Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại từ thực tế xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THÚY HẰNG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH THƯƠNG MẠI
TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI - 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THÚY HẰNG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH THƯƠNG MẠI
TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. DƯƠNG QUỲNH HOA


HÀ NỘI - 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi, vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi
cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi
phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
HỌC VIÊN

Trần Thúy Hằng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP

ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁNError! Bookmar
1.1. Khái quát về tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương
mại ...................................................................................................................... 7
1.2. Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tòa án. ........ 17
1.3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại
tại Tòa án .......................................................................................................... 22
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA
ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG .............................................. 27
2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh
thương mại tại Tòa án ....................................................................................... 27
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại
Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang ........................ 50
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
TUYÊN QUANG ..................................................................................................... 68
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng
kinh doanh thương mại tại Tòa án .................................................................... 68
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng
kinh doanh thương mại tại Tòa án .................................................................... 69
3.3. Kiến nghị nâng cao hiệu quả giải quyết hợp đồng kinh doanh thương
mại tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang. ........................................... 71
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật dân sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

BPKCTT

Biện pháp khẩn cấp tạm thời

CPTTP

Comprehenshive and Progresive Agreement for TransPacific
Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình

Dương

EVFTA

Vietnam-European Free Trade Agreement
Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Châu Âu

HĐKDTM

Hợp đồng Kinh doanh thương mại

KDTM

Kinh doanh thương mại

TAND

Tòa án nhân dân

TCKDTM

Tranh chấp KDTM

TTDS

Tố tụng dân sự

TTTM

Trọng tài thương mại


XHCN

Xã hội chủ nghĩa

WTO

World Trade Organisation
Tổ chức Thương mại Thế giới


DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
Bảng
Bảng 2.1: Tình hình xét xử các vụ án sơ thẩm về tranh chấp hợp đồng kinh doanh
thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang giai đoạn năm 2015 - năm
2019 ...........................................................................................................................52
Sơ đồ
Sơ đồ 2.1: Quá trình giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại
...................................................................................................................................48


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện nền kinh tế ở Việt Nam đang được đổi mới và ngày càng
phát triển, đặc biệt khi nước ta đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO),
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)... các quan hệ kinh doanh thương
mại (KDTM) ngày càng đa dạng, phong phú và mang những diện mạo, sắc thái
mới. Tương ứng với sự đa dạng phong phú của các quan hệ này, các tranh chấp
KDTM cũng phát sinh ngày càng muôn màu, muôn vẻ và với số lượng lớn là điều
không tránh khỏi. Khi có những bất đồng trong q trình thực hiện hợp đồng

KDTM thì việc lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp nào vừa đảm bảo có lợi
cho doanh nghiệp, thương nhân như giảm được chi phí giải quyết thấp nhất, thời
gian giải quyết nhanh nhất, vừa duy trì được mối quan hệ làm ăn là việc mà các
doanh nghiệp, thương nhân đặc biệt quan tâm và cân nhắc thận trọng. Trong kinh
doanh, giữa các doanh nghiệp, thương nhân ln phải có sự liên kết với nhau để
cùng nhau mang lại lợi nhuận, thông thường doanh nghiệp, thương nhân ký kết với
nhau hợp đồng nhằm xác định quyền và nghĩa vụ trong KDTM. Theo quy định pháp
luật thì các bên phải thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã giao kết trong hợp
đồng. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào các chủ thể cũng thực hiện đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ của mình.
Do đó, các tranh chấp về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong hoạt động
KDTM là khó có thể tránh khỏi. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
khi tham gia hợp đồng, cũng như tạo điều kiện hoạt động đồng bộ cho toàn bộ nền
kinh tế, các tranh chấp đó cần phải được giải quyết kịp thời, đúng đắn. Về nguyên
tắc khi tranh chấp trong KDTM xảy ra, để đảm bảo nguyên tắc tự nguyện thỏa
thuận trong kinh doanh, pháp luật cho phép các bên gặp nhau tự bàn bạc tìm cách
giải quyết. Trong trường hợp các bên khơng thỏa thuận được với nhau và có yêu
cầu thì tranh chấp KDTM được giải quyết tại Trọng tài, theo tố tụng trọng tài hoặc
tại Tòa án nhân dân, theo thủ tục tố tụng quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự
(BLTTDS). Đối với Việt Nam các đương sự thường lựa chọn hình thức giải quyết
tranh chấp KDTM bằng Toà án sau khi thương lượng, hoà giải không thành. Tuy

1


nhiên, việc giải quyết tranh chấp bằng con đường Toà án vẫn cịn nhiều vấn đề đáng
quan tâm đó là: Các quy định pháp luật cịn có những nhược điểm, bất cập, dẫn đến
việc áp dụng khơng đạt được tính thuyết phục; hướng dẫn của ngành Tòa án cũng
như quan điểm giải quyết khơng thống nhất giữa các cấp Tịa án làm cho hoạt động
xét xử của Toà án gặp nhiều khó khăn vướng mắc. Chính vì vậy mà tơi chọn đề tài

ngiên cứu với chủ đề: “Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại từ thực tế xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang,
tỉnh Tuyên Quang”. Thông qua Luận văn này bạn đọc có cái nhìn rõ hơn về vấn đề
nêu trên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các vấn đề liên quan đến tranh chấp KDTM và giải quyết tranh chấp KDTM
bằng thủ tục tư pháp không phải là vấn đề mới trong khoa học pháp lý ở Việt Nam.
Cho đến nay đã có rất nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về các vấn đề liên quan
đến giải quyết tranh chấp KDTM trên phạm vi một địa bàn cụ thể và đã có những kết
luận xác đáng, những kiến nghị hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết
tranh chấp KDTM ở nhiều phương diện khác nhau. Có thể kể đến các cơng trình
nghiên cứu tiêu biểu như “Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam” Luận án Tiến sĩ của Đào Văn Hội năm 2003, Trường Đại học
Luật Hà Nội; “Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường Tòa án ở Việt
Nam” Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Kim Vinh, năm 2002, Trường Đại học Luật
Hà Nội; “Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân - Thực
trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động” luận văn thạc sĩ luật học của Đinh
Thị Trang (2013) “Pháp luật về giải quyết kinh doanh thương mại theo thủ tục tố
tụng Tòa án ở Việt Nam hiện nay”. Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Đinh Ngọc
Thương(2016) “Hợp đồng mua bán hàng hóa trong kinh doanh thương mại vô hiệu
Theo pháp luật Việt Nam”. Khoa Luật thuộc Đại học Huế. Luận văn Thạc sĩ của
Phạm Thị Ban năm 2012, Trường Đại học Luật Hà Nội; “Thẩm quyền của Tòa án về
tranh chấp kinh doanh thương mại và thực tiễn thực hiện tại Tòa án” của Lê Thị
Oanh năm 2017, Trường Đại học Luật Hà Nội. Bên cạnh đó cịn có nhiều bài nghiên
cứu đăng tải trên các tạp chí chun ngành như: “Hồn thiện pháp luật về thủ tục áp

2


dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam

hiện nay” của Nguyễn Thị Thu Thủy, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 11/2014);
“Xác định thẩm quyền giữa toà án và trọng tài trong quá trình thụ lý vụ án dân sự giải
quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại tại toà án và một số kiến nghị hoàn thiện”
của Bùi Thành Trung, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 12/2014;
“Tranh chấp và giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở
giao dịch” của Vũ Thị Lan Anh, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp, Số 3/2016.
Nhìn chung, các cơng trình đã chỉ ra sự cần thiết và giới thiệu khái qt về
mơ hình tài phán tại Tịa án ở Việt Nam. Các cơng trình đã đề cập đến thủ tục tố
tụng giải quyết tranh chấp KDTM một cách khá chi tiết, đầy đủ, góp phần quan
trọng vào việc hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, nhất là pháp luật Tố tụng
dân sự và các luật liên quan đến hoạt động KDTM; xác định thẩm quyền của Tòa án
trong việc giải quyết tranh chấp KDTM. Các cơng trình nghiên cứu cũng đưa ra
nhiều giải pháp có giá trị góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết các
tranh chấp KDTM. Đây là những tri thức quan trọng mà tác giả luận văn kế thừa
trong quá trình nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, vẫn cịn nhiều vấn đề về lý luận,
thực trạng pháp luật và thực tiễn về giải quyết tranh chấp KDTM đang tiếp tục được
đặt ra và có nhu cầu cần được giải quyết. Cho tới thời điểm hiện tại chưa có một
cơng trình nào nghiên cứu việc giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM từ thực tiễn
Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.
Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực
kinh doanh thương mại từ thực tế xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố
Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang” làm luận văn thạc sĩ Luật. Với đề tài này tác giả sẽ
đi sâu nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM của Tòa án nhân
dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang để kiến nghị các giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động giải quyết tranh chấp trong KDTM.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ
bản về tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực KDTM tại toà án nhân dân cấp sơ thẩm,


3


đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật tại toà án nhân dân
thành phố Tuyên Quang, chỉ ra những bất cập, hạn chế và nguyên nhân của nó, từ
đó luận văn đưa ra một số phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại toà án nhân
dân cấp sơ thẩm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích để làm rõ cơ sở lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM
tại toà án nhân dân như khái niệm tranh chấp hợp đồng KDTM, khái niệm đặc điểm
của giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM, các yếu tố ảnh hưởng đến việc giải
quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại toà án nhân dân cấp sơ thẩm.
- Làm sáng tỏ nội dung pháp luật điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp hợp
đồng KDTM tại tồ án nhân dân cấp sơ thẩm.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng
KDTM tại toà án nhân dân, chỉ ra những bất cập, hạn chế trong các quy định pháp luật.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp
đồng KDTM tại toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, chỉ ra những thành tựu,
hạn chế và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp
đồng KDTM tại toà án nhân dân và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giải
quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại toà án nhân dân cấp sơ thẩm nói chung và tồ
án nhân dân thành phố Tuyên Quang nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài có đối tượng nghiên cứu là:
+ Các vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM.
+ Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giải quyết tranh chấp
KDTM nói chung và giải quyết tranh chấp về hợp đồng KDTM nói riêng.

+ Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án nhân
dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành có so sánh đối chiếu
với các quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực liên quan tới hoạt động giải quyết tranh
chấp hợp đồng KDTM tại toà án nhân dân cấp huyện.
Nghiên cứu và phân tích thực trạng hoạt động giải quyết tranh chấp hợp
đồng KDTM tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang qua các năm từ năm
2015 đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, về xây dựng và hồn thiện pháp
luật trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng như trong quá trình giải quyết các
tranh chấp KDTM. Do đó, các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật đều dựa trên các
quan điểm chỉ đạo nêu trên.
Để hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình, tác giả sử dụng kết hợp các
phương pháp:
- Phương pháp phân tích được sử dụng nhằm làm rõ những vấn đề về lý luận
về giải quyết tranh chấp KDTM tại Chương 1.
- Phương pháp hệ thống hóa pháp luật giúp tổng hợp một cách đầy đủ, chính
xác các quy phạm pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp thương mại tại Mục
1.3 Chương 1, Mục 2.1 Chương 2.
- Phương pháp thống kê được sử dụng trong việc thống kê các số liệu trong
thực tiễn tình hình giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố
Tuyên Quang làm cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động tố tụng tại Mục 2.3, Chương 2.

- Phương pháp nghiên cứu bản án nhằm tóm lược một cách ngắn ngọn, xúc
tích bản án thực tiễn làm cơ sở đưa ra bình luận, đánh giá về hoạt động giải quyết
tranh chấp KDTM tại Mục 2.2 Chương 2.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong việc tổng hợp các vấn đề đã
nghiên cứu nhằm đưa ra những nhận định và những kết luận tại Chương 3.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về
giải quyết tranh chấp KDTM, việc giải quyết tranh chấp KDTM bằng tố tụng tư
pháp. Chỉ ra những bất cập của hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp KDTM
bằng thủ tục tư pháp, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể trở
thành nguồn tư liệu tham khảo bổ ích cho các cơ sở đào tạo, nghiên cứu pháp luật
trong quá trình học tập, nghiên cứu, giảng dạy.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố
tụng, đặc biệt là Tòa án các cấp vận dụng trong quá trình giải quyết các vụ án tranh
chấp hợp đồng KDTM, đóng góp thiết thực vào việc nâng cao hiệu quả công tác
giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án các cấp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có
cơ cấu gồm 3 Chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về giải quyết tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực
kinh doanh thương mại tại Tòa án.
+ Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về giải
quyết tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại từ thực tiễn xét xử

sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang.
+ Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nhằm
nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang.

6


Chương 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI
TÒA ÁN
1.1. Khái quát về tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng kinh doanh thương mại
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại
Khi nói tới hợp đồng, tức là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên nhằm mục
đích xác lập, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ của các bên. Quan hệ KDTM được xác
lập và thực hiện thơng qua hình thức pháp lý chủ yếu là hợp đồng.
Trong đời sống xã hội, nhu cầu giao lưu trao đổi buôn bán gọi chung là giao
dịch dân sự là một nhu cầu tất yếu khách quan và để điều chỉnh cũng như đảm bảo
tính hiệu lực của các giao dịch đó, pháp luật về hợp đồng ra đời và ngày càng chứng
tỏ được vai trò đặc biệt quan trọng của mình. Có thể nói pháp luật về hợp đồng là một
trong những chế định lâu đời nhất liên quan đến hoạt động KDTM, dân sự. Để hiểu
như thế nào là hợp đồng KDTM thì cần tìm hiểu rõ các khái niệm về Hợp đồng là gì?
KDTM là gì? từ đó ta có thể hiểu rõ hơn về Hợp đồng trong lĩnh vực KDTM.
Khái niệm Hợp đồng
Theo Vũ Văn Mẫu, khế ước được tạo ra bởi sự ưng thuận giữa hai hoặc
nhiều bên kết ước. Hai điều kiện cần để tạo ra hợp đồng là người kết ước và chủ
đích của sự ưng thuận1. Trước tiên, về mặt chủ thể, người kết ước, hay chủ thể giao
kết hợp đồng là các bên tham gia vào một quan hệ hợp đồng, có thể là cá nhân hoặc

pháp nhân. Trong một quan hệ hợp đồng, xuất hiện những cặp chủ thể tương ứng là
người có quyền (trái chủ) và người có nghĩa vụ (thụ trái). Một trái chủ có thể có
nhiều thụ trái và ngược lại, một thụ trái có thể có nhiều trái chủ.
Về mặt ý chí, chủ đích của sự ưng thuận hay mục đích của thỏa thuận có
Vũ Văn Mẫu, Việt Nam Dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước; Bộ Quốc gia Giáo dục xuất
bản, Sài Gòn, 1963, tr. 56–57
1

7


nghĩa là các bên phải thỏa thuận với nhau về một việc xác định nào đó, ý chí của
mỗi bên phải cùng hướng về một mục đích, hay cịn gọi là sự thống nhất ý chí,
nhưng khơng nhất thiết phải thỏa thuận về tất cả những vấn đề xoay quanh hay phát
sinh từ mối quan hệ của họ. Những vấn đề mà các bên chưa thỏa thuận, vì nhiều lý
do mà chủ yếu là do họ không thể lường trước những trường hợp phát sinh bất đồng
gặp phải trong tương lai, sẽ được dự liệu trong các quy định của pháp luật về chế
định hợp đồng. Ý chí của các bên cần đủ rõ ràng (khơng có nghĩa là khơng chấp
nhận sự ngầm định) và ăn nhập với nhau.
Và cuối cùng, sự thỏa thuận phải tạo lập một hệ quả pháp lý mới có khả năng
tạo thành hợp đồng. Có các bên kết ước và có sự thỏa thuận giữa các bên về một
việc xác định nào đó chưa đủ để tạo ra một hợp đồng. Hệ quả pháp lý được hiểu là
sự tạo lập, thay đổi hay chấm dứt một quyền lợi (và nghĩa vụ dân sự tương ứng)
hoặc một quan hệ pháp luật. Một thỏa thuận để được coi là hợp đồng, cần là một
trong những nguồn gốc phát sinh của nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ
ý chí của chủ thể) cả về mặt chủ quan và khách quan.
Khái niệm Kinh doanh thương mại
Theo từ điển tiếng Việt, “kinh doanh” được hiểu là tổ chức sản xuất, buôn
bán sao cho sinh lợi2. Như vậy, ở nghĩa phổ thông, kinh doanh không chỉ là buôn
bán mà bao gồm cả sản xuất. Hơn nữa, không phải tất cả các hoạt động sản xuất,

