Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.56 KB, 11 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>A. MỞ ĐẦU. 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Nguyễn Công Hoan (1903 – 1977) là một trong những nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Ông được coi là người mở đầu trào lưu văn học hiện thực phê phán văn học giai đoạn 1930 -1945 và là một bậc thầy về truyện ngắn trào phúng. Nguyễn Công Hoan bắt đầu viết văn từ năm 17 tuổi và đến năm 20 tuổi thì ông đã có sách in riêng. Ông là một hiện tượng trong văn học đương thời. Nguyễn Công Hoan đã có gần 60 năm cầm bút và để lại một sự nghiệp văn học đồ sộ. Là tác giả của trên 200 truyện ngắn và gần 30 truyện dài, tác giả cũng tự hào: “Về số lượng sách, nếu tôi có thua, thì chỉ thua Lê Văn Trương thôi”. Nguyễn Công Hoan được đánh giá là nhà văn viết truyