Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Phan tich bai tho Chieu toi cua Ho chi Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (52.97 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ chí Minh
Xem các bài viết của admin » Tạo bởi admin
Tags:


Cố Thủ Tướng Phạm Văn Đồng trong bài viết Hồ Chủ tịch – hình ảnh của dân tộc có nói
đại ý: Hồ Chủ tịch là Người rất giàu tình cảm, và vì giàu tình cảm mà Người mới đi làm
cách mạng. Trong thế giới tình cảm bao la của Người dành cho nhân dân, cho các cháu
nhỏ, cho bầu bạn gần xa, hẳn có một chỗ dành cho tình cảm gia đình. Bài Chiều tối có lẽ
hé mở cho ta nhìn thấy một thống ước mơ thầm kín về một mái nhà ấm, một chỗ dừng
chân trên con đường dài muôn dặm...


Chiều tối là bài thơ thứ ba mươi mốt trong tập Nhật kí trong tù, ghi lại cảm xúc của nhà
thơ trên đường bị giải đi qua hết nhà lao này đến nhà lao khác. Trên con đường khổ ải ấy,
một chiều kia, Người chợt nhận thấy cánh chim chiều.


Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ


Câu thơ khơng giản đơn chỉ ghi lại cảnh vật mà cịn bộc lộ mối tình cảm của nhà thơ. Làm
sao biết rõ được là chim đang mỏi, và làm sao nói chắc được mục đích của chim là về rừng
tìm chốn ngủ, như thể ở trong lòng chim mà ra? Câu thơ chỉ là tín hiệu cho thấy là trời đã
chiều, mọi vật hoạt động ban ngày đã mỏi mệt, đã đến lúc tìm chốn nghỉ ngơi. Câu thơ
tương phản với hình ảnh chịm mây cơ đơn ở dưới.


Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng không.


Câu thơ dịch tuy đẹp nhưng ý thơ có phần nhẹ hơn so với nguyên tắc chữ Hán. Nó bỏ mất
chữ cơ trong cơ vân, nghĩa là chịm mây cơ đơn, trơ trọi rất có ý nghĩa. Hai từ trôi nhẹ cũng
không lột tả được ý của mấy chữ mạn mạn độ. Bởi vì độ là hoạt động nhằm đi từ bờ này
sang bộ kia, ví như độ thuyền đi từ thuyền sang sông, độ nhật ở cho qua ngày, độ thiên
không là chuyển dịch từ chân trời này sang chân trời kia, con đường của mây mới xa vời
và vô hạn biết chừng nào!



Cịn mạn mạn là dáng vẻ trì hỗn, chậm chạp. Chịm mây cơ đơn đi từ chân trời này sang
chân trời kia, mà lại cịn chậm chạp, trì hỗn nữa thì khơng biết bao giờ mới tới nơi? Và
hiển nhiên khi trời tối nó vẫn cịn lửng lơ bay giữa tầng khơng là hình ảnh ẩn dụ về người
tù đang bị giải đi trên đường xa vạn dặm, chưa biết đây là điểm dừng! Trong hình ảnh ấy
hẳn cịn gửi gắm tình cảm thương mình cơ đơn sốt ruột và khao khát có một mái nhà. Chỉ
hai câu thơ mà vừa tả cảnh, vừa tả người, tả tình người. Đó là cái hàm súc, dư ba của thơ
cổ điển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Cơ em xóm núi xay ngơ tối
Xay hết lị than đã rực hồng.


Trong bản dịch, người dịch đã đưa vào chữ tối lộ liễu trong khi thi pháp thơ cổ chỉ muốn
người đọc tự cảm thấy chiều tối phủ xuống mà không cần một sự thơng báo trực tiếp nào.
Điều đó làm lộ tứ thơ. Nhưng đó là cái khó của người dịch.


Điều đáng chú ý là một cảnh lao động gia đình, rất đỗi bình thường, dân dã: Cơ em xóm
núi xay ngơ hạt, ngơ hạt xay xong, bếp đã hồng. Cô em, bếp lửa tượng trưng cho cảnh gia
đình. Ngơ hạt xay xong, bếp đỏ hồng lại, tượng trưng cho công việc và nghỉ ngơi. Một
không khí ấm cúng đối với người lữ thứ.