buôn bán đều là kinh doanh mà chỉ có những hoạt động sản xuất, bn bán có sinh
lợi mới được coi là kinh doanh. Theo quy định của các văn bản pháp luật thì kinh
doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn của q trình
đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy, khác với hành vi dân sự thuần thúy (cũng trao
đổi, cung ứng dịch vụ), mục tiêu chính của kinh doanh là tạo ra lợi nhuận. Đối với
các doanh nghiệp, lợi nhuận được tạo ra khi số tiền thu được trong kinh doanh
(doanh thu) lớn hơn số tiền phải chi phí (chi phí kinh doanh), tiền bán ra trừ tiền chi
phí bằng lợi nhuận. Bất cứ hoạt động nào, cho dù về mặt hình thức giống kinh

2

Viện Ngơn ngữ, Từ điển Tiếng việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994.

8


doanh nhưng mục tiêu của hoạt động đó khơng phải là tạo ra lợi nhuận đều khơng
phải là kinh doanh.
Cịn thương mại được hiểu theo nghĩa thông thường là hoạt động trao đổi hay
giao lưu hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở thuận mua vừa bán. Sự ra đời và phát triển của
thương mại gắn liền với nền sản xuất hàng hóa. Khi có sự phân cơng lao động lần thứ ba
trong xã hội, thương nghiệp ra đời, xuất hiện tầng lớp chuyên mua bán các sản phẩm để
kiếm lời- các thương nhân, lúc đó thương mại được hình thành.
Như vậy có thể hiểu thương mại là khâu nối liền sản xuất với tiêu dùng thông
qua việc luân chuyển hàng hóa, dịch vụ giữa người bán và người mua bao gồm
những hàng hóa, dịch vụ, kiến thức, tiền tệ,…giữa hai hay nhiều đối tác, và có thể
nhận lại một giá trị nào đó (bằng tiền thơng qua giá cả) hay bằng hàng hóa, dịch vụ
khác như trong hình thức thương mại trao đổi hàng hóa. Trong q trình này, người
bán là người cung cấp của cải, hàng hóa, dịch vụ... cho người mua, đổi lại người

mua sẽ phải trả cho người bán một giá trị tương đương nào đó.
Khái niệm Hợp đồng kinh doanh thương mại
Mặc dù khái niệm hợp đồng KDTM (trước đây được gọi là hợp đồng kinh tế)
không được ghi nhận trong các văn bản pháp luật hiên hành nhưng điều đó khơng
có nghĩa hợp đồng trong lĩnh vực KDTM khơng tồn tại. Bởi lẽ, khi cịn các hoạt
động trong lĩnh vực KDTM được coi là một hành vi dân sự đặc thù thì vẫn có
những quy định riêng điều chỉnh các hợp đồng với tư cách là hình thức pháp lý của
các hoạt động thương mại (các hợp đồng này được gọi chung là hợp đồng thương
mại hay hợp đồng trong lĩnh vực thương mại).
Là một loại hợp đồng dân sự, hợp đồng trong lĩnh vực KDTM có những
điểm giống hợp đồng dân sự về bản chất. Hợp đồng KDTM đều là những giao dịch
có bản chất dân sự, thiết lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và thỏa thuận của các
bên; đều hướng tới lợi ích của mỗi bên và lợi ích chung khi tham gia giao kết hợp
đồng; đều có những vấn đề cơ bản như: giao kết hợp đồng, nguyên tắc và các biện
pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu…
Tuy nhiên, do xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu của hoạt động KDTM nên hợp đồng

9


KDTM có những vấn đề được quy định có tính chất là sự phát triển tiếp tục những
quy định của dân luật truyền thống như: chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của
các bên, chế tài và giải quyết tranh chấp hợp đồng…
Như vậy, có thể hiểu khái niệm hợp đồng KDTM là hình thức pháp lý của
hành vi thương mại, là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên trong đó ít nhất một
trong các bên phải là thương nhân hoặc các chủ thể có tư cách thương nhân nhằm
xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện hoạt
động thương mại.
1.1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng kinh doanh thương mại
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng KDTM là thương nhân với thương nhân

