Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.59 KB, 20 trang )

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO VÀ ẢNH
HƯỞNG TỚI VIỆT NAM
MỤC LỤC :
1. Lý do chọn đề tài ……………………………
2. Mục đích nghiên cứu ………………………
3. Đối tượng và khách thể …………………………
4. Phạm vi nghiên cứu ………………………………
5. Phương pháp nghiên cứu …………………………
6. Đóng góp đề tài ……………………………………
.Nội dung :
7. Bố cục :
1. Khái quát về Phật Giáo
1.1 Nguồn gốc ra đời
1.2 Nội dung chủ yéu của tư tưởng Triết học Phật giáo
1.3 Sự truyền bá đạo trên thế giới
1.4 Tình hình phát triển của Phật giáo ở Việt Nam
II. Một số ảnh hưởng của Phật giáo đến xã hội và con người Việt Nam
2.1 Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam ngày nay
2.2 Ảnh hưởng của Phật giáo đến thế hệ trẻ
8. Tài liệu tham khảo …………………………………….
9. Phụ lục ………………………………………………
M Ở Đ ẦU
1, Lý do chọn đề tài


Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nh ất trên
thế giới, tồn tại rất lâu đời. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và số l ượng
phật tử đông đảo được phân bố rộng khắp. Đạo phật được truyền bá vào
nước ta khoảng thế kỷ II sau Công nguyên và đã nhanh chóng tr ở thành
một tơn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con ng ười
Việt Nam, bên cạnh đó đạo Nho, đạoLão, đạo Thiên chúa. Tùy từng giai


đoạn lịch sử dân tộc ta đều có một học thuyếttư tưởng hoặc một tơn giáo
nắm vai trị chủ đạo, có tác động mạnh nhất đến nếp sống, thói quen, suy
nghĩ của con người, như Phật giáo ở thếkỷ th ứ X - XIV, Nho giáo thế kỷ th ứ
XV - XIX, học thuyết Mác - Lênin từ giữa thập kỷ 40 của th ế k ỷ XXcho đ ến
nay. Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên Ch ủ Nghĩa Xã H ội
(CNXH), chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý lu ận c ủa
chúng ta nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc th ượng tầng của xãh ội cũ
vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà Ph ật đã ít nhiều in sâu vào
tư tưởng tình cảm của một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xóa bỏ
hồn tồn ảnh hưởng của nó là khơng thể thực hiện được nên chúngta cần
vận dụng nó một cách hợp lý để góp phần đạt được mục đích của th ời kỳ
quáđộ cũng như sau này. Vivậy, việc nghiên cứu lịchsử, giáo lý, và sự tác
động của đạo Phật nói chung và tư tưởng triết học của Phật giáo nói riêng
đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức c ần thi ết.
Theo đạo để làm điều thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách con ng ười
tốt hơn chứ khơng trở nên mê tín dị đoan, cúng bái, lên đồng, gây ảnh
hưởng xấu đến sức khoẻ, niềm tin của quần chúng nhân dân. Chính vì v ậy,
chúng ta cùng tìm hiểu Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng
tới việt nam .
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng tới việt nam .
3. Đối tượng và khách thể
Đối tượng : Tư tưởng triết học ,sự ảnh hưởng tới việt nam.
Khách thể: Phật giáo
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của Phật giáo


5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích

- Phương pháp điều tra – đánh giá .
- Phương pháp liệt kế .
6. Đóng góp đề tài
Làm tài liệu tham khảo cho sinh viên .
N ỘI DUNG
7.Bố cục tiểu luận .
1. Khái quát về Phật Giáo
1.1 Nguồn gốc ra đời
Phật giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền
bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 TCN. Được truyền bá trong khoảng thời gian 49
năm khi Phật còn tại thế ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nên lịch sử
phát triển của đạo Phật khá đa dạng về các bộ phái cũng nh ư các nghi
thức hay phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, Bổn S ư Thích Ca, ng ười
sáng lập đạo Phật, đã tổ chức được một giáo hội với các giới luật ch ặt chẽ.
Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi v ới
nhiều hồn cảnh xã hội, nhiều dạng người, nhiều tập tục ở các th ời kỳ
khác nhau, và do đó ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn t ại và ngày càng
phát triển rộng rãi trên tồn thế giới ngay cả trong các n ước có n ền khoa
học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.


Về địa lý, phía Bắc của Ấn Độ là dãy Himalaya cao lớn và dài tạo nên một
hàng rào cô lập các vùng bình nguyên của xứ này v ới các vùng còn l ại. Đ ể
liên lạc với bên ngồi thì chỉ có con đường núi xun qua Afghanistan. Nền
văn hóa chính ngự trị thời bấy giờ là văn hóa Vệ Đà.Các bộ lạc du
mục người Aryan đã mở mang và xâm chiếm các vùng lãnh thổ Tây Bắc Ấn
và lan rộng ra hầu hết bán đảo Ấn Độ khoảng 1000 năm trước Cơng
Ngun.
Văn hố Vệ Đà nghiêng về thờ phụng nhiều thần thánh cũng nh ư có các
quan điểm thần bí về vũ trụ. Những sự phát triển về sau đã biến Vệ Đà

thành một tôn giáo và phân hố xã hội thành bốn giai cấp chính trong
đó đẳng cấp Bà La Môn (tầng lớp tăng lữ) là giai cấp thống trị.
Tư tưởng luân hồi cho rằng sinh vật có các vịng sinh tử thốt thai từ đạo
Bà La Môn (hay sớm hơn từ tư tưởng Vệ Đà). Đạo Bà La Mơn cịn cho r ằng
tồn tại một bản chất của vạn vật, đó là Brahman (hay Phạm Thiên). Việc
giai cấp tăng lữ được đề cao và được hưởng mọi ưu đãi bổng lộc trong xã
hội đã tạo điều kiện cho việc phân hoá thành phần này ra r ất nhiều
hướng triết lý hay hành đạo khác nhau và đôi khi chống chọi ph ản bác
nhau. Trong thời gian trước khi Thích Ca thành đạo, đã có r ất nhi ều tr ường
phái tu luyện. Các xu hướng triết lý cũng phân hoá mạnh nh ư là các xu
hướng khối lạc, ngẫu nhiên, duy vật, hồi nghi mọi thứ, huyền bí ma
thuật, tu khổ hạnh, tu đức hạnh, tụng kinh...


