bao trùm là con người, xây dựng con người, xã hội lý tưởng và con đường trị
nước. Ngay từ khi xâm nhập vào Việt Nam Nho giáo đã nhanh chóng thích nghi và
phát triển mạnh mẽ. Sự tác động của của nó đến đời sống của người Việt Nam rất sâu
sắc không chỉ trong quá khứ mà còn tiếp tục phát huy đến ngày nay, góp phần phong
phú thêm cho nền văn hóa Việt Nam. Vì vậy đề tài “ Những tư tưởng cơ bản của Nho
giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần người Việt “ được thực hiện
nhằm làm rõ hơn tư tưởng triết học chủ đạo của Nho giáo cũng như tầm ảnh hưởng
sâu rộng của nó đến đời sống của người Việt trải qua bao thế hệ.

Chương 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA NHO GIÁO
1.1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI


1.1.1. Hoàn Cảnh Ra Đời:
Trung Hoa là một đất nước rộng lớn thuộc vùng Đông Á có hai con sông
lớn (Hoàng Hà & Trường Giang). Cư dân phía Bắc Trường Giang là dân tộc
Hán, có nguồn gốc Mông Cổ (Hoa/Hạ) sống du mục, (thích săn bắn, chinh
phục). Cư dân phía Nam Trường Giang là các dân tộc Bách Việt, sống nông
nghiệp (định canh, định cư) có nền văn hóa riêng nhưng dần dần bị dân tộc Hán
đồng hóa. Xã hội chia làm hai loại người (quân tử và tiểu nhân)…
Lịch sử Trung Hoa cổ đại đầy biến động, với các vương triều khác nhau
đã để một nền văn hóa rực rỡ với nhiều trường phái triết học sâu sắc.
1.1.2. Đặc Điểm:
• Nền triết học đồ sộ nhưng tập trung giải quyết các vấn đề do thực tiễn
đạo đức, chính trị, xã hội của thời đại đặt ra.


• Xuất phát từ quan hệ giữa Thiên – Địa – Nhân mà chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm xung đột nhau xung quanh vấn đề cội nguồn, số phận, bản
tính, của con người; nhằm xây dựng một quan niệm nhân sinh vững chắc, giúp
con người vươn lên trong điều kiện xã hội đầy phức tạp và biến đợng.
• Các trường phái triết học khác nhau, vừa phê phán xung đột, vừa hấp thụ
tư tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình và chịu ảnh
hưởng tư tưởng biện chứng trong kinh dịch.
1.2. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO
1.2.1. Lịch sử hình thành:
Khổng giáo (Nho giáo) là một giáo lý đạo đức cơ bản xuất xứ ở Trung
Quốc vào thế kỷ thứ 5 và 6 trước công nguyên. Dựa trên những cơ cấu đã phổ
biến lâu đời trong xã hội Trung Quốc, chẳng hạn hệ thống gia tộc và sự thờ
cúng ông bà, tổ tiên của nó, Khổng giáo đã trở thành hệ thống tư tưởng có ảnh
hưởng lớn nhất Trung Quốc, cùng tồn tại với Lão giáo (đạo) và Phật giáo qua
nhiều thế kỷ. Người sáng lập ra nó đức Khổng Phu Tử (551-479 trước CN) một
nhà cải cách chính trị cũng là một nhà giáo dục, ngài bất mãn với sự suy đồi

đạo đức trong thời đại của mình và tìm cách khôi phục lại những giá trị mà
ngài cho là những phong tục tốt đẹp của thời đại Hoàng Kim. Những tư tưởng
triết lý, đạo lý và tín ngưỡng đặt nền tảng cho một hệ thống đạo đức đã tồn tại
qua nhiều thời gian thử thách. Trãi qua hơn hai nghìn năm, tư tưởng Nho giáo
ảnh hưởng đối với Trung Quốc không chỉ về chính trị, văn hóa mà còn thể hiện
trong hành vi và phương thức tư duy của mỗi con người Trung Quốc. Có học
giả còn xem Nho giáo là tư tưởng tôn giáo của Trung Quốc. Trong thực tế, Nho
giáo là một trong rất nhiều trường phái thời cổ Trung Quốc, nó là tư tưởng triết
học chứ không phải là tôn giáo và được coi là tư tưởng chính thống trong xã
hội phong kiến hơn hai nghìn năm ở Trung Quốc và có ảnh hưởng tới một số
nước ở Châu Á .
1.2.2. Các giai đoạn phát triển của nho giáo:
Nho giáo nguyên thủy (tiền Tần/Khổng –Mạnh): Thời Xuân Thu, Khổng
Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh
Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị
thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng
Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò
xuất sắc nhất của - Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời
thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp,
còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa
ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ
Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho
giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh".
Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia
mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo
mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử


trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải
thực hành.

Hán Nho: Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký.
Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống
nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính
thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo
thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy
là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng
"lễ trị" để che đậy "pháp trị”.
Tống Nho: Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký
và cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Tứ thư và ngũ kinh là
kinh điển nho giáo. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên
tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam,
thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng
Trình"). Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo". Điểm khác biệt của
Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ
Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo phục vụ cho việc đào tạo
quan lại và cai trị).


CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO
2.1. CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN CỦA NHO GIÁO
Để hiểu được tư tưởng triết học của nho giáo lúc bấy giờ, cần điểm qua
các tác phẩm kinh điển của Nho giáo gồm 02 (hai) bộ Ngũ Kinh và Tứ Thư.
Đây là hai bộ sách nổi tiếng mà hệ thống kinh điển đó hầu hết viết về xã hội, về
những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ
xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi
của Nho gia.
2.1.1. Ngũ Kinh:
Giáo lý của Khổng Tử dựa trên sáu quyển sách cổ: Dịch, Thư, Thi, Lễ,
Nhạc Và Xuân Thu. Bốn trong sáu quyển này được đề cao với từ “Kinh”- Kinh
Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Nhạc Kinh vào thế kỷ thứ 2 trước CN, do bởi sách

nhạc mất đi, năm cuốn còn lại được đặt tên là Ngũ Kinh.
Kinh Thi là người bạn đồng hành của ngài. Chắc hẳn ông ta đã thuộc lòng
nó và hát nó. Ngài đề cập hoặc trích dẫn nó khoảng 20 lần trong Luận Ngữ.
Kinh thi có 305 bài hát, bao gồm các bài hát ca tụng triều đại được hát ở triều
đình nhà Chu và những bài dân ca khác biệt với những phần của đế chế nhà
Chu. Theo truyền thống, nhà vua phái các quan lại đi khắp nơi để thu thập các
bài dân ca để ông ta có thể tìm hiểu về những gì người dân nghĩ suy nơi sự cai
trị của mình.
Khổng Tử giới thiệu Kinh Thi cho các môn sinh của ngài với một vài lý
do. Đầu tiên giúp cho họ hiểu được các phong tục, tập quán quốc gia khác
nhau. Thứ hai, giúp cho họ sống hòa thuận với người khác. Thứ ba, nó là
phương tiện hòa giải tình cảm của họ. Cuối cùng, nó sẽ đưa họ đến với muôn
thú và cỏ cây.
Về “Kinh Thư” là sách ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ
có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo
gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
“Kinh Dịch” là một cẩm nang về sự tiên đoán có từ đời nhà Chu và sau đó
được các nhà uyên bác của đạo Khổng mở rộng. Bằng cách vận dụng các cây
que bằng cọng cỏ thì có thể tạo ra 64 ngôi sao sáu cánh, liên kết tất cả các cấu
trúc này và biến đổi thành vũ trụ.
Không còn cuốn sách “Lễ” nào tồn tại vào thời Khổng Tử. Tuy vậy, cuốn
Lễ ký chứa đựng các tư liệu vào đầu thời kỳ nhà Chu nhưng thực tế nó được
biên soạn sau này, đưa ra tình huống cổ điển. Cuốn sách này quan trọng của Lễ
Nghi cũng như tạo cho nó có sự phù hợp với thời thế. Ví dụ, khi một người trị
vì qua đời, các quan lại và hầu thiếp đều bị chôn theo để linh hồn họ tiếp tục đi
theo hầu hạ. Sách lễ đã phản đối việc đó bằng cách dùng hàng mã thay thế, vừa
đáp ứng cho mục tế lễ, vừa thể hiện tình cảm người sống dành cho người chết.
“Kinh Xuân Thu” ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng
Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị
nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời



thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất.
(Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra).
2.1.2. Tứ Thư
Là bốn quyển sách kinh điển của văn học Trung Hoa được Chu Hy thời
nhà Tống lựa chọn làm nền tảng cho triết học Trung Hoa và Khổng giáo.
Chúng bao gồm: Đại Học, Trung Dung, Luận ngữ, Mạnh Tử.
“Đại học” là sách dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên, khi bước vào
bậc đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh vác việc nước.
Theo các Nho gia, sách Đại Học do Tăng Tử làm ra để diễn giải các lời
nói của Khổng Tử.
Mục đích và tôn chỉ của sách này là nói về đạo quân tử, trước hết phải sửa
cái đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao cho đến chổ chí
thiện. Muốn được vậy, phải sử dụng Bát điều mục (tám điều): cánh vật, trí tri,
thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cái gốc của đạo quân
tử là sự “tu thân”. Cho nên trong sách Đại học có câu : “Tự thiên tữ dĩ chí ư thứ
nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn” (Nghĩa là : “từ vua cho đến thường dân, ai
ai cũng đều lấy sự sửa của mình làm gốc”)
“Trung Dung” là sách Trung Dung do Tử Tư làm ra. Tử Tư là học trò của
Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử.


Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Không Tử nói về đạo “trung
dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung
hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên
trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp
với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.

“Luận Ngữ” là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Không Tử và
những lời nói của người đương thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên
đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau. Đọc sách
này, người ta hiểu được phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất là
về giáo dục, ông tỏ ra là người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời
giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người. Như có
khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi người mỗi cách.
Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ
của Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo.
“Mạnh Tử” Sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi Mạnh Tử và các môn
đệ của ông như : Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương… ghi chép
lại những điều đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và các
học trò cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác như :
học thuyết của Mặc Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia làm 2
phần: tâm học và chính trị học.
Tâm học: Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú
cho. Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối,
trau dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của
Trời ban cho người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể.
Học là để giữ cái Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh. Nhân
và nghĩa vốn có sẳn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng
vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử đề cập
đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất với Trời.


Chính trị học : Mạnh Tử chủ trương: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh. Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạo trong thời quân chủ chuyên
chế đang thịnh hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không
có quyền lấy dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy,
phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài

pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho
đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà
tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương về chính trị của
Mạnh Tử vô cùng mới mẽ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm cho những người
chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được. Có thể đây là lý thuyết
khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này.
2.2. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO
2.2.1. Tư tưởng triết học của Nho giáo nguyên thủy:
Là triết lý của Khổng Tử và Mạnh Tử về Đạo làm người quân tử và cách
thức trở thành người quân tử, cách cai trị đất nước. Nó được trình bày trong
một hệ thống các tư tưởng về đạo đức – chính trị - xã hội có quan hệ chặt chẽ
với nhau.
Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng của xã hội, cơ sở của gia đình
không phải là những quan hệ kinh tế - xã hội mà là những quan hệ đạo đức chính trị tam cương là ba quan hệ vua –tôi, cha – con, chồng – vợ . Các quan hệ
này được Nho Gia gọi là Đạo. Khi các quan hệ này chính danh, nghĩa là: vua ra
vua, tôi ra tôi; cha ra cha, con ra con; chồng ra chồng, vợ ra vợ ; thì xã hội ổn
định, gia đình yên vui; và ngược lại. Xã hội thời Xuân Thu – Chiến Quốc loạn
lạc, luân thường đạo lý suy đồi, kỹ cương phép nước lỏng lẽo là do ba quan hệ
này rối loạn, do danh – thực oán trách nhau, nghĩa là vua chẳng ra vua, tôi
chẳng ra tôi; cha chẳng ra cha, con chẳng ra con; chồng chẳng ra chồng, vợ
chẳng ra vợ. Vì vậy muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện xã hội đại đồng thì
phải chấn chỉnh lại ba quan hệ đó và Nho gia nguyên thủy đã lấy giáo dục đạo
đức làm cứu cánh.
Bên cạnh việc giáo dục để xây dựng một xã hội đại đồng, Khổng Tử và
Mạnh Tử còn tìm chỗ dựa vững chắc cho lý luận đạo đức của mình qua thuyết
Thiên Mệnh. Xuất phát từ vũ trụ quan của kinh Dịch, Khổng Tử cho rằng, vạn
vật không ngừng biến hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại được, mà nền
tảng tận cùng là Thiên Mệnh và hiểu biết được Thiên mệnh là điều kiện tiên
quyết để trở thành người hoàn thiện.
Dựa trên thuyết Thiên mệnh, Khổng Tử cho rằng: “ thiên mệnh chi vị

tính, xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo, và tính tương cận, tập tương viễn.
Điều này có nghĩa là: con người có tính người, tính người do trời phú, sự phú
cái tính ấy về cơ bản là đồng đều ở mỗi con người. Nhưng trong cuộc sống,do
điều kiện, hoàn cảnh, môi trường khác nhau, do những tập quán, tập tục không
giống nhau mà người này khác xa người kia. Vậy, tập là nguyên nhân làm biến
tính con người, mất đi bản tính trời phú, làm cho con người vô đạo, thiên hạ vô
đạo. Vì vậy, muốn giữ được tính người phải lập đạo, làm cho thiên hạ hữu đạo.