hoặc giữa thương nhân với các chủ thể khác có nhu cầu giao dịch, mua bán hàng
hóa và đều vì mục đích lợi nhuận. Điều 6 Luật Thương mại 2019 quy định thương
nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Thương nhân có thể
là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngồi. Có những quan hệ trong
quan hệ hợp đồng trong KDTM đòi hỏi các bên đều phải là thương nhân (Hợp đồng
đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng dịch vụ quảng cáo
thương mại). Bên cạnh đó có những hợp đồng KDTM chỉ cần ít nhất một bên là
thương nhân (hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng dịch vụ bán đấu giá hàng hố,
hợp đồng mơi giới thương mại).
Thứ hai, về đối tượng của hợp đồng KDTM. Hợp đồng KDTM có đối tượng
là hàng hóa (động sản hoặc bất động sản) và công việc - dịch vụ. Đối tượng của hợp
đồng KDTM không chỉ dừng lại ở hàng hóa hữu hình mà bao gồm cả các loại hình
vơ hình như dịch vụ và các hoạt động sinh lợi khác. Đối tượng của hợp đồng
KDTM phải không thuộc trường hợp danh mục hàng hóa bị cấm.
Thứ ba, về hình thức hợp đồng KDTM. Hợp đồng KDTM có thể xác lập
bằng văn bản, bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể. Tuy nhiên đối với những trường
hợp bắt buộc bằng văn bản thì hợp đồng KDTM phải được xác lập bằng văn bản.
Thông thường các hợp đồng KDTM được xác lập bằng văn bản để đảm bảo sự an

10


toàn và dễ giải quyết khi xảy ra tranh chấp, nhưng đối với những hợp đồng đơn
giản, việc mua bán cần diễn ra nhanh chóng thì các bên có thể xác lập hợp đồng
bằng lời nói hoặc bằng một hành vi cụ thể. Luật Thương mại năm 2019 cho phép
các bên hợp đồng có thể thay thế hình thức văn bản bằng các hình thức khác có giá
trị pháp lý tương đương. Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm
điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu. Thư điện tử và các hình thức thơng tin điện
tử khác cũng được coi là hình thức văn bản. Tuy nhiên đối với một số hợp đồng mà

pháp luật quy định phải bằng hình thức văn bản thì các bên phải xác lập hợp đồng
bằng văn bản, chẳng hạn như hợp đồng cung ứng dịch vụ (theo Điều 74 Luật
Thương mại năm 2019), hợp đồng nhượng quyền thương mại (theo Điều 285 Luật
Thương mại năm 2019).
Thứ tư, mục đích phổ biến của các bên trong hợp đồng KDTM là lợi nhuận.
Trường hợp có chủ thể hợp đồng khơng nhằm mục đích lợi nhuận, thì hợp đồng
được áp dụng Luật Thương mại khi bên khơng nhằm mục đích lợi nhuận lựa chọn
áp dụng Luật Thương mại.
Thứ năm, lĩnh vực phát sinh quan hệ hợp đồng KDTM là các hoạt động
thương mại được quy định tại Điều 2 Luật Thương mại năm 2019, bao gồm mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, xúc tiến thương mại và các hoạt động có liên quan
đến thương mại khác.
Thứ sáu, nội dung của hợp đồng KDTM là tổng hợp các điều khoản mà các
bên tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận, các điều khoản này xác định những
quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên giao kết hợp đồng. Mỗi loại hợp đồng
có những quy định nhất định về các điều khoản cơ bản. Ví dụ như đối với hợp đồng
mua bán thì điều khoản cơ bản bao gồm đối tượng và giá cả. Pháp luật đề cao sự
thỏa thuận giữa các bên giao kết, tuy nhiên nội dung của hợp đồng phải tuân theo
những quy định của pháp luật hợp đồng nói chung, được quy định tại Bộ luật Dân
sự năm 2015. Loại trừ những điều khoản của pháp luật có nội dung mang tính bắt
buộc, các bên có thể thỏa thuận với nhau những nội dung khác với nội dung quy
định trong pháp luật. Ngoài ra, để làm rõ nội dung của hợp đồng, có sự bổ sung bởi
phụ lục hợp đồng. Phụ lục hợp đồng có hiệu lực như hợp đồng, nhưng nội dung của

11


phụ lục không được trái với hợp đồng. Trường hợp phụ lục có điều khoản trái với
nội dung của điều khoản trong hợp đồng thì điều khoản này khơng có hiệu lực, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác. Nếu các bên chấp nhận phụ lục hợp đồng có điều

khoản trái với điều khoản trong hợp đồng thì coi như điều khoản đó trong hợp đồng
đã được sửa đổi.
Thứ bảy, nguồn luật điều chỉnh hợp đồng KDTM.
Ở các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa thì có sự phân biệt giữa
Luật Dân sự và Luật Thương mại thì hợp đồng KDTM được điều chỉnh chủ yếu bởi
Luật Thương mại. Nhưng ở các nước theo hệ thống pháp luật Anh Mỹ thì loại hợp
đồng này được điều chỉnh bới Bộ luật Dân sự. Ở Việt Nam, trước năm 2005, khi
còn tồn tại hai hệ thống pháp luật về hợp đồng (hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân
sự) độc lập tương đối với nhau thì những nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng
thương mại được ghi nhận trọng các văn bản về hợp đồng kinh tế mà điển hình là
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Khi Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực, nội
dung của pháp luật điều chỉnh hợp đồng thương mại được quy định trong một hệ
thống văn bản pháp luật thống nhất điều chỉnh quan hệ hợp đồng dân sự gồm Luật
Thương mại năm 2019, Bộ luật Dân sự năm 2015, các luật chuyên ngành có liên
quan và các văn bản pháp luật quốc tế mà Việt Nam có tham gia. Trong đó Luật
Thương mại là nguồn luật chính về mặt nội dung điều chỉnh hợp đồng KDTM.
Những vấn đề nào Luật Thương mại năm 2019 và các luật chuyên ngành không quy
định thì áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015.
Các văn bản pháp luật quốc tế mà Việt Nam có tham gia, có liên quan như:
Hiệp định đối tác tồn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định đối tác,…Luật chuyên ngành khác bao
gồm các luật áp dụng cho từng lĩnh vực cụ thể ví dụ như Luật Đầu tư năm 2014,
Luật Dầu khí sửa đổi bổ sung năm 2008, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000,
Luật Đấu thầu năm 2013, Luật Chứng khoán năm 2019, và các văn bản pháp luật
khác như các Nghị quyết, hướng dẫn, tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao. Trong một
số trường hợp khi khơng có quy định cụ thể trong Luật thì có thể áp dụng tập qn
thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một