Tất cả các tơn giáo thời kỳ đó đều khơng giải quy ết được các v ấn đề kh ổ
đau và phiền não của con người. Thái tử Tất-đạt-đa Cồ-đàm là vị bồ
tát trong kiếp chót của vịng ln hồi đã tìm con đường để diệt trừ các khổ
não như già, bệnh, chết... Thái tử xuất gia và học ở các v ị th ầy tài giỏi v ẫn
khơng tìm thấy con đường thốt khổ. Sau đó bồ tát đã tu tập kh ổ h ạnh
trong suốt 6 năm nhưng vẫn không thành tựu. Cuối cùng ngài t ừ bỏ con
đường khổ hạnh, theo con đường trung đạo. Và với ba-la-mật chín
muồi, bồ tát chứng đắc quả vị Phật sau 49 ngày ngồi thiền dưới gốc cây
bồ đề nay là Bồ-đề đạo tràng (BodhiGaya). ở Ấn Độ. Và sau khi Phạm
ThiênSahampati thỉnh cầu Đức Phật 3 lần, Đức Phật đồng ý và nhận làm
đệ tử. Đức Phật đã thuyết giảng về Tứ Thánh Đế là Thánh đế về Khổ,
Thánh đế về nguyên nhân của Khổ (Tập), Thánh đế về Diệt Khổ và Thánh
đế về con đường Diệt khổ trong suốt thời gian 45 năm chuy ển pháp luân
giảng đạo của mình.
1.2 Nội dung chủ yéu của tư tưởng Triết học Phật giáo
Tư tưởng triết học Phật giáo thể hiện trên hai phương diện: Bản th ể luận

và nhân sinh quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện ch ứng ch ất
phác.
Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ (ch ử pháp) là vô
thuỷ, vô chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở q trình biến đổi
liên tục (vơ thường) khơng có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật c ả. T ất
cả các Pháp đều thuộc về một giới (vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là
Pháp giới. Mỗi một pháp (mỗi một sự việc hiện tượng, hay m ột l ớp sự
việc hiện tượng) đều ảnh hưởng đến toàn Pháp. Như vậy các sự vật, hiện


tượng hay các q trình của thế giới là ln luôn tồn tại trong m ối liên h ệ,
tác động qua lại và qui định lẫn nhau.
Tác phẩm “ thanh dung thực luận” của kinh Phật viết rằng: “Có ng ười c ố
chấp là có Đại tự nhiên là bản thể chân th ực bao khắp cả, lúc nào cũng
thường định ra chu pháp” đạo Phật cho rằng toàn bộ chư pháp đều chi
phối bởi luật nhân quả, biến hoá vơ thường, khơng có cái bản ngã c ố đ ịnh,
khơng có cái thực thể, khơng có hình thức nào tồn tại vĩnh viễn cả. T ất c ả
đều theo luật nhân quả biến đổi khơng ngừng và chỉ có sự biến hố ấy là
thường cịn (vĩnh viễn). Cái nhân nhờ có cái duyên mới sinh ra đ ược mà
thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành nhân khác, nhân khác l ại thành
quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành nhân khác, nhân khác lại nh ờ có
duyên mà thành quả mới... Cứ thế nối nhau vô cùng vơ tận mà th ế giới,
vạn vật, mn lồi, cứ sinh sinh, hoá hoá mãi.
Như vậy, ngay từ đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quy ết v ấn đ ề c ơ
bản của Triết học một cách biện chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai
trò sáng tạo thế giới của các “đấng tối cao” của “Th ượng đế” và cho r ằng
bản thể của thế giới tồn tại khách quan và không do vị th ần nào sáng t ạo
ra cả. Cái bản thể ấy chính là sự th ường hằng trong vận động c ủa vũ tr ụ,
là mn ngàn hình thức của vạn vật trong vận động, nó có mặt trong vạn
vật nhưng nó khơng dừng lại ở bất kỳ hình th ức nào. Nó mn hình v ạn

trạng nhưng lại tn hành nghiêm ngặt theo luật nhân quả.
Do qui luật nhân quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không ng ừng,
thành, trụ, hoại, diệt (sinh thành, biến đổi, tồn tại, tan rã và di ệt vong).
Q trình đó phổ biến khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phương thức thay
đổi chất lượng của sự vật và hiện tượng.
Phật giáo trong q trình giải thích sự biến hố vô thường của vạn vật, đã
xây dựng nền thuyết “nhân duyên”.
Trong thuyết “nhân duyên” có ba khái niệm chủ yếu là Nhân, Quả và
Duyên. Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó,
được gọi là Nhân. Cái gì tập lại từ Nhân được gọi là Quả. Duyên: là điều
kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không phải là m ột cái gì đó
cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để giúp cho sự biến
chuyển của vạn Pháp.


Ví dụ hạt lúa là cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân c ủa cây lúa
sắp thành. Lúa muốn thành cây lúa có bơng lại phải nh ờ có điều kiện và
những mối liên hệ thích hợp như đất, nước, khơng khí, ánh sáng. Nh ững
yếu tố đó chính là Dun.
Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về ngun nhân biến hố vơ
thường của nó, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại t ới tương lai. Ph ật
giáo đã trình bày thuyết “ Thập Nhị Nhân Duyên” ( mười hai quan hệ nhân
duyên) được coi là cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, m ột
cách tất yếu của sự liên kết nghiệp quả.
Vô minh: là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên sáng t ỏ.
Hành: là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả, tạo ra
cái nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có th ức ấy là hành làm qu ả cho vô
minh và là nhân cho Thức.
Thức: là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Th ức làm quả cho
hành và làm nhân cho Danh sắc.

Danh sắc: là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên c ủa ta.
Do danh sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho th ức và làm nhân cho
Lục xứ.
Lục xứ hay lục nhập: là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lưỡi, tai, thân và tri
thức. Đã có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc v ới vạn v ật. Do L ục
nhập mà có xúc - tiếp xúc. ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm nhân
cho Xúc.
Xúc: là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên cm ở r ộng
xúc, cảm giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục x ứ và làm nhân
cho Thụ.
Thụ: là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào mình. Do
thụ mà có ái. ấy là thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho Ái.
Ái: là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ. Do ấy, ái làm quả
cho Thụ và làm nhân cho Thủ.
Thủ: là lấy, chiếm đoạt cho minh. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà Th ủ làm
quả cho ái và làm nhân cho Hữu.


Hữu: là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái nghi ệp. Do
Hữu mà có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh.
Sinh (Hiện hữu): là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm ng ười, làm
súc sinh. Do sinh mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho H ữu và làm nhân cho T ử.
Lão tử: là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là ph ải ch ết.
Nhưng chết - sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác
tan đi là hết nhưng linh hồn vẫn ở trong vịng vơ minh. Cho nên l ại mang
cái nghiệp rơi vào vòng luân hồi (khổ não
Thập nhị nhân duyên như nước chảy kế tiếp nhau không bao giờ
cạn, không bao giờ ngừng, nên đạo Phật là Duyên Hà. Các nhân duyên t ự
tập nhau lại mà sinh mãi gọi là Duyên hà mãn. Đoạn này do các duyên mà
làm quả cho đoạn trước, rồi lại do các duyên mà làm nhân cho đoạn sau.

Bởi 12 nhân Duyên mà vạn vật cứ sinh hố vơ th ường.
Mối quan hệ Nhân - Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không
gian và thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên tồn bộ thế
giới khơng tính đến cái lớn nhỏ, khơng tính đến sự gi ản đ ơn hay ph ức t ạp.
Một hạt cát nhỏ được tạo thành trong mối quan hệ nhân quả của toàn vũ
trụ. Cả vũ trụ hồ hơp tạo nên nó. Cũng như nó hồ h ợp tạo nên cả vũ tr ụ
bao la. Trong một có tất cả, trong tất cả có một. Do nhân Duyên mà vạn
vật sinh hay diệt. Duyên hợp thì sinh, Duyên tan thì diệt,
Vạn vât sinh hố vơ cùng là do ở các dun tan h ợp, h ợp tan n ối nhau mà
ra. Nên vạn vật chỉ tồn tại ở dạng tương đối, trong dòng bi ến hố vơ t ận
vơ thường, vơ thực thể, vơ bản ngã, chỉ là hư ảo. Chỉ có sự biến đổi vô
thường của vạn vật, vạn sự theo nhân dun là thường cịn khơng thay
đổi.
Do vậy tồn bộ thế giới đa dạng, phong phú, nhiều hình, nhi ều vẻ cũng ch ỉ
là dịng biến hố hư ảo vơ cùng, khơng có gì là thường định, là th ực, là
khơng thực có sinh, có diệt, có người, có mình, có cảnh, có vật, có khơng
gian, có thời gian. Đó chính là cái chân lý cho ta th ấy đ ược cái chân th ế
tuyệt đối của vũ trụ. Thấy được điều đó gọi là “ chân nh ư” là đ ạt tới cõi
hạnh phúc, cực lạc, cõi niết bàn.
Thế giới của chúng sinh (loài người) cũng do nhân duyên kết h ợp mà
thành. Đó là sự kết hợp của hai thành phần: Phần sinh lý và phần tâm


lý.Cái tơi sinh lý tức là thể xác, hình chất với y ếu tố “ s ắc” ( đ ịa, thu ỷ, hoá,
phong ) tức là cái cảm giác được.Cái tôi tâm lý (tinh th ần) linh h ồn t ức là
“tâm” với 4 yếu tố chỉ có tên gọi mà khơng có hình ch ất gọi là “
Danh”.Trong “Sắc’ gồm những cái nhìn thấy được cũng nh ư nh ững th ứ
khơng nhìn thấy được nếu nó nằm trong q trình biến đổi của “sắc” gọi
là “vơ biến sắc” như vật chất chuyển hoá thành năng lượng chẳng h ạn.
Bốn yếu tố do nhân duyên tạo thành phần tâm lý (tinh th ần) của con

người là:
Thụ: Những cảm giác, cảm thụ về khổ hay sướng, đưa đến sự xúc ch ạm
lĩnh hội thân hay tâm.
Tưởng: Suy nghĩ, tư tưởng.
Hành: ý muốn thúc đẩy hành động.
Thức: Nhận thức, phân biệt đối tượng tâm lý ta là ta.
Hai thành phần tạo nên từ ngũ uẩn do Nhân - Duyên tạo thành mỗi sinh
vật cụ thể có danh và có sắc. Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta. Duyên tan ngũ
uẩn thì là diệt. Quá trình hợp tan ngũ uẩn do Nhân - Duyên là vô cùng t ận.
Các yếu tố của ngũ uẩn cũng ln ln biến hố theo qui luật nhân hố
khơng ngừng khơng nghỉ, nên mọi sinh vật cũng chỉ là vụt mất, v ụt cịn.
Khơng có sự vật riêng biệt, cố định, khơng có cái tơi, cái tơi hơm qua khơng
cịn là cái tơi hơm nay. Kinh Phật có đoạn viết “ Sắc chẳng khác khơng,
khơng chẳng khác sắc, sắc là không, không là sắc. Thụ, T ưởng, Hành, Th ức
cũng đều như thế”.
Như vậy, thế giới là biến ảo vơ thường, vơ định. Chỉ có những cái đó mới là
chân thực, vĩnh viễn, thường hằng. Nếu khơng nhận thức được nó thì con
người sẽ lầm tưởng ta tồn tại mãi mãi, cái gì cũng thường định, cái gì cũng
của ta. Do đó, mà con người cứ khát ái, tham dục cứ mong muốn và hành
động chiếm đoạt tạo ra kết quả mà kết quả đó có thể tốt, có thể xấu gây
nên nghiệp báo, rơi vào bể khổ triền miên khơng bao giờ dứt.
Sở dĩ có nỗi khổ là do qui định của Luật nhân quả. Vì thế mà ta không thấy
được cái luật nhân bản của mình (bản thể chân thực). Khi đã mắc vào s ự
chi phối của Luật Nhân - Duyên, thì phải chịu nghiệp báo và kiếp luân h ồi,
luân chuyển tuần hoàn không ngừng, không dứt.Nghiệp và luân h ồi không


những chỉ là những khái niệm của Triết học Phật giáo mà có từ trong
Upanishad.
Nghiệp chữ phạn và Karma là cái do những hoạt động của ta, do h ậu quả

việc làm của ta, do hành động của thân thể ta. Được gọi là “thân nghiệp”,
còn hậu quả của những lời nói của ta, phát ngơn của ta thì đ ược g ọi làg
“khẩu nghiệp”. Hay những cái do ý nghĩ của ta, do tâm tuệ của ta gây nên
được gọi là ‘ý nghiệp”. Tất cả những thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp là
do ta tham dục mà thành, do ta muốn thoả mãn tham vọng c ủa mình gây
nên. Sở dĩ ta tham dục vì ta chưa hiểu đươc chân bản vốn có của ta cũng
như vạn vật là ln ln biến đổi khơng có gì là th ường đ ịnh và vĩnh vi ễn
cả.
Cuộc đời con người là sự ghánh chịu hậu quả của nghiệp đương th ời và
các kiếp sống trước rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau.
Nghiệp báo trong một đời là sự tổng hợp của các nghiệp gây ra trong hiện
tại cộng với các nghiệp gây ra trong quá khứ, nó quyết định đời sau x ấu
hay tốt, thiện hay ác.
Luân hồi: Chữ phạn là Samsara. Có nghĩa là bánh xe quay trịn. Đ ạo ph ật
cho rằng, sau khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh h ồn sẽ tách ra
khỏi thể xác và đầu thai vào một sinh vật khác nhập vào một thể xác khác
(có thể là con người, lồi vật thậm chí cỏ cây). Cứ th ế mãi do kết quả, qu ả
báo hành động của những kiếp trước gây ra. Đó cũng là cách lý giải căn
nguyên nỗi khổ ở đời con người.

1.3 Sự truyền bá đạo trên thế giới
Phật giáo từ Ấn Độ, truyền sang phương Bắc, dùng kinh điển ch ữ
Phạn, còn gọi là Bắc Tông hay Đại Thừa, tr ước tiên truy ền vào Tây T ạng
vào khoảng giữa thế ký III, rồi từ đó truyền sang Trung Hoa, Nh ật Bản,
Triều Tiên và Việt Nam. Riêng ở Việt Nam, thuở ban sơ có nhiều vị sư Ấn
Độ theo lái bn, họ đi đường biển sang truyền đạo tr ực tiếp ở Việt Nam
trước công nguyên.


Dưới triều đại vua A Dục, nhà vua phái Trưởng Lão Mahida (con vua A D ục

đã xuất gia), đem Phật Giáo truyền sang Tích Lan, sau lại có con gái vua A
Dục mang một cây Bồ Đề giống, nơi đức Phật thành đạo đến trồng ở Tích
Lan, Phật giáo theo đây gọi là Nam phương hay Nguyên Thủy, kinh đi ển
dùng chữ Ba Ly, từ đây Phật Giáo truyền sang Miến Điện, Thái Lan, Lào,
Campuchia và Việt Nam.
Ngày nay Phật Giáo lan truyền khắp thế giới, người ta ưa chuộng đạo Ph ật
vì Giáo lý hợp với tinh thần tự do, khoa h ọc và nh ất là ph ương pháp Thi ền,
một phương pháp đã lôi cuốn người Tây Phương để tu tập.
1.4 Tình hình phát triển của Phật giáo ở Việt Nam
Nước ta vừa trải qua mấy chục năm chiến tranh và hàng ch ục năm sống
dưới chế độ quan liêu bao cấp, đời sống còn nghèo nàn, lạc hậu r ất đến s ự
phát triển. Phát triển có nghĩa là sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế,
đời sống vật chất và văn hoá. Đảng và Nhà nước đã chỉ ra nhiệm v ụ tr ước
mắt làm dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Để đ ạt mục
tiêu này nước ta cần có những người năng động, lạc quan, tin t ưởng, dũng
cảm mở rộng sáng tạo. Vì vậy việc cần làm hiện nay là ph ải xác đ ịnh rõ
Phật giáo có ảnh hưởng đến hệ tư tưởng của người Việt Nam nh ư th ế nào
để từ đó đưa ra những chính sách phát triển phù hợp với lịng dân, làm cho
xã hội ngày càng phát triển tiến bộ và tốt đẹp hơn.
 Thời kỳ du nhập và hình thành Phật giáo Việt Nam
Không bao lâu khi Phật giáo được truyền vào đất Việt, nhờ sự nổ lực hoạt
động truyền giáo của các tăng sĩ Ấn Độ, tại Luy Lâu, thủ phủ của Giao Ch ỉ
lúc bấy giờ đã trở thành một trung tâm Phật Giáo lớn nhất trong vùng. T ại
đây, với những sinh hoạt hoằng pháp của ngài Khâu Đà La (ng ười Ấn Đ ộ


đến Luy Lâu khoảng năm 168-169) đã xuất hiện một mơ hình Ph ật giáo
Việt Nam hóa đầu tiên qua hình tượng Thạch Quang Ph ật và Man N ương
Phật Mẫu (hình tượng Phật Nữ). Một chứng liệu lịch sử quan trọng khẳng
định Phật Giáo Việt Nam đã bắt rễ sớm ở Giao Châu là s ự việc ngài Mâu

Bác (sinh cuối thế kỷ II, người Trung Quốc trước theo Lão giáo, về sau c ư
ngụ tại Giao Chỉ, theo học đạo Phật ở đây và trở thành một Phật t ử r ất
thuần thành) theo mẹ từ Trung Quốc sang Giao Châu khi ngài còn r ất trẻ,
rồi lớn lên, tại đây ngài đã viết bài “Lý hoặc Luận” và d ịch m ột s ố kinh
sách, chứng tỏ ngài đã học Phật giáo tại Giao Châu và nh ư th ế Ph ật giáo
Giao Châu đã phát triển khá mạnh, ít nhất là vào n ữa đầu th ế k ỷ III.
Sang thế kỷ III, có ba nhà truyền giáo nước ngoài đến hoằng Pháp tại Giao
Châu là các Khương Tăng Hội (gốc người Sogdiane, Khương Cư); Chi
Cương Lương Tiếp (người Nhục Chi) và Ma Ha Kỳ Vực (ng ười Ấn Đ ộ).
Đến thế kỷ thứ V, có hai thiền sư xuất hiện, là Đạt Ma Đề Bà
(Oharmadeva,) và Huệ Thắng (người Việt). Thiền sư Đạt Ma Đề Bà là
người Ấn Độ đến Giao Châu vào giữa thế kỷ th ứ V để giảng dạy về
phương pháp thiền học. Thiền sư Huệ Thắng là người địa ph ương là m ột
trong những học trị của ơng.
Cũng do được truyền bá trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam ngay từ đầu k ỷ
nguyên Tây lịch, nên danh xưng Buddha (Bậc giác ngộ) tiếng Phạn đã đ ược
phiên âm trực tiếp sang tiếng Việt là Bụt (tiếng Hoa dịch là Phật). Điều
này trùng hợp với danh từ Bụt được xuất hiện trong nhiều truy ện c ổ tích
Việt Nam. Theo từ điển Phật học Việt Nam, (Minh Châu và Minh Chi, Hà
Nội 1991) có ghi: “Tiếng Bụt phổ biến hơn trong văn h ọc dân gian và là
dấu hiệu chứng tỏ đạo Phật truyền vào nước ta sớm lắm”. Ph ật giáo ở
Giao Châu lúc ấy mang màu sắc Nam phương, nhưng trong con m ắt của
nền văn minh nơng nghiệp, người Việt Nam lại hình dung đ ức Ph ật nh ư là
một vị thần tồn năng có mặt ở khắp nơi, sẵn sàng xuất hiện để cứu độ
mọi người. [4, trang ]
 Thời kỳ phát triển
Bước sang thời kỳ này, Phật tử Việt Nam lại tiếp nhận thêm nh ững đồn
truyền giáo của Trung Quốc. Khơng bao lâu sau đó, Ph ật giáo B ắc ph ương
(Trung Quốc) đã chiếm ưu thế và đã thay đổi chổ đứng của Ph ật giáo Nam
truyền vốn có từ trước. Từ Buddha được dịch thành ch ữ Phật, và t ừ đây



Phật dần dần thay thế cho chữ Bụt và chữ Bụt chỉ còn gi ới hạn trong ca
dao, tục ngữ, truyện cổ tích mà thơi.
Vào cuối thế kỷ VI (khoảng năm 580), thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi vào Việt
Nam mang theo đạo Thiền của tổ sư Bồ Đề Đạt Ma, và như vậy Thiền tơng
chính thức xuất hiện tại xứ này. Đặc biệt, các thiền s ư dòng Tì Ni Đa L ưu
Chi thường có hình thức tu tập “Tổng Trì Tam Muội” (Dharani samadhi),
một hình thức tu tập phổ biến của Mật tông (Tantra), dùng chân âm kết
hợp với ấn quyết trong trạng thái đại định để giữ được thân, khẩu, ý. Ở
Hoa Lư (tỉnh Ninh Bình, Việt Nam), một cột kinh Phật bằng đá vào thế kỉ
thứ 10 có khắc bài thần chú Phật Đỉnh Tối Thắng Đà La Ni (Usnisavijaya
dharani), một thần chú phổ biến của Mật tông, đã được phát hiện. Nh ư
vậy, rất có thể Mật tơng, một nhánh quan trọng của đạo Phật, đã xuất
hiện ở đây nếu không cùng thời điểm thì cũng sau Thiền tơng khơng q
lâu. Vào năm 820, thiền sư Vô Ngôn Thông vốn là đồ đệ sư Bách Tr ượng
Hoài Hải mang theo tư tưởng “đốn ngộ” của Nam tông (do Huệ Năng sáng
lập) vào nơi này. Ông cùng với thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi và thi ền s ư Th ảo
Đường sau này được Thiền Uyển Tập Anh, một cổ thư xưa nhất của Thiền
tông Việt Nam, xem là tổ sư của ba Thiền phái lớn tại xứ này.
Trong thời gian này, từ Trung Hoa có ba tơng phái được truy ền vào Việt
Nam, đó là Thiền tơng, Tịnh Độ tơng và Mật tơng.
2. Một số ảnh hưởng của Phật giáo đến xã hội và con người Việt Nam
2.1 Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam ngày nay
Phật giáo là một tơn giáo gần gũi và dễ hồ hợp với tín ngưỡng dân gian
người Việt. Ở miền bắc đặc điểm đó càng nổi bật. Nếu đặc điểm tôn giáo
Việt Nam là sự thờ cúng tổ tiên (linh hồn người thân đã khuất) thì Ph ật
hay quan âm cũng được coi là một thứ tổ tiên (trong tâm th ức dân gian
Việt cổ, Phật hay quan âm không phải là người “ngoại quốc, người khác
tộc). Nếu đặc điểm của tôn giáo Việt Nam là sự th ờ thần (thế l ực siêu

nhiên) mà con người cũng cần để nhờ sự “phù hộ độ trì” thì Phật hay quan
âm cũng trở thành một vị thần, phật điện cũng trở thành thần điện, tính
tâm linh Ấn Độ nhường bước cho tính tình Việt Nam. Hơn đâu hết, tơn giáo
Việt Nam nặng về tính tình cảm hơn là giáo lý.