Đạo phải đi cùng với giáo mới sâu sắc, vững bền. Hữu đạo là thể hiện mối
quan hệ giữa người với người, giữa người với trời đất – vạn vật một cách đúng
đắn phù hợp với Thiên mệnh. Khổng Tử cho rằng, nếu lập đạo của trời, nói về
âm dương, nếu lập đạo của đất thì nói về cương nhu, còn lập đạo của người thì
nói đến nhân nghĩa. Quan niệm về nhân nghĩa là quan niệm trung tâm của đạo
đức nho gia nguyên thủy. Chúng hợp với các quan niệm khác tạo thành hệ
thống phạm trù đạo đức của phái này: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng.
• Quan niệm về Nhân:
- Theo Khổng Tử: nhân là lòng thương người (ái nhân). Muốn thực hiện đạo
làm người tức muốn thực hiện đức nhân cần phải: điều gì mà mình
không muốn thì cũng đừng đem áp dụng cho người khác; mình muốn
lập thân thì cũng giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì
cũng giúp người khác thành đạt; khống chế mình theo đúng lễ…người
có đức nhân thì bên ngoài xã hội luôn cung, khoan, tín mẫn, huệ (cung
kính, khoan hòa, tín nhiệm, nhạy bén, rộng rãi)…, bên trong gia đình
luôn hiếu, đễ (hiếu thảo, nhường nhịn)…
- Quan niệm về nhân của Khổng Tử có nợi dung giai cấp, Ơng cho rằng chỉ
có người quân tử, kẻ cai trị mới có được đức nhân.
• Quan niệm về nghĩa:
- Theo Nho gia, nếu nhân là lòng thương người, đức nhân dùng để đối xử
với người và tạo ra người, thì nghĩa là dạ thủy chung, đức nghĩa dùng để

đối xử chính và tạo ra ta. Đức nhân thể hiện trong mối quan hệ với
người thì đức nghĩa thể hiện trong mối quan hệ với mình. Khi làm việc
gì hoặc nói điều gì ta thấy tâm thảnh thơi, thoải mái và hứng thú thì đó
là làm điều nghĩa và nói điều nghĩa. Vậy, nghĩa được hiểu là những gì
hợp đạo lý mà con người phải làm bất kể điều đó có đem đến lợi ích cho
người thực hiện việc đó hay không.
- Song, do hạn chế bởi lập trường giai cấp mà khổng Tử cho rằng, bậc quân
tử tin tường việc nghĩa, kẻ tiểu nhân rành rẽ việc lợi. Tiểu nhân và quân
tử là hai loại người đối lập nhau không phải chủ yếu về địa vị xã hội mà
chủ yếu là phẩm chất đạo đức.
• Quan niệm về Lễ:
- Để đạt được nhân, lập lại trật tự, khôi phục lại kỷ cương cho xã hội Khổng
Tử chủ trương phải dùng lễ. lễ xác định được vị trí, vai trò của từng
người, phân định trật tự, kỷ cương trong gia đình và ngoài xã hội; loại
trừ những tật xấu và tạo ra những phẩm chất cá nhân mà xã hội đòi hỏi.
- Theo Khổng Tử lễ được hiểu ở hai khía cạnh. Thứ nhất, lễ được hiểu là lễ
giáo phong kiến như những phong tục, tập quán; những qui tắc, qui định
về trật tự xã hội; thể chế, pháp luật nhà nước như: sinh, tử, tang, hôn, tế
lễ, luật lệ, hình pháp…; thứ hai, lễ được hiểu là luân lý đạo đức như ý
thức, thái độ, hành vi ứng xử, nếp sống của mỗi con người trong cộng
đồng xã hội trước lễ nghi, trật tự, kỹ cương phong kiến.
- Nhân và lễ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khổng tử cho rằng trên đời
này không tồn tại người có nhân mà vô lễ.
Ngoài Nhân, Lễ, Nghĩa, Nho gia còn nói đến trí là sự sáng suốt để nhận
thức mọi vấn đề, hiểu đạo trời, hiểu đạo người, hiểu cả thiên hạ và biết sống


với nhân; tín tức là nói đến lòng ngay, dạ thẳng, lời nói và việc làm nhất trí với
nhau.
Nếu Khổng Tử chú trọng đến Tam Đức (nhân, trí, dũng) thì Mạnh Tử xem

Tứ Đức (nhân, lễ, nghĩa, trí) là những chuẩn mực đạo đức hoàn thiện hơn. Dựa
vào thuyết Thiên Mệnh Người cho rằng: “ nhân chi sỏ, tính bản thiện” – con
người sinh ra đã có sẳn tính thiện trong người, do người có nhân, lễ, nghĩa &
trí. Tâm là cội nguồn tính thiện trong con người. Vì vậy, con người phải trường
kỳ tâm dưỡng kỳ tính nghĩa là giữ gìn cái tâm thiện ấy. Mặc dù vậy, trong cuộc
sống vẫn tồn tại cái ác mê hoặc lòng người, làm đảo điên trật tự, kỹ cương của
xã hội. Để giữ được trật tự kỹ cương phải thực hành đường lối nhân nghĩa.
Tất cả những điều nêu trên là nguyên tắc cơ bản của đạo đức Nho giáo mà
người quân tử phải biết tu thân để đạt đạo. Người quân tử phải đạt được chín
điều: nhìn cho minh bạch, nghe cho rõ ràng, sắc mặt phải ôn hòa, tướng mạo
phải trang nghiêm, khi tức giận phải nghĩ hậu quả, nói năng trung thận, làm
việc phải trọng tín cẩn, nghi hoặc phải hỏi han, khi thấy lợi phải nghĩ đến
nghĩa. Đó là những chuẩn mực xây dựng nên mẫu người quân tử trong xã hội.
Không riêng bậc quân tử mới biết tu thân, đạt đạo và hành đạo để trở
thành mẫu người chuẩn mực. Quan niệm về người phụ nữ trong tư tưởng Nho
giáo ràng buộc bởi Tam tòng, Tứ đức.
“Tam Tòng” là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm: ”tại gia tòng phụ,
xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Nghĩa là người phụ nữ khi còn ở nhà phải
theo cha,lúc lấy chồng phải theo chồng, chồng mất phải theo con.
“Tứ Đức” muốn nói đến bốn tính nết tốt mà người phụ nữ phải có, gồm:
công, dung, ngôn, hạnh. Người phụ nữ phải khéo léo trong việc làm, hòa nhã
trong sắc diện, mềm mại trong lời nói và nhu mì trong tính nết.
Như vậy, Khổng Tử và Mạnh Tử đều nhất trí coi chuẩn mực đạo đức là
tiêu chuẩn của người quân tử, muốn trở thành người quân tử phải biết tu thân.
Để tu thân cần phải đạt đạo, đạo chính là con đường phải theo, là quan hệ mà
con người phải biết ứng xử trong cuộc sống. Đó chính là đạo quân – thần, phụ tử, phu – phụ. Bên cạnh đó còn phải đạo đức là những phẩm chất tốt đẹp mà
con người thể hiện trong cuộc sống. Người quân tử còn phải biết: thi, thư, lễ,
nhạc.
Tóm lại, xuyên suốt quan điểm đạo đức – chính trị - xã hội của Khổng
Mạnh là xây dựng mẫu người quân tử. Người quân tử phải biết tam cương, ngũ

thường, tam tòng, tứ đức nghĩa là phải biết tu thân và không chỉ có tu thân mà
còn phải biết hành động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Muốn hành động hiệu
quả phải thực hành đường lối nhân trị - cai trị bằng tình người, yêu thương và
xem như bản thân mình; và chính danh.
Nho giáo nguyên thủy đã khát khao biến xã hội từ loạn thành trị. Điều này
toát lên tính nhân bản sâu sắc. Nó đòi hỏi người cai trị - người quân tử là người
có vốn văn hóa toàn diện. Nho giáo nguyên thủy xây dựng xã hội đại đồng
không dựa trên nền tảng kinh tế - xã hội, không xuất phát từ nền sản xuất vật
chất mà chủ yếu dựa trên mối quan hệ đạo đức – chính trị - xã hội thông qua
việc rèn luyện, giáo dục nhân cách cá nhân cho tầng lớp thống trị. Dùng tâm,
đạo, dùng nhân, nghĩa để thu phục lòng người, để trị quốc, an dân.