Điều đáng chú ý thứ hai là trong nguyên tác chữ hồng là ấm, nóng chứ khơng phải là màu
đỏ, càng chứng tỏ điều nhà thơ nghĩ đến là sức ấm nóng, chứ không phải là ánh sáng hồng.
Bếp lạnh, tro tàn là tượng trưng cho sự cô quạnh, lẻ loi.


Điều đáng chú ý thứ ba là nhà thơ đứng ở núi như thế, y như thể đứng gần gũi bên cạnh.
Lại nữa, nhà thơ phải đứng rất lâu mới thấy được cảnh thời gian trơi trong câu: Cơ em xóm
núi xay ngô hạt – Ngô hạt xay xong bếp đã hồng. Đây chỉ là bài thơ trên đường. Vậy, đó
chỉ là cảnh tưởng tượng trong tâm tưởng, trước xóm núi bên đường, xuất hiện như là biểu
trưng của mái ấm gia đình, nơi đồn tụ của những người thân thuộc. Cái này tuy không


sáng bừng lên màu hồng lạc quan của cách mạng như ai đó hiểu, cũng vẫn ấm áp tình
người, làm cho nỗi lịng người đi vơi bớt nỗi cô đơn, tĩnh mịch. Cùng với hình ảnh ấy, một
ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình thấp thống đâu đó. Nếu ta chú ý tới bài thơ trước bài
này là bài Đi đường:


Đi đường mới biết gian lao


Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.


Một con đường vô tận, và bài sau đó là bài Đêm ngủ ở Long Tuyền, Đơi ngựa ngày đi
chẳng nghỉ chân, món Gà năm vị: tối thường ăn; thừa cỏ rét, rệp xông vào đánh, oanh sớm,
mừng nghe hót xóm gần. Thì ta sẽ thấy sự xuất hiện của khung cảnh gia đình kia là rất dễ
hiểu. Nó chứng tỏ trái tim của nhà cách mạng vẫn đập theo những nhịp của con người bình
thường gần gũi với mọi người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Thi HS Giỏi)
Xem các bài viết của admin » Tạo bởi admin


Tags: phan tich bai tho day thon vi da, phân tích bài thơ đây thơn vĩ dạ, phan tich bai tho,
phân tích bài thơ


Bài thơ về xứ Huế mộng mơ Đây thôn Vĩ Dạ đã để lại cho ta biết bao hoài niệm đẹp về
phong cảnh hữu tình xứ Huế, con người Huế và đặc biệt hơn là sự lãng mạn của một đời
thơ, một đời người - Hàn Mặc Tử.


"Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt,
Khép phịng đốt nến, nến rơi châu..."


Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? "Trăng nằm sóng sỗi trên cành liễu - Đợi gió
đơng về để lả lơi..." ("Bẽn lẽn") - Thi sĩ cịn nói đến thuyền trăng, sơng trăng, bến trăng...


Cả một trời trăng ảo mộng, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện tâm
hồn "say trăng" với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những
nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932 - 1941). Với 28 tuổi đời (1922 - 1940),
ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ. Thơ của ông như
trào ra từ máu và nước mắt, có khơng ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết thơ hay về
mùa xuân và thiếu nữ ("Mùa xuân chín"), về Huế đẹp và thơ ("Đây thôn Vĩ Dạ") như Hàn
Mặc Tử.


"Đây thôn Vĩ Dạ" rút trong tập "Thơ điên" xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời.
Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là
các cơ gái dun dáng, đa tình, đáng u - tình yêu thơ mộng đắm say, lung linh trong ánh
sáng huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khao khát về hạnh phúc
của thi sĩ đa tình, có nhiều dun nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.


Câu đầu "dịu ngọt" như một lời chào mời, vừa mừng vui hội ngộ, vừa nhẹ nhàng trách móc
người thương biết bao thương nhớ đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: "Sao
anh khơng về chơi thơn Vĩ?". Có mấy xa xơi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ
đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc
vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:


"Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?".