Chính vì gần gũi và dễ hịa hợp nên tín ngưỡng đạo ph ật và tín
ngưỡng thờ thần của người Việt có nhiều nét giống nhau song khơng phải
là một.
Bụt giống Phật ở lòng từ bi, bác ái, vị tha đối với nh ững người bị
áp bức bóc lột. Nhưng Bụt khác Phật ở chỗ bất kỳ người nghèo nào gặp tai
nạn, gặp áp bức bất công mà cần tới bụt, bụt lập t ức xuất hiện ngay đ ể
cứu vớt. Cịn Phật gần gũi, cơng bằng với tất cả chúng sinh vì phật khơng
hề chia cấp bậc. Có lẽ ngày xưa chưa có một người dân bình th ường nào
nghĩ đến khái niệm bình đẳng. Với phật, khơng ai ti ểu nhân,cũng ch ẳng có
ai qn tử. Cũng khơng có qn, khơng có dân, chia c ắt nhau bằng các hàng
rào cấp bậc giai cấp. Với phật, còn cả một niềm từ bi bác ái, khơng có h ằn
học, oán ghét, thù hận. Đó cũng là điều phù h ợp v ới n ếp nghĩ c ủa ng ười
Việt.
Phật kêu gọi sự tự giác không những để giải quyết nỗi khổ của
mình mà cịn phải cứu nhân độ thế .
Chăc chắn trong tư duy của người dân bình th ường, ch ưa ai băn
khoăn tìm hiểu thế nào là bản ngã, người ta chỉ th ấy ở đây một ch ủ nghĩa
nhân đạo lớn lao. Phải chăng, đây là những điểm chính y ếu làm cho ph ật
giáo gắn bó được với quần chúng.
Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, s ự bù đắp. Nỗi
khổ hôm nay phải được đền bù bằng sự sung sướng ngày mai.
Cơ Tấm trong cổ tích trải qua bao gian nan cuối cùng v ẫn đ ược
hưởng hạnh phúc. Phật giáo cũng hứa hẹn với con người sự đền bù không
do quyền phép nào, chỗ dựa nào của nho giáo, cũng không do cán cân phúc

tội của đạo gia, mà do chính nỗ lực của bản thân mình. Tâm lý ng ười Vi ệt
Nam ta phần nhiều cũng quan niệm nhận thức như vậy, mà chăc chắn
khơng phải vì do họ quán triệt thuyết bát chánh đạo của nhà thiền.
Tuy nhiên, không phải phật giáo đi được vào quần chúng, và có
một sự gắn bó sâu sa nhất định mà không một sự thẩm định, lựa chọn nào.
Dân gian xưa khơng có điều kiện hay trình độ để làm việc ấy, song khi h ọ
chấp nhận, chối bỏ hoặc biến hóa những giáo lý để thích nghi v ới trình đ ộ
tư duy, với các sinh hoạt của họ tức là họ đã “lộ” cái ý đ ồng hay khơng
đồng. Có thể nói rằng, văn hố Việt Nam hố ph ật h ơn là ph ật hoá. Ph ật


giáo đến Việt Nam dù là phật giáo nguyên thuỷ hay đa dạng sau này b ởi
tiểu thừa hay đại thừa thì vẫn phải nhập với tín ngưỡng bản địa. đ ể bi ến
Man Nương thành Phật Mẫu, Ỷ Lan thành Quan Âm mà không cần ph ải tạo
ra xung quanh nhân vật ấy những gì huyền bí thần kỳ cho lắm.
Phật giáo lại biết bám lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ th ể
có tổ chức, kết hợp với tín ngưỡng bản địa, hội hè.
Nhà sư và ngơi chùa có vai trị quan trọng trong đời sống dân gian
cổ truyền. ở Bắc Bộ trước đây hầu như làng nào cũng có chùa. Ngồi th ờ
Phật, chùa cịn thêm tín ngưỡng dân gian thờ thần tiên, th ờ các vị t ướng có
cơng với nước. Ngơi chùa trở thành một trung tâm văn hố làng. Có th ể nói
Phật giáo đã góp phần làm phong phú thêm nền văn hố dân t ộc. Nho giáo
về mặt nào đó làm cho tư tưởng văn hố khơ cứng thì Phật giáo có ph ần
làm mềm hơn, phong phú và sinh động hơn. Hội chùa cũng nh ư hội làng là
tiêu biểu cho sự hồ hởi của công xã, là một dịp để con ng ười đ ược gi ải
phóng tình cảm, hồ cái ta của mình vào cái ta của làng xã, khơng b ị giáo lý
khn phép gị bó và toả chiết tâm hồn. Dưới mái nhà chùa mà v ẫn đ ược
phép giao lưu tình cảm. Chả thế mà bao nhiêu câu chuy ện tình duyên đ ằm
thắm đã xảy ra bên cạnh cửa thiền. Thế ra cửa từ bi khơng hề nghiêm
ngặt như chốn sân Trình cửa Khổng. Phật chứng nhận cho cuộc sống hồn

nhiên của làng xã.
Do Phật giáo bám sâu vào làng xã nên có sức sống lâu bền và tương đối ổn
định. Vào thời kỳ Lý Trần Phật giáo thịnh vượng nhất, đ ược nhà n ước nâng
đỡ, từ thời Hồ và Lê sơ về sau Phật giáo bị giảm sút ( Nho giáo ở v ị trí
thống trị và chi phối), nhưng Phật giáo vẫn cứ duy trì và m ở rộng kh ắp
nơng thơn, bởi lẽ Phật giáo có sơ sở làng xã vững vàng.
Phật giáo Việt Nam đã trải qua một vận mệnh thịnh suy, Đạo phật có th ể
mất đi như mọi hiện tượng vô thường. Song cái tinh tuý của văn hoá Phật
giáo đã được dân tộc hoá và dân gian hố thì mãi mãi trường tồn.
Trong mấy chục năm lại đây Phật tử Việt Nam rất chăm lo đến
việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa trong các ngày l ễ,
họ trân trọng thành kính trong khi thi hành lễ, họ siêng năng trong vi ệc
thiền định, giữ giới, làm việc thiện. Việc ăn chay hàng tháng tr ở thành thói
quen khơng thể thiếu của người theo Đạo Phật. Mặt khác, nhà chùa sẵn
sàng thực hiện các yêu cầu của họ như cầu siêu, giản oan,... T ất cả nh ững


điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa qui định tư duy và hành đ ộng
của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.