Mặc dù nó mãi là lý tưởng chính trị cao đẹp của tầng lớp phong kiến
thống trị xã hội Trung Quốc nhưng Nho giáo nguyên thủy Khổng – Mạnh toát
lên giá trị nhân bản và tinh thần biện chứng sâu sắc.
2.2.2. Tư tưởng triết học của Nho giáo thể hiện qua quan niệm về Đạo
Đức:
Trong Nho giáo rất chú trọng dạy đạo làm người. Phải nói đạo làm người
của Khổng Tử dạy là đạo làm người trong xã hội phong kiến. Chúng ta đều biết
trong xã hội có giai cấp thì những nguyên tắc để đánh giá hành vi của con
người, phẩm hạnh của con người trong mối quan hệ với người khác và trong
mối quan hệ với nhà nước, Tổ quốc... đều mang tính giai cấp rõ rệt và có tính
chất lịch sử.
Những quan niệm về đạo đức điều thiện, điều ác “thay đổi rất nhiều từ
dân tộc này tới dân tộc khác, từ thời đại này đến thời đại khác đến nỗi thường
thường trái ngược hẳn nhau” (Enghen). Những quan niệm đạo đức mà Khổng
Tử đề ra không phải là vĩnh cửu, nhưng có nhiều phương châm xử thế, tiếp vật
đã giúp ông sống giữa bầy lang sói mà vẫn giữ được tâm hồn cao thượng, nhân
cách trong sáng. Suy đến cùng đạo làm người ấy bao gồm 2 chữ nhân nghĩa.

Khổng Tử giảng chữ Nhân cho học trò không lúc nào giống lúc nào, nhưng xét
cho kỹ, cốt tuỷ của chữ Nhân là lòng thương người và cũng chính là Khổng Tử
nói “đối với người như đối với mình, không thi hành với người những điều mà
bản thân không muốn ai thi hành với mình cả. Hơn nữa cái mình muốn lập cho
mình thì phải lập cho người, cái gì mình muốn đạt tới thì cũng phải làm cho đạt
tới, phải giúp cho người trở thành tốt hơn mà không làm cho người xấu đi”
(luận ngữ) “Nghĩa” là lẽ phải, đường hay, việc đúng.
Mạnh Tử nói “nhân là lòng người, nghĩa là đường đi của người”; (Cáo Tử
thượng) “Nhân là cái nhà của người, nghĩa là đường đi ngay thẳng của người”
(Lâu ly thượng); “ở với đạo nhân, nói theo đường nghĩa, tất cả mọi việc của đại
nhân là thế đó” (Tồn Tâm Thương).
Nghĩa thường đối lập với lợi. Theo lợi có khi không làm cái việc phải làm
nhưng trái lại, theo nghĩa có khi lại rất lợi. Có cái nghĩa đối với người xung
quanh có cái nghĩa đối với quốc gia xã hội. Đến đời Hán Nho, Đổng Trọng Thư
đưa nhân nghĩa vào ngũ thường. Tam cương ngũ thường trở thành giềng mối
trụ cột của lễ giáo phong kiến. Sang Tống nho, hai chữ nhân nghĩa càng bị trừu
tượng hoá. Các nhà Tống nho căn cứ vào thuyết “thiện nhân hợp nhất” khoác
cho hai chữ “nhân nghĩa” một màu sắc thần lá siêu hình. Trời có “lý” người có
“tính” bẩm thụ ở trời. Đức của trời có 4 điều: nguyên, hạnh, lợi, trinh; đức của
người có nhân, nghĩa, lễ trí. Bốn đức của người tương cảm với 4 đức của trời.
Hệ thống hoá lại một cách tóm tắt hai chữ “nhân nghĩa” ở một số thời
điểm phát triển của Nho giáo như trên, ta có thể kết luận hai chữ “nhân nghĩa”
của Nho giáo là khái niệm thuộc phạm trù đạo lý, nội dung từng thời kỳ có
thêm bớt những căn bản vẫn là những lễ giáo phong kiến không ngoài mục
đích duy nhất là ràng buộc con người vào khuôn khổ pháp lý Nho giáo phục vụ
quyền lợi của giai cấp phong kiến. Trong quá trình phát triển càng ngày nó
càng bị trừu tượng hoá trên quan điểm siêu hình. Tuy nhiên quan niệm đạo đức
của Nho giáo quả là có rất nhiều điểm tích cực. Một trong những đặc điểm đó
là đặt rõ vấn đề người quân tử, tức là người lãnh đạo chính trị phải có đạo đức



cao cả; dù nguyên tắc ấy không được thực hiện trong thực tế nó vẫn là một
điểm làm chỗ dựa cho những sĩ phu đấu tranh. Nho giáo đã tạo ra cho kẻ sĩ một
tinh thần trách nhiệm cao cả với xã hội. Truyền thống hiếu học, truyền thống
khí tiết của kẻ sĩ không thể bảo là di sản của Nho giáo chỉ có tiêu cực.
2.2.3. Tư tưởng triết học Nho giáo qua thái độ của Nho giáo đối với
cuộc sống:
Trước hết phải nói Nho giáo là đạo quan tâm đến con người, đến cuộc đời
và tìm thú vui trong cuộc sống. Khác với các tôn giáo ở chỗ đó. Phật giáo cho
cuộc đời là bể khổ nên tìm cách giải thoát, cần sự “bất sinh”. Lão giáo cũng
yếm thế, bi quan như vậy, nên cần sự “vô vi tịch mịch”.


Chỉ có đạo Nho là trong sự sống hơn cả. Không cần phải hỏi ta sinh ra ở cõi
đời để làm gì, chết rồi thì đi đâu, chết rồi có linh hồn nữa không “Người muốn
biết người chết rồi có biết gì nữa không ư? Chuyện đó không phải là chuyện
cần kíp bây giờ, rồi sau biết” (Khổng Tử gia ngữ). Cho nên Khổng Tử ít bàn
đến chuyện quỷ thần, đến chuyện quái lạ, huyền bí. Làm người ở đời hãy lo lấy
việc của con người. Chuyện của con người lúc sống còn chưa lo hết, lo gì đến
việc sau khi chết! “Phải vụ lấy việc nghĩa của con người, còn quỷ thần kính mà
xa ta” (Luận ngữ) khi khoa học chưa phát triển, các tôn giáo còn thịnh hành,
những chuyện mê tín dị đoan còn huyền hoặc người ta gây bao nhiêu tai hại,
thìthái độ “kinh nhi viễn chi” là đúng. Khổng Tử tuy chưa thoát ra được cái
“thiện đạo quan” của đời Chu, nhưng ông đã bắt đầu hoài nghi quỷ thần, trời
mặc dù ông vẫn trong việc tế trị.
Nho học khuyên con người ta nên yêu đời, vui đời, sống có ích cho đời
cho xã hội. Câu Khổng Tử trả lời Tử Lộ khi ông ta định sang giúp Phật Bật nêu
rõ điều đó: “Ta đây há lại là quả dưa, chỉ được treo mà không được ăn hay sao”
sống ở đời mà bỏ việc đời là trái đạo con người. Sống là hành động, đem tài trí
giúp đời Khổng Tử chính là tấm gương cho các nhà Nho đời sau noi theo. Ơng

khơng tìm thú vui ở chỗ ẩn dật hay ở chỗ suy tưởng suông, mà ở chỗ hành
động, hành đạo. Khổng Tử đi chu du thiên hạ ngoài mục đích tìm cách thực
hiện lý tưởng của mình suốt 14 năm. Không ai dùng, trở về đã 70 tuổi ông vẫn
dạy học, làm sạch, truyền bá tư tưởng của mình. Đây có thể nói là điểm sáng
nhất của Nho giáo so với các học thuyết khác, và có lẽ chính nhờ nó mà Nho
giáo giữ vị trí độc tôn và ưa chuộng trong thời gian rất dài của lịch sử