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

nhiều ngạc nhiên và man mác. Câu thứ tư tả thiếu nữ với vườn xuân: "Lá trúc che ngang
mặt chữ điền". Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn mới đẹp. Mặt chữ điền, gương mặt đầy đặn,
phúc hậu. "Lá trúc che ngang" là một nét vẽ thần tình đã tơ đậm nét đẹp của cơ gái Huế
dun dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và
thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che chở cho mối tình đẹp đang nảy nở:



"Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý nhị và thơ ngây".
(Mùa xuân chín)


Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng mới, tả vườn xuân, tả trúc và thiếu nữ với một
gam màu nhẹ thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ. (xanh
như ngọc... mặt chữ điền). Cảnh và người nơi thôn Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng
yêu.


Vĩ Dạ - một làng quê nằm bên bờ sông Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp
với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những
ngơi nhà xinh xắn thấp thống ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đấy thường dìu dặt
câu Nam ai, Nam bình qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ
Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha
thiết mến thương.


Khổ thơ thứ hai nói về cảnh trời mây, sơng nước. Một khơng gian nghệ thuật thoáng đãng,
mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dịng sơng và hoa (hoa bắp). Giọng
thơ nhẹ nhàng, hài hòa và sống động. Gió mây đơi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần
đấy mà xa vời, cách trở. Dịng Hương Giang êm trơi lờ lững, trong tâm tưởng thi nhân trở
nên "buồn thiu", nhiều bâng khuâng man mác. "Hoa bắp lay" nhè nhẹ đung đưa trong gió
thoảng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương, núi Ngự được diễn tả rất
tinh tế. Các điệp ngữ luyến láy gợi nên nhiều vương vấn mộng mơ:


"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dịng nước buồn thiu, hoa bắp lay".


Hai câu tiếp theo nhà thơ hỏi "ai" hay hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ tới con đị mộng
nằm trên bến sơng trăng. Sơng Hương q em trở thành sơng trăng. Hàn Mặc Tử với tình
yêu Vĩ Dạ mà sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dịng sơng Hương với những con đị dưới


vầng trăng. Nguyễn Cơng Trứ đã từng viết: "Gió trăng chứa một thuyền đầy". Hàn Mặc Tử
cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:


"Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"


Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay "thuyền ai"
vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo "Đây thôn Vĩ Dạ" là những thi liệu ấy. Câu thơ
gợi tả một hồn thơ làm ta rung động trước vẻ đẹp hữu tình của xứ Huế miền Trung, nói lên
một tình u kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thống buồn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

"Sương khói" trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương. Ở đây sương khói làm
nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi khơng ra hình dáng em (nhân ảnh). Người
thiếu nữ Huế thống hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa, thực mà mơ.
Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng ơm ấp mối tình với một
thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ muốn nói về mối tình này?
"Mơ khách đường xa, khách đường xa


Áo em trắng q nhìn khơng ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"


"Mơ khách đường xa, khách đường xa... ai biết... ai có", các điệp ngữ luyến láy ấy tạo nên
nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài
hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với bao mối tình tình nhưng suốt đời phải sống
trong cô đơn bệnh tật.


Cũng cần nói đơi lời về chữ "ai" trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ "ai" xuất hiện đều mơ hồ
ám ảnh: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?" - "Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó?" - "Ai
biết tình ai có đậm đà?". Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hồi


niệm bâng khng. Nhà thơ ln cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn
phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhịa và mờ đi
cùng sương khói?


Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay. Cảnh và người, mộng và thực, say
đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ... bao hình ảnh và cảm xúc đẹp hội tụ trong
ba khổ thơ thất ngơn, câu chữ tồn bích. "Đây thơn Vĩ Dạ" là một bài thơ tình tuyệt tác.
Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai trên sông trăng, và màu trắng của áo
em như đang dẫn hồn ta đi về miền sương khói của Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng:


</div>

<!--links-->

×