2.2 Ảnh hưởng của Phật giáo đến thế hệ trẻ
Chúng ta cũng có thể thấy rằng tư tưởng Phật giáo có ảnh hưởng ít nhiều
đến đời sống của thanh thiếu niên hiện nay. Ở các trường ph ổ thơng, tổ
chức đồn, đội luôn phát động các phong trào nhân đạo nh ư “ Lá lành đùm
lá rách”, “ quỹ giúp bạn nghèo vượt khó”, “quỹ viên gạch h ồng”… Ngay t ừ
nhỏ các em học sinh đã được giáo dục tư tưởng nhân đạo, bác ái, giúp đ ỡ
người khác mà cơ sở của nền tảng ấy là tư tưởng giáo lý nhà Phật đã hoà
tan với giá trị truyền thống của con người Việt Nam. Lên đến c ấp III và vào
Đại học, những thanh thiếu niên có những hoạt động thiết thực hơn. Việc
giúp đỡ người khác không phải hạn chế ở việc xin bố mẹ tiền để đóng góp

mà có thể bằng chính kiến thức, sức lực của mình. S ự đồng cảm v ới nh ững
con người gặp khó khăn, những số phận bất hạnh cơ đơn, cộng v ới truy ền
thống từ bi, bác ái đã giúp những học sinh, sinh viên còn ngồi trên gh ế nhà
trường có đủ nghị lực và tâm huyết để lập ra những kế hoạch, tham gia
vào những hoạt động thiết thực như hội chữ thập đỏ, hội tình thương, các
chương trình phổ cập văn hố cho trẻ em nghèo, chăm nom các bà mẹ Vi ệt
Nam nghèo... Hình ảnh hàng đoàn thanh niên, sinh viên hàng ngày v ẫn lăn
lội trên mọi nẻo đường tổ quốc góp phần xây dựng đất nước, tổ quốc
ngày càng giàu mạnh thật đáng xúc động và tự hào. Tất cả nh ững điều đó
chứng tỏ thanh niên, sinh viên ngày nay khơng ch ỉ năng đ ộng, sáng t ạo đ ầy
tham vọng trong cuộc sống mà còn thừa hưởng những giá trị đạo đức tốt
đẹp của ơng cha, đó là sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa mọi ng ười,
lòng thương yêu giúp đỡ mọi người qua cơn hoạn nạn mà khơng chút nghĩ
suy, tính tốn. Và ta khơng thể phủ nhận Phật giáo đã góp phần tạo nên
những giá trị tốt đẹp ấy.Chúng ta càng phải nhắc đến giá trị đó trong khi
cuộc sống ngày nay ngày càng xuất hiện những hiện tượng tiêu c ực. Trong
khi có những sinh viên cịn khó khăn đã dồn hết sức mình đ ể h ọc t ập c ống
hiến cho đất nước thì vẫn cịn một số bộ phận thanh niên ăn ch ơi, đua đòi,
làm tiêu tốn tiền bạc của cha mẹ và đất nước. Tối đến, người ta bắt g ặp ở
các quán bar, sàn nhảy những cô chiêu, cậu ấm đang đốt tiền của bố mẹ
vào những thú vui vô bổ. Rồi những học sinh, sinh viên lầm đường lỡ b ước
vào ma tuý, khiến cho bao gia đình tan nát, biết bao ông bố bà mẹ cay đ ắng


nhìn những đứa con của mình bị chịu hình phạt tr ước pháp luật. Th ế h ệ
trẻ ngày nay nhiều người chỉ biết chạy theo vật chất, bị cuốn hút b ởi
những thứ ăn chơi sa đoạ làm hại đến gia đình và cộng đồng. H ơn bao gi ờ
hết việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ trở nên rất quan trọng và m ột
trong những phương pháp hữu ích là nêu cao truyền bá tinh th ần cũng nh ư
tư tưởng nhà Phật trong thế hệ trẻ. Đó thực sự là cơng việc cần thiết cần

làm ngay.
Do nhiều nguyên nhân nhưng trước hết với sự xâm nhập của nhiều trào
lưu tư tưởng, học thuyết Phương Tây vào nước ta cách đây vài ba thế kỷ.
Đặc biệt là sự giác ngộ lý luận Mác - Lênin, ch ủ nghĩa c ộng sản c ủa giai
cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động đã tạo tiền đề xây d ựng
hệ thống tư tưởng, nguyên tắc hành động cho phong trào cách mạng c ủa
nhân dân Việt Nam, lấy đó làm vũ khí chính trị kết hợp v ới đấu tranh vũ
trang. Đảng ta rất chú trọng việc truyền bá học thuyết này cho quần
chúng nhân dân nhất là đối tượng thanh thiếu niên, những người ch ủ
tương lai của đất nước. Chính vì vậy, thanh thiếu niên, chúng ta ngày nay
khi rời ghế nhà trường được trang bị không những kiến th ức để làm việc
mà cịn cả kiến thức về lý luận chính trị. Điều này giúp ta nh ận th ức đ ược
về cơ bản giữa mơ hình lý tưởng nhân đạo của Phật giáo và ch ủ nghĩa
cộng sản là: Một bên là duy tâm, một bên duy vật. M ột bên di ệt d ục tri ệt
để bằng ý chí và coi dục là căn nguyên của mọi tội lỗi, một bên thì c ố g ắng
thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người bằng lao động v ới năng
suất và chất lượng cao nhằm cải tạo thế giới, coi đó là tiêu chuẩn đánh giá
tính nhân đạo thực sự tiến bộ của xã hội, một bên hứa hẹn m ột mơ hình
niết bàn bình đẳng tự do cho tất cả mọi người, từ bi bác ái nh ư nhau,
không còn bị ràng buộc bởi các nhu cầu trần tục, cịn bên kia kh ẳng đ ịnh
mơ hình lý tưởng cho mọi người lao động, coi lao động là nhu cầu sống
chứ không phải phương tiện sống, lao động không còn là nguồn g ốc c ủa
khổ đau, qua lao động con người hoàn thiện cả bản thân và hoàn thi ện cả
xã hội.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, mọi lĩnh vực trong
đời sống con người đều có bước nhảy vọt. Xu thế tồn cầu hố th ể hiện
ngày càng rõ nét. Điều kiện đó đòi hỏi con người ph ải hết s ức năng đ ộng,
nhanh nhạy nắm bắt vấn đề trong cuộc sống. Trong khi đó, theo giáo lý
nhà Phật con người trở nên khơng có tham vọng tiến thân, bằng lịng v ới
những gì mình đã có, sống nhẫn nhục, khơng đấu tranh, h ướng t ới cõi niết