Chương 3: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC NHO GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TINH THẦN NGƯỜI VIỆT
Nho giáo của Khổng Tử được du nhập vào Việt Nam tư thời Bắc thuộc và
ảnh hưởng của nó vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay. Cùng với Phật giáo, Lão
giáo, Nho giáo của Khổng tử đã tác động, chi phối nhiều lĩnh vực của đời sớng
xã hợi.
3.1. Tiến trình du nhập của nho giáo vào Việt Nam.
Hoàn cảnh du nhập của Nho học ở Việt Nam có khác với nước khác. Nếu
với Nhật Bản thì sự du nhập là gián tiếp, từ Triều Tiên truyền sang và sau đó là
sự tiếp thu trực tiếp, các lưu học sinh Nhật Bản sang Trung Quốc học Nho học
và truyền bá lúc đầu mang tính áp đặt. Người Hán xâm lược Việt Nam, đưa
Nho học vào để tăng cường sự thống trị. Vì vậy, thái độ đầu tiên của người Việt
Nam là phản ứng, chống lại. Thái độ trên có sự chuyển biến là mãi về sau, khi
nền kinh tế xã hội Việt Nam có nét giống với nền kinh tế - xã hội phong kiến
Trung Quốc, khi người Việt Nam có sự quen thuộc ít nhiều với Nho học.
Thái độ đối với Nho học của người Việt Nam có bước ngoặc là khi người
Việt Nam giành được độc lập dân tộc từ tay người Hán ở thế kỷ X, lúc này,
người ta thấy ở học thuyết này là một lý luận và một nghệ thuật của đạo trị
nước, cần thiết phải nắm lấy để xây dựng đất nước mình. Các triều đại phong
kiến Việt Nam tự mình thấy phải du nhập và phát triển Nho học. Các vua của
triều Lý Việt Nam ở thế kỷ XI đã xây dựng văn miếu để tế lễ Khổng Tử và các

tiên hiền nhà Nho, đã mở trường Quốc Tử Giám cho con hoàng tộc và con cái
các nhà quyền quý vào học tập Nho học, đã tổ chức ra các kỳ thi Nho học để
chọn ra các nhân tài kiểu nhà Nho.
Khi nói đến vấn đề du nhập Nho học vào Việt Nam, nhiều người chỉ thấy
hoạt động đó ở giai đoạn đầu, giai đoạn đầu Bắc thuộc. Thực ra sự du nhập đó
diễn ra nhiều lần và ở nhiều thời điểm lịch sử khác nhau. Ngoài sự diễn ra ở
đầu công nguyên, Nho học còn được tiếp tục truyền vào Việt Nam ở các giai
đoạn sau. Có thể nói, thời nào cũng có hiện tượng du nhập, giai đoạn nào của
Nho học Trung Quốc cũng muốn truyền sang Việt Nam. Thời Bắc thuộc là Hán
Nho, thời Đinh, Lê, Lý, Trần, là Đường Nho, thời Lê Sơ là Tống Nho, thời Lê
Mạt và Nguyễn là Thanh Nho. Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia liền
nhau, việc giao lưu không gì cản trở, hơn nữa, tư tưởng và học thuật thì không
có biên giới ngăn cách.
Sau khi chấm dứt hơn một ngàn năm Bắc thuộc bằng chiến công trên sông
Bạch Đằng năm 938, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của Việt Nam.
Thời điểm này là thời kỳ hưng thịnh của Phật Giáo. Các triều đại đầu tiên của
nền độc lập như Ngô, Đinh, Lê đều theo đạo Phật. Các nhà sư có vai trò to lớn
và quyết định trong việc gây dựng triều Lý – nhà nước quân chủ tập quyền đầu
tiên ở nước ta. Cũng từ đây, Nho giáo được quan tâm, chú ý. Bên cạnh sự đóng
góp của các nhà sư trong việc ổn định và xây dựng đất nước thì xu hướng Nho
giáo giữ vai trò ngày càng quan trọng và dần dần thay thế Phật giáo ngày càng


rõ. Năm 1070, Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử
như là mốc ghi nhận sự tiếp nhận chính thức Nho giáo trên bình diện cả nước.
Sang thời Lê Thánh Tông (1460-1497) Nho giáo được phát triển và cũng
từ đó về sau, Nho giáo thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày càng sâu đậm trên
nhiều lĩnh vực tư tưởng, thơ văn, phong tục, tập quán… qua hệ thống giáo dục,
pháp luật, chính quyền. Cho đến đầu thế kỷ 20 này, năm 1919 khoa cử Nho học
bị bãi bỏ, nhưng giáo dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và Trung còn kéo dài đến

đầu thập kỷ 40. Như vậy, trong thời Lê Nguyễn liên tục gần 600 năm Nho học Nho giáo không thể không thấm vào các tầng lớp xã hội. Nó được thường
xuyên tái lập và trở thành một trong những yếu tố văn hóa truyền thống Việt
Nam khá sâu đậm. Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15
đến thế kỷ 19, suốt hai triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự
tiếp thu Nho giáo Trung Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên
sơ của nó nữa mà có những biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới
xác lập vị trí Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp
biến văn hóa hết sức sáng tạo của người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử
dựng nước và giữ nước, góp phần tạo nên tính đa dạng, nhưng thống nhất và
độc đáo của văn hóa Việt Nam,
3.2. Ảnh hưởng Nho Giáo đến đời sống văn hóa tinh thần Người Việt.
3.2.1. Ảnh hưởng của Nho giáo đến Việt Nam.
Qua các thời đại lịch sử của dân tộc ta, không phải bất cứ ai cũng thấu đáo
được hết ý nghĩa của đạo Nho, phân tích thành hệ thống theo yêu sách của
trường ốc, bác học. Hơn thế nữa, cũng có những cách hiểu, cách áp dụng đạo
Nho lấy "dụng" làm "thể", nên có những hiện tượng phản kháng nếp sống cao
ngạo, giả tạo và khắt khe của lớp "quan lại hủ nho", những cách đối xử thiếu
tình nghĩa trong gia đình và ngoài xã hội, những lễ nghi rườm rà, bất nhân... Sứ
điệp nào, tôn giáo nào cũng gặp nguy cơ như thế khi tiếp cận với lịch sử xã hội.
Nhưng đằng sau những hiện tượng xã hội tiêu cực trên đây, hồn của đạo Nho
vẫn thấm nhập vào nếp sống sinh hoạt của mỗi một người con dân Việt; và đôi
khi chính cái hồn đó là sức mạnh tố giác những hình thức nhiêu khê, giả tạo
của nếp sống "nho nhã" giả hình. Từ triều đình đến cuộc sống làng mạc, từ
cách cư xử bạn bè, thân quyến đến nếp sống gia đình... Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Tín được đề xuất như những mẫu mực tạo một trật tự nhân sinh tình nghĩa. Từ
vua chúa đến thứ dân, từ người có học đến người dân quê không biết đọc biết
viết..., thì "lễ", là sự kính trọng kẻ khác, luôn được cảm nhận như giềng mối
của các tương quan xã hội.
Từ ý thức nghĩa làm người, dân Việt Nam đã anh dũng đẩy lui, tố giác...
những hành vi bạo ngược vi phạm đến tự do và sự sống an bình của đồng bào

họ. Và chưa có ai, sử gia nào Việt Nam, dám viết rằng những năm tháng bị
ngoại bang đô hộ, vua quan hà hiếp dân chúng... dầu có ổn định bên ngoài từng
trăm năm, là những năm tháng hòa bình cả.
Vì tự thâm sâu nơi tâm hồn người Việt Nam, hòa bình chân thật là nỗ lực
xây dựng con người và xã hội trong Ðạo lý, một nền hòa bình vốn không phải
do bất cứ ai, bất cứ phe nào suy nghĩ ra và áp đặt theo sở thích của mình.