12



vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận
để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương
mại
1.1.2.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại.
Tranh chấp KDTM là một trong những hệ quả của hoạt động KDTM, là một
hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra trong nền kinh tế thị trường. Tranh
chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống
kinh tế-xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Khái niệm này được sử dụng
rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong những năm gần đây và ngày càng chiếm giữ vị
trí “thống lĩnh” thay thế khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm quen thuộc
của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về
quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Tại Việt Nam, khái niệm
tranh chấp thương mại lần đầu tiên được quy định tại Điều 238 Luật Thương mại
(1997): "Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại”. Theo đó, nội
hàm hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại (1997) rất hẹp so
với quan niệm về thương mại trên thế giới.
Luật Thương mại (2019) định nghĩa “Hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” (Điều 3, khoản 1,
Luật Thương mại 2019) nhưng không đưa ra khái niệm về tranh chấp KDTM. Tuy
nhiên, đạo luật này lại đưa ra các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại.
Theo Điều 4, Khoản 16, Luật Doanh nghiệp (2014) thì: “Kinh doanh là việc
thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn của q trình đầu tư từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh
lời”. BLTTDS (2004, sửa đổi bổ sung năm 2011) đã liệt kê các tranh chấp về KDTM
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. BLTTDS (2015) thì khơng liệt kê mà chỉ đưa

ra khái niệm. BLTTDS (2004) không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp thương mại” độc

13


lập mà sử dụng chung thuật ngữ “tranh chấp KDTM” nhưng nội dung của các tranh
chấp về KDTM được quy định tại Điều 29 BLTTDS (2004) thực chất là các tranh chấp
thương mại theo hướng tiếp cận của Luật Thương mại (2019). Điều này cho thấy, mặc
dù có sự khác nhau về cách thức biểu đạt và ngôn ngữ sử dụng nhưng nhìn chung quan
niệm về hoạt động thương mại và tranh chấp thương mại được thể hiện qua các quy
định trong các văn bản pháp luật tương đối nhất quán.
Từ việc tiếp cận trên, có thể hiểu tranh chấp KDTM là những mâu thuẫn, bất
đồng giữa các chủ thể phát sinh trong việc thực hiện các hoạt động có liên quan đến
lĩnh vực kinh doanh, đầu tư và thương mại.
Theo quan điểm của tác giả, có thể định nghĩa một cách ngắn gọn tranh chấp
KDTM như sau: “Tranh chấp KDTM là những mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột
về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia các quá trình của hoạt động
KDTM”.
Hợp đồng trong KDTM là sự thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh với
nhau hoặc với các bên có liên quan về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và
nghĩa vụ các bên trong lĩnh vực thương mại. Trong thực tế bắt đầu từ khi kí kết cho
đến khi kết thúc hợp đồng thường trải qua rất nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn trong
đó là một mắt xích rất quan trọng nên khi một mắt xích nào đó có vấn đề sẽ ảnh
hưởng đến hợp đồng được kí kết giữa các bên và trực tiếp đến lợi ích của các chủ
thể. Nếu vấn đề đó khơng được giải quyết sẽ làm phát sinh tranh chấp về hợp đồng.
Theo quan điểm của tác giả, có thể đưa ra một khái niệm về tranh chấp hợp
đồng KDTM như sau: “Tranh chấp hợp đồng KDTM là sự mâu thuẫn, bất đồng hay
xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ theo hợp đồng giữa các chủ thể tham gia quan hệ
hợp đồng”.
1.1.2.2. Đặc điểm của tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại.

- Thứ nhất, tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại là những mâu thuẫn
(bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ
thể. Quan hệ kinh doanh thương mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương
mại là điều kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Trong hoạt động thương mại,
các bên vừa hợp tác đồng thời vừa cạnh tranh nhau để đạt được những mục đích đề

14


ra. Do đó, việc phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình thực hiện
quyền và nghĩa vụ của các bên là điều tất yếu. Các quan hệ kinh doanh thương mại
có bản chất là các quan hệ tài sản nên nội dung tranh chấp thường liên quan trực
tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên. Thơng thường, những mâu thuẫn bất đồng về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh trong các mối quan hệ cụ thể bao gồm: (i)
Mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; kí gửi; thuê, cho
thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn kĩ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng
đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng
đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá
khác; đầu tư tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; (ii) Tranh chấp về
quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều
có mục đích lợi nhuận; (iii) Tranh chấp giữa cơng ty với các thành viên của công ty,
giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của cơng ty;
(vi)Tranh chấp khác về KDTM mà pháp luật có quy định.
- Thứ hai, về phạm vi tranh chấp: Những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
giữa các bên phải phát sinh từ hoạt động KDTM. Căn cứ phát sinh tranh chấp hợp
đồng KDTM là hành vi vi phạm hợp đồng. Tranh chấp KDTM phải là những mâu
thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ những hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hố, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.