bàn khi cuộc sống trần gian đã chấm dứt. Như vậy đạo đức Ph ật giáo đã
tách con người ra khỏi điều kiện thực tiễn của xã hội, làm cho con ng ười
có thái độ chấp nhận chứ khơng phải là cải tạo thế giới. Đ ạo đ ức xu ất th ể
của Phật giáo là chạy trốn nhu cầu bản năng chứ không ph ải chế ngự
thiên nhiên, bắt nó phục vụ cho mình. Các chương trình xã h ội của Ph ật
giáo không phải cải tạo lại điều kiện sống mà chỉ để cố san bằng xã hội
bằng đạo đức, trong xã hội đó ai cũng từ bi, bác ái, h ỉ xả, nh ẫn nh ục... Đ ạo
đức nhà Phật mất dần giá trị cũng chính thái độ yếu th ế này, v ới nhà Ph ật
những nhu cầu về thể xác thì bị coi là trần tục, kém đạo đ ức, nh ất là trong
cuộc sống ngày nay, khi mà con người đã đạt được một trình độ nhất đ ịnh,
quan niệm trên càng khơng thể chấp nhận được. Do đó, ảnh h ưởng của
Phật giáo càng xa rời thế hệ trẻ.

K ẾT LU ẬN .
Phật giáo được sáng lập bởi Tất Đạt Đa vào khoảng thế k ỷ VI TCN t ại
miền Bắc Ấn Độ. Phật giáo ra đời trong điều kiện xã h ội Ấn Độ đã phân
chia giai cấp và xuất hiện đấu tranh giai cấp. Từ Phật giáo nguyên th ủy,
sau khi Tất Đạt Đa mất đã phân thành nhiều tông phái, các tông phái khác
nhau về cách tu luyện bản thân giáo lý Phật giáo khơng hề có s ự phân chia
tơng phái. Phật giáo ngun thuỷ có tư tưởng vơ thần, có yếu tố duy vật và
tư tưởng biện chứng của thế giới nhưng triết lý nhân sinh vẫn còn mang
nặng tính chất bi quan khơng tưởng và duy tâm về xã hội.
Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập t ừ Ấn Đ ộ và
Trung Quốc vào Việt Nam. Phật giáo được du nhập vào Việt Nam kho ảng
đầu công nguyên theo con đường Hồ Tiêu (đường thủy) và con đường
Đồng Cỏ (đường bộ). Với những giá trị tốt đẹp của Phật giáo, nhân dân ta
nhanh chóng tiếp nhận và hình thành nên Phật giáo Việt Nam. S ự hình
thành và phát triển của Phật giáo Việt Nam trải qua các thời kỳ gắn liền

với các triều đại phong kiến. Thời kỳ du nhập và hình thành (thế kỷ II – V),
tiếp theo là thời kỳ phát triển (thế kỷ VI – IX). Phật giáo Việt Nam c ực
thịnh và trở thành quốc giáo vào triều đại Lý – Trần (thế kỷ X – XIII) sau
đó suy thối vào thời nhà Hậu Lê đến thế kỷ XIX. Từ thế kỷ XX là th ời kỳ
phục hưng của Phật giáo Việt Nam.


Phật giáo Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ trong sự phát triển
đi lên của cả dân tộc. Hiện nay phần lớn các nhà s ư, các ch ủ trì đi ều có h ọc
thức cao từ trình độ đại học đến bậc tiến sĩ và có kh ả năng v ượt xa h ơn
nữa. Các vị sư này không những thấu hiểu Phật giáo Việt Nam mà cịn
được du học nền văn hóa Phật giáo ở các nước lân cận. Đ ược s ự h ỗ tr ợ t ừ
phía Đảng và nhân dân về cơ sở vật chất và kinh phí đầu t ư. Hiện nay
nước ta đã có các trường Đại Học cho các bậc tu sĩ. Đây là m ột đi ều r ất
đáng mừng trong thời kỳ mở cửa hội nhập nền văn hóa, kinh t ế v ới các
nước bạn bè năm Châu. từ đó cho thấy Phật giáo Việt Nam th ực sự l ớn
mạnh về mặt tổ chức và trở mình đổi mới để xứng đáng với lịng tin c ủa
đảng và nhân dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Nguyễn Duy Cần (1997), Tinh hoa Phật giáo, NXB Tp.HCM.

2.
Thích Nữ Trí Hải dịch (2000), Đức Phật đã dạy những gì (con
đường thốt khổ), NXB Tơn giáo.
3.
Chính trị.

Đồn Quang Thọ (2007), Giáo trình triết học, NXB Lý luận


4.
Hà Nội.

Thích Minh Thuận (2008), Phật học căn bản, NXB Tôn giáo,

5.
Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6.
Nguyễn Tài Thư (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và
tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
7.
P.V.Bapat (2002), 2005 Năm Phật giáo, người dịch Nguyễn
Đức Tư, Nữu Song, NXB VHTT.
8.
Nội.

Thích thiện Siêu dịch(2000), Lời Phật dạy, NXB Tơn giáo, Hà

9.
gia, Hà Nội

Phương Kỳ Sơn (1999), Lịch sử Triết học, NXB Chính trị Quốc

10.

Lý Khơi Việt, Hai nghìn năm Việt Nam và Phật giáo.



11.
Hà Nội.

Viện Triết học (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, NXB KHXH,



×