Nhưng hòa bình chân thật trong khuôn khổ Trung và Hòa của Nho học có căn
nguồn vững bền nơi Tâm Duy Vi, xuất phát từ đáy lòng của mỗi người.
3.2.2. Ảnh hưởng Nho giáo trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt
Nam.
Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng văn hóa của Thế giới, con người vĩ đại của
dân tộc Việt Nam đã tiếp thu truyền thống văn hóa dân tộc thể hiện trong tư
tưởng và nhiều câu chuyện nho giáo của Người. Nhưng Người đã vượt qua
những hạn chế của Nho giáo ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc.
Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ
Chí Minh không thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo, không thể chấp
nhận lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp bức
mình. Chữ Trung ở Nho giáo là trung thành tuyệt đối với nhà vua và chế độ
phong kiến, còn ở Hồ Chí Minh, Trung là trung thành với sự nghiệp cách mạng
của nhân dân, lên án chế độ phong kiến và lật đổ nhà vua.
Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên
chăn dắt và sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là “đày tớ của
dân”, phải học hỏi nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với tinh thần ấy, cách mạng
đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức mạnh
vô địch để giành lấy độc lập và xây dựng tổ quốc.
Người đã sáng lập và giáo dục Đảng ta với phương châm: “lấy dân làm
gốc” làm tôn chỉ lãnh đạo nhân dân ta trong cuộc dựng nước va giữ nước.
Người cũng coi đạo đức là gốc chủ trương chọn lựa người tài để đảm đương

việc nước.
Qua 2 cuộc kháng chiến Người đã nhắc nhở rất nhiều câu chữ của Nho
giáo để giáo dục cán bộ nhân dân về phẩm chất tư cách đạo đức, về lòng nhân
đạo của con người Việt Nam. Người mượn câu nói của Mạnh Tử để nêu lên khí
phách của người cách mạng : “ giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không
thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”. Đây cũng chính là câu nói của
Mạnh Tử trong Thiên Đằng Văn Công – Ha : “ Phú quí bất năng dâm, bần tiện
bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.
Sau hai cuộc kháng chiến Nhân dân Việt Nam giành lại được độc lập và
thống nhất, đất nước ta bước vào hàn gắn vết thương chiến tranh xây dựng mọi
mặt của đất nước theo định hướng XHCN, trên con đường tiến tới một tương
lai tốt đẹp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Chúng ta lại
thường xuyên đụng đến nho giáo, nó vẫn bám sát chúng ta, tiếp tục đem đến
cho chúng ta nhiều bài học quý báu.
3.2.3. Tư tưởng triết học nho giáo - nét văn hóa đặc trưng trong việc
xây dựng đời sống gia đình mới Việt Nam ngày nay.
Nho giáo cho rằng, gia đình có vị trí quan trọng trong sự ổn định của xã
hội. Vì vậy, những hành vi ứng xử và giao tiếp của mỗi thành viên trong gia
đình được Nho giáo quy định chặt chẽ, phụ thuộc vào danh phận mỗi người.
Những quy định này, nếu loại bỏ những yếu tố bảo thủ, mất dân chủ thì cho đến
nay, vẫn còn có giá trị. Do đó, kế thừa những tư tưởng tích cực của Nho giáo về
gia đình trong việc xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay nhằm thực hiện


thành công xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là
việc làm cần thiết.
Con người luôn được Nho giáo xem xét trong tổng hòa các mối quan hệ
xã hội. Ở Nho giáo, chúng ta thấy, không tồn tại một con người cá nhân, một
cái tôi tách khỏi xã hội. Chính việc nhìn nhận con người trong các mối quan hệ
xã hội đã giúp Nho giáo đề ra được những giải pháp bình ổn xã hội.

Theo quan niệm Nho giáo, mọi người trong xã hội đều bị trói buộc bởi
năm mối quan hệ tự nhiên. Đó là quan hệ cha - con, vợ - chồng, anh - em, vua tôi, bạn - bè. Năm mối quan hệ này phản ánh hai mặt của cuộc sống hiện thực
là quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Trong xã hội phong kiến, mối quan hệ
gia đình được củng cố bằng chế độ tông pháp và chế độ gia trưởng, còn các
quan hệ xã hội thì được duy trì bởi chế độ chính trị đẳng cấp. Đi cùng với các
mối quan hệ đó là những yêu cầu giao tiếp bắt buộc mà mỗi thành viên trong
xã hội phải thực hiện.
Tương ứng với mỗi quan hệ, Nho giáo đặt ra những yêu cầu mang tính
quy phạm đạo đức và được pháp luật ngầm bảo trợ. Tất cả những mối quan hệ
trên và các phương thức ứng xử hội tương ứng với nó, theo Nho giáo, là cái trời
đã định sẵn cho con người. Đã là gia đình thì phải có vợ - chồng, cha - con, anh
- em. Trong gia đình thì vợ - chồng phải hòa thuận, phu xướng thì vợ phải tùy,
là cha - con thì cha phải hiền từ biết thương yêu và nuôi dạy con cái, biết làm
gương cho con cái học tập. Ngược lại, phận làm con phải biết ghi nhớ công ơn
sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, biết hiếu thuận với cha mẹ. Đã là anh em thì
phải biết đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, là anh chị thì phải biết
nhường nhịn, thương yêu, là em thì phải biết nghe lời và lễ phép với anh chị.
Trong quan hệ xã hội, Nho giáo đòi hỏi trước hết phải có lòng trung thành
trong quan hệ vua tôi và trên dưới. Người dưới phục vụ người trên phải lấy chữ
trung làm đầu. Kẻ trên đối xử với kẻ dưới phải lấy chữ nhân làm đầu, phải biết
giữ lễ và phải có lòng tín thật. Xét chung trong mọi mối quan hệ, Nho giáo yêu
cầu mỗi cá nhân phải lấy mình làm mốc mà yêu cầu đối với người. Cái gì mình
muốn thì cũng làm hết lòng cho người khác và ngược lại, cái gì mình ghét thì
cũng đừng đem lại cho người khác.
Bên cạnh đó, Nho giáo còn quan niệm rằng, mọi sự bất ổn trong xã hội
đều có nguyên nhân từ việc ứng xử không tốt các mối quan hệ xã hội. Để bảo
đảm sự ứng xử được đúng, Nho giáo yêu cầu mỗi người phải làm tốt vai trò của
mình. Vai trò đó được xác định bởi danh phận của mỗi người do xã hội quy
định. Đó là phận làm vua, phận làm tôi, phận làm cha, phận làm con.... Danh
phận của mỗi người quy định cách ứng xử của họ. Cách ứng xử theo danh phận

Nho giáo gọi là lễ. Theo Nho giáo, nếu trong xã hội mỗi người đều làm tất bổn
phận của mình thì xã hội sẽ thái bình. Nếu xã hội thái bình thì mọi người ai
cũng được an cư lạc nghiệp. Khi đó tất cả những người già cả, trẻ nhỏ và
những người cô quả sẽ được mọi thành viên trong xã hội quan tâm giúp đỡ.
Cảnh tranh giành và chém giết nhau vì cái lợi sẽ không còn. Để làm được điều
đó, Nho giáo đặc biệt nhấn mạnh tới vai trò của gia đình.
Nho giáo cho rằng, gia đình chính là một cái nước nhỏ. Vì thế, nếu "một
nhà nhân hậu thì cả nước nhân hậu. Một nhà lễ nhượng thì cả nước ăn ở đều có
lễ nhượng. Một người tham lam thì cả nước bị rối loạn" (Đại học, chương IX).