- Thứ ba, về chủ thể tranh chấp: Tranh chấp hợp đồng KDTM chủ yếu là
những tranh chấp phát sinh giữa các thương nhân (cá nhân kinh doanh, pháp nhân)
với nhau. Ngoài thương nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp KDTM, trong
những trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức khác (khơng phải là thương nhân)
cũng có thể là chủ thể của tranh chấp KDTM khi trong các giao dịch bên khơng có
mục đích sinh lợi chọn áp dụng luật thương mại. Về bản chất, hoạt động không
nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là
hoạt động thương mại thuần túy, nhưng bên khơng nhằm mục đích sinh lợi đã chọn
áp dụng luật thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại và

15


tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật này phải được quan niệm là tranh chấp
KDTM. Tranh chấp KDTM đã trở thành một hiện tượng tất yếu khách quan của nền
kinh tế thị trường. Khi tranh chấp KDTM phát sinh đòi hỏi cần phải được giải quyết
một cách minh bạch và hiệu quả; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể,
góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong hoạt động KDTM, bảo đảm trật tự
pháp luật, kỷ cương xã hội.
- Thứ tư, về tính chất của tranh chấp: Tranh chấp KDTM có tính chất đa
dạng, phức tạp, từ tranh chấp này có thể dẫn đến tranh chấp khác. Đó là tính phức
tạp và đa dạng của các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể có lợi ích khác nhau trong
nền kinh tế thị trường. Mặt khác, mua bán trao đổi là hoạt động diễn ra thường
xuyên, liên tục, các chủ thể cùng một lúc có thể thiết lập nhiều mối quan hệ kinh tế
khiến cho những mối quan hệ này tạo thành một chuỗi quan hệ có liên quan đến
nhau khiến cho nếu tranh chấp phát sinh ở quan hệ này sẽ rất có thể dẫn đến tranh
chấp trong mối quan hệ khác.
1.1.2.3. Phân loại các tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại
- Theo phạm vi lãnh thổ, có thể phân chia làm tranh chấp hợp đồng KDTM
trong nước và tranh chấp hợp đồng KDTM có yếu tố nước ngồi.

- Theo chủ thể, có thể phân chia làm tranh chấp hợp đồng KDTM giữa hai
bên và giữa nhiều bên.
- Tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các bên:
+ Tranh chấp do người mua không thực hiện hay thực hiện không đúng theo
quy định của hợp đồng.
+ Tranh chấp do người bán không thực hiện hay thực hiện không đúng theo
quy định hợp đồng.
- Tranh chấp hiện tại và tranh chấp tương lai. Tranh chấp hiện tại là tranh chấp đã
xảy ra đang cần được giải quyết. Tranh chấp tương lai được hiểu là tranh chấp có thể xảy
ra và việc giải quyết được dự liệu trong một điều khoản của hợp đồng.
- Tranh chấp theo nghiệp vụ giao dịch:
+ Tranh chấp liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hoá
+ Tranh chấp liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hoá

16


+ Tranh chấp liên quan đến điều khoản thanh toán
- Tranh chấp dựa trên tính chất pháp lý của hợp đồng (gồm có giá trị pháp lý
và hiệu lực của hợp đồng)
+ Tranh chấp liên quan đến việc áp dụng sai chế độ ký kết hợp đồng (vi
phạm nguyên tắc ký kết; căn cứ ký kết không hợp pháp; chủ thể ký kết hợp đồng
không hợp pháp, hợp lệ).
+ Tranh chấp liên quan đến nội dung của hợp đồng
+ Tranh chấp liên quan đến cách thức ký kết hợp đồng.
- Tranh chấp trong tiến trình thực hiện hợp đồng.
+ Tranh chấp trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng
+ Tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng (do người bán không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình như đã thoả thuận trong hợp
đồng; do người mua không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình

trong hợp đồng).
1.2. Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tòa án.
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tòa án
Mối quan hệ trong hoạt động kinh tế tương đối đa dạng và phức tạp vừa
mang tính xung đột, vừa mang tính hợp tác. Tuy nhiên, khi các chủ thể kinh tế tham
gia trong quan hệ hợp đồng đều biết rằng việc có thể xảy ra tranh chấp và việc lựa
chọn phương thức giải quyết tranh chấp đó cũng là vấn đề đặt lên hàng đầu, có thể
ngay trong thỏa thuận tại Hợp đồng cũng có thể tại thời điểm có tranh chấp. Phương
thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước được tiến
hành theo trình tự, thủ tục luật định, nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định
của Tồ án về vụ tranh chấp nếu khơng có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo
thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước.
Giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tịa án là việc Tịa án có thẩm
quyền tiến hành các hoạt động tố tụng cần thiết để giải quyết các mâu thuẫn phát
sinh từ các hợp đồng KDTM mà các bên không tự giải quyết bằng các thương
lượng, khơng có thỏa thuận hịa giải thương mại hay trọng tài mà một trong các bên
tranh chấp có khởi kiện vụ án ra Tịa án có thẩm quyền.