Do đó, một xã hội muốn thanh bình thì trước hết cần phải có những gia đình
hòa thuận. Gia đình hòa thuận là gia đình mà mọi thành viên luôn quan tâm đến
nhau, chăm lo cho nhau. Trong gia đình đó, vợ chồng sống hòa thuận thương
yêu nhau, cùng nhau chăm lo nuôi dưỡng dạy dỗ con cái nên người. Cha mẹ
phải luôn giữ gìn lời ăn tiếng nói cũng như tác phong làm việc của mình để làm
tấm gương cho con cái noi theo. Ngược lại, con cái phải luôn hiếu kính với ông
bà, cha mẹ, biết phụng dưỡng chăm sóc ông bà, cha mẹ, biết làm cho ông bà,
cha mẹ được rạng rỡ và không làm việc gì khiến cho ông bà, cha mẹ phải tủi hổ
với hàng xóm láng giềng. Một gia đình hoà thuận còn là một gia đình mà anh
em biết bảo ban nhau cùng tiến bộ, biết thương yêu đùm bọc lẫn nhau, biết em
ngã thì chị nâng.
Để làm được điều đó, Nho giáo đòi hỏi mỗi người trong gia đình phải biết
giữ gìn và tuân theo lễ, bởi cho rằng, chỉ có lễ con người mới trở thành con
người xã hội: "Chim anh vũ có thể biết nói nhưng vẫn thuộc loài chim, con tinh
tinh có thể biết nói nhưng vẫn thuộc loài cầm thú. Làm người mà không có lễ
thì tuy biết nói đấy nhưng có khác gì loài cầm thú? Chỉ có loài cầm thú là
không có lễ, cho nên cha con ở lẫn lộn với nhau.
Vì vậy việc làm của bậc thánh nhân là lấy lễ dạy người khiến người ta ai
cũng biết lễ để tự phân biệt mình với cầm thú" (Kinh Lễ, Khúc lễ thượng). Nhờ

có lễ, con người mới có thể biết được như thế nào là có hiếu với cha mẹ, là
kính với người trên, là từ đễ với anh em thân thích, là bạn hiền của bằng hữu, là
nhân với người chung quanh, là tín thực với thân thuộc.
Theo lễ, người con có hiếu và biết lễ phép thì "Khi ở trước mặt cha mẹ
ruột hoặc cha mẹ chồng, nếu có lệnh phải vâng dạ kính cẩn, tiến thoái phải chu
toàn thận trọng, lên xuống ra vào phải cung kính, không dám ho hoẹ, đằng
hắng hay ngáp dài, không được đứng dựa nghiêng ngả liếc ngang liếc dọc,
không dám phun nước bọt chùi nước mũi… Nếu như cha mẹ có lỗi lầm gì,
mình vẫn phải vui vẻ hoà nhã dùng lời nói ôn hoà mà can gián. Nếu can mà
(cha mẹ) không nghe lại càng phải giữ thái độ hoà nhã cung kính hơn, đợi cha
mẹ nguôi ngoai rồi lại can gián. Nếu cha mẹ không nghe để đến nổi phạm lỗi
lầm có tội với bạn bè hàng xóm, ta vẫn phải ôn hòa khuyên can. Nếu cha mẹ
nóng giận đánh ta đến chảy máu, ta vẫn không dám giận oán mà vẫn phải kính
trọng hiếu thuận với cha mẹ" (Kinh Lễ, Chương XII, tiết 2).
Ngược lại, ngay từ khi con cái đến tuổi biết ăn cơm, cha mẹ "cần thiết
phải dạy nó biết sử dụng tay phải, con trai phải biết thưa dạ, con gái phải biết
nhu hòa… Khi con lên sáu tuổi, hãy dạy chúng về số học và đếm số… Tám
tuổi, dạy chúng khi ra vào hay khi ngồi vào bàn ăn, nhất nhất phải theo sau bậc
trưởng thượng, bắt đầu dạy cho chúng biết nhường nhịn... Mười tuổi, cho ra
ngoài học thêm sách vở khác… bắt đầu hướng dẫn chúng về lễ, sớm tối tuân
theo nghi thức của trẻ nhỏ… Hai mươi tuổi là làm lễ đội mũ, bắt đầu học lễ…
dạy chúng thuần hậu về hiếu lễ" (Kinh Lễ, Chương XII, tiết 3). Nho giáo khẳng
định, nếu xây dựng được một gia đình hoà thuận, con cái biết hiếu đễ cha mẹ
biết từ nhượng thì đó cũng là làm chính trị rồi. Bởi nước cũng chỉ là một cái
nhà to. Các căn nhà nhỏ - gia đình mà hòa thuận thì căn nhà to cũng sẽ hòa
thuận. Vì thế, làm chính trị không cứ là phải ra làm quan.


Những tư tưởng trên của Nho giáo, ở một mặt nào đó có thể nói rằng, phù
hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội của chúng ta. Chúng ta cũng coi "Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi
nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng trong giáo dục nếp sống và
hình thành nhân cách". Vì thế, Đảng ta đòi hỏi "Các chính sách của nhà nước
phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về
nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người"(1). Với tính cách tế bào xã hội, vườn
ươm các nhân tài của đất nước, nơi nuôi dưỡng những công dân mới cho tương
lai, gia đình có vai trò quan trọng trong việc xây dựng thành công nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tốt xấu của mỗi gia đình đều
có ảnh hưởng tới sự ổn định của xã hội, tới sự chuyển đổi nền kinh tế từ kế
hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta đang
tiến hành. Tất nhiên, gia đình mới mà chúng ta xây dựng là một gia đình hòa
thuận dựa trên cơ sở dân chủ: vợ chồng, cha con anh em tôn trọng lẫn nhau,
cùng nhau bàn bạc và quyết định những vấn đề lớn của gia đình. Gia đình mới
mà chúng ta xây dựng cũng đòi hỏi vợ chồng phải có lòng chung thuỷ, làm cha,
mẹ phải có đức nhân từ, làm con phải có đức hiếu kính, làm anh em phải có sự
thương yêu nhường nhịn. Hạt nhân của mỗi gia đình ấy chính là vợ và chồng.
Có thể thấy rằng, gia đình mới hiện nay, trước hết, cần phải là một gia
đình vợ chồng sống chung thuỷ, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng với nhau về
quyền lợi và trách nhiệm. Vợ chồng cùng nhau chia sẻ trách nhiệm giáo dục
con cái, phụng dưỡng cha mẹ, ông bà.
Thứ hai, là một gia đình con cái biết hiếu kính với cha mẹ, ông bà bởi đức
hiếu kính của người làm con để thờ cha mẹ cũng là cái gốc của đức nhân. Nói
tới đức nhân là nói tới lòng yêu thương người. Cái gốc của yêu thương người
trước hết chính là yêu thương cha mẹ mình, anh em của mình. Người mà không
biết yêu thương cha mẹ có công sinh thành, dưỡng dục mình thì cũng không
thể có được lòng yêu thương đồng chí, đồng bào mình. Vì vậy, chúng ta ngày
nay cũng yêu cầu người làm con cần phải biết phụng dưỡng cha mẹ. Khi phụng
dưỡng cha mẹ phải kính cẩn và có lễ phép. Chúng ta cũng kiên quyết phê phán
những hành động ngược đãi cha mẹ già, không muốn làm nghĩa vụ phụng
dưỡng cha mẹ già mà đùn đẩy cho xã hội hoặc con cái đun đẩy trách nhiệm

chăm sóc cha mẹ cho nhau, hoặc có nuôi cha mẹ thì như nuôi vật cảnh mà thiếu
sự kính trọng lễ phép. Đức hiếu ngày nay cũng đòi hỏi người làm con trong
hành động và việc làm phải làm sao để cho cha mẹ có thể được tự hào với bà
con lối xóm. Việc lười lao động, ham cờ bạc rượu chè chỉ biết đến của cải, lo
liệu cho vợ con mà không nghĩ đến cha mẹ, không phải chỉ Nho giáo mà ngày
nay chúng ta cũng cần lên án là hành vi bất hiếu.
Thứ ba, anh em trong gia đình phải biết bảo ban nhau, yêu thương nhau
trên tinh thần em ngã chị nâng. Là người anh, người chị thì phải biết bao bọc
che chở cho em, nhường nhịn em. Là người em phải biết kính trọng anh chị,
nghe lời anh chị dạy bảo. Xã hội xưa cũng như nay không chấp nhận việc anh
em chỉ biết yêu thương nhau qua đồng tiền, nhìn tình cảm anh em dưới lăng
kính vật chất thuần tuý.
Như vậy, gia đình mới là một gia đình mà mỗi người đều có trách nhiệm
và nghĩa vụ đối với danh phận của mình. Do đó, việc xây dựng gia đình mới


cần dược gắn liền với việc giáo dục trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người
theo đúng danh phận của họ. Đó là cha phải ra cha, con phải ra con, anh phải ra
anh, em phải ra em. Cần kiên quyết lên án những người cha không còn ra cha
bởi lối sống ích kỷ, thực dụng đã để lại tấm gương xấu cho con cháu, cũng cần
lên án và có biện pháp nghiêm khắc đối với những người con không còn ra con,
chỉ biết tiền mà không biết tình, chỉ biết tới quyền lợi mà không biết tới nghĩa
vụ khiến cho cha mẹ phải tủi hổ.
Việc xây dựng thành công gia đình mới có một ý nghĩa quan trọng trong
sự nghiệp xây dụng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Bởi
gia đình mới chính là nền tảng của sự ổn định xã hội, tạo điều kiện cho sự phát
triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc, là nơi phòng chống có hiệu quả nhất mọi tệ
nạn xã hội đang làm phương hại đời sống tinh thần của con người. Gia đình
mới còn là nơi có khả năng nhất trong việc bảo lưu giữ gìn những bản sắc
truyền thống văn hoá của dân tộc. Ngoài ra, đây còn là nơi cung cấp những

công dân mới có đức, có tài cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Đặc biệt, trong điều kiện chúng ta tiến hành xây dựng một nền kinh tế thị
trường cùng với sự mở cửa hội nhập với thế giới thì gia đình mới càng đóng vai
trò quan trọng hơn bao giờ hết. Mô hình gia đình vợ chồng hoà thuận, cha từ
con hiếu, anh em thương yêu đùm bọc nhau chính là thành trì để ngăn cản sự
xâm hại những tư tưởng thực dụng, vị kỷ, lối sống gấp chỉ biết hôm nay mà
không cần biết ngày mai. Như vậy, có thể nói rằng, nếu loại bỏ những tư tưởng
bảo thủ, mất dân chủ thì việc kế thừa những giá trị luân lý tích cực của Nho
giáo về gia đình để xây dựng gia đình mới nhằm đáp ứng được sự phát triển đất
nước là điều nên làm. Gia đình mới chính là nơi kế thừa những tinh hoa của gia
đình cũ kết hợp với những chuẩn mực đạo đức mới của xã hội mới. Những tinh
hoa đó, trước hết, là tư tưởng vợ chồng hoà thuận, cha từ con hiếu, anh em
thương yêu đùm bọc nhau… của Nho giáo.
Thực tế những lý tưởng nhân đạo, khát vọng hoà bình của Nho giáo cũng
là lý tưởng và khát vọng của chúng ta hiện nay. Mặc dù bị hạn chế do lịch sử,
song một số tư tưởng cũng như biện pháp mà Nho giáo đề ra cho đến nay vẫn
còn nguyên giá trị. Cũng giống như Nho giáo, hiện nay chúng ta đã và đang ra
sức phấn đấu cho một thế giới hoà bình, cho sự bình đẳng của mọi dân tộc trên
toàn thế giới. Vì vậy, chúng ta cần ngăn chặn được các tệ nạn xã hội, mọi thảm
hoạ chiến tranh, chống lại được nạn khủng bố trên phạm vi toàn thế giới. Do
đó, kế thừa các tư tưởng nhân văn trong ứng xử và giao tiếp giữa người với
người của Nho giáo là một việc làm hết sức cần thiết.
3.3. KẾT LUẬN
Chúng ta không thể phủ nhận rằng Nho giáo đã tham gia góp phần vào sự
đúc nặn nên diện mạo tinh thần dân tộc và sự hình thành văn hóa dân tộc. Dù
có những điểm chưa tích cực nhưng trãi qua năm tháng sàn lọc những tư tưởng
triết học của Nho giáo đã thấm nhuần trong lòng con người Việt Nam. Nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín của ngày xưa cho đến nay vẫn là một nét đẹp đáng trân trọng ở
góc nhìn đúng đắn. Trí và Dũng ngày nay còn được các nhà quản trị tài ba vận
dụng vào các chiến lược kinh doanh. Còn những quan niệm về Nhân, Lễ,



Nghĩa thì càng được phát huy theo những mặt tích cực, xây dựng nên một xã
hội phát triển góp phần thúc đẩy cho kinh tế phát triển.
Không biết sự ảnh hưởng sâu rộng của Nho giáo đến nền văn hóa dân tộc
như thế nào nhưng cho đến nay trong xã hội Việt Nam tính cộng đồng luôn
được đề cao, còn trong gia đình mà thể hiện rõ nhất là những người phụ nữ,
hình tượng người phụ nữ mẫu mực vẫn là những người đằm thắm, nhu mì, chịu
thương, chịu khó, thủy chung và son sắt. Nét đẹp đó trở thành bản chất đặc
trưng của người phụ nữ Việt Nam nói riêng hay người Á Đông nói chung mà
chúng ta vẫn thường nghe câu “mang đậm bản chất Á Đông” là vậy.
Nói tóm lại, sự du nhập của Nho giáo với những tư tưởng triết học tích
cực, qua thời gian vẫn còn đó những giá trị bất biến góp phần tạo nên nét đẹp
cho văn hóa dân tộc Việt.



×