17


Như vậy, khi các tranh chấp hợp đồng phát sinh do bất đồng giữa các chủ
thể trong quá trình thực hiện hợp đồng mà các bên không thể tự thỏa thuận, tự liên
hệ với nhau để hòa giải, đồng thời đã sử dụng các phương thức khác trong tranh
chấp hợp đồng thương mại để giải quyết nhưng mang không lại kết quả thì có thể
nộp đơn đến Tịa án, u cầu Tòa án giải quyết các tranh chấp về hợp đồng.
1.2.2. Đặc điểm giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Tịa án.
Theo những phân tích trên, khi một trong các bên khởi kiện ra Tòa án yêu
cầu giải quyết những vấn đề ảnh hưởng đến lợi ích của họ hay quyền lợi của họ bị
xâm phạm trong khi giao kết hợp đồng thì thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng

KDTM tại Tòa án được bắt đầu.
Thứ nhất, về trình tự thủ tục khi giải quyết tranh chấp Hợp đồng KDTM tại
Tịa án. Các trình tự, thủ tục giải quyết đối với những vụ án này thường cũng tuân
thủ đúng theo BLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành mà pháp luật Việt Nam
quy định. Thể hiện qua các cấp xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm) đến các thủ tục xem xét
lại bản án, quyết định (Giám đốc thẩm hoặc Tái thẩm).
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tịa án ln tôn
trọng quyền sự định đoạt của các đương sự.
Trong quan hệ kinh doanh, các chủ thể luôn muốn đảm bảo được quyền tự
do kinh doanh, tự do hợp đồng của các chủ thể kinh doanh, không muốn ai can
thiệp vào hoạt động kinh doanh đúng pháp luật của hộ, kể cả Nhà nước. Các bên
tranh chấp có quyền lựa chọn phương thức để giải quyết tranh chấp sao cho có lợi
cho bản thân. Tòa án giải quyết chỉ khi các đương sự yêu cầu hoặc trường hợp thỏa
thuận bằng Trọng tài vơ hiệu. Khi có tranh chấp xảy ra, đương sự có quyền tự quyết
định việc có khởi kiện hay không, đưa ra các yêu cầu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp cho mình, tùy thuộc vào phạm vi và mức độ khác nhau. Kể cả khi đưa vụ án ra
giải quyết thì các đương sự vẫn có quyền thay đổi, bổ sung hoặc thậm chí có thể rút
u cầu khởi kiện.
Ngoài ra, trước khi khởi kiện, đương sự có quyền mời Luật sư hay người nào
đó chuẩn bị hồ sơ khởi kiện, phương án khởi kiện và có thể thay mặt đương sự tham
gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tại Tịa án mà không cần trực

18


tiếp phải có mặt tại Tịa khi khởi kiện.
Thứ ba, tính cưỡng chế khi giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM tại Tòa án.
Sau khi được Tòa án ra Bản án hoặc Quyết định thì buộc các bên phải thực
hiện đúng theo Bản án hoặc Quyết định đó. Đồng thời, việc thi hành này sẽ có biện
pháp cưỡng chế nếu các bên không tự nguyện thi hành án. Đây là điểm là một ưu

điểm so các phương thức giải quyết khác trong tranh chấp KDTM, lợi ích của bên
bị xâm phạm được đảm bảo. Tuy nhiên, khi giải quyết tranh chấp KDTM tại Tịa án
thì cũng có một số điểm hạn chế nhất định. Các thủ tục giải quyết tranh chấp thơng
qua Tịa án thường dài hơn so với giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Đồng thời,
trong hoạt động KDTM thì việc xét xử cơng khai tại Tịa án khơng phù hợp (có thể
làm sút giảm uy tín của các bên trên thương trường; lộ các bí mật kinh doanh…).
Ngoài ra, bản án xét xử xong chưa được thi hành ngay mà các bên có quyền kháng
cáo khiếu nại nên thời gian kéo dài.
1.2.3. Bản chất của giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại
thơng qua Tịa án
Về bản chất, phương thức giải quyết tranh chấp tại tịa án là một phương
thức mang ý chí quyền lực nhà nước, Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước để giải
quyết tranh chấp trên cơ sở các quy định của pháp luật. Khi vụ án tranh chấp có
Quyết định hoặc bản án của tịa án có hiệu lực thì bắt buộc đương sự phải thực thi
và có thể kèm theo các biện pháp cưỡng chế thi hành. Bởi vậy, các đương sự thường
lựa chọn Tòa án là nơi giải quyết cuối cùng để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng khi khơng thành cơng trong việc sử dụng cơ chế thương lượng, hòa giải
Như vậy, bản chất của giải quyết tranh chấp hợp đồng KDTM thông qua Tòa án
được thể hiện như sau:
Thứ nhất, cơ quan tài phán nhân danh nhà nước để giải quyết tranh chấp. Tòa
án được nhà nước giao quyền lực để mang lại sự công bằng khi xã hội ngày càng
phát triển, việc phát sinh nhiều tranh chấp trong hoạt động KDTM là khơng thể
tránh khỏi. Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều phương thức để lựa chọn giải quyết
tranh chấp nhanh chóng, ngắn gọn, tốn ít chi phí nhưng khơng đảm bảo được quyền
lợi cuối cùng của họ có thể lấy lại được. Do đó, phán quyết của tịa án được đảm

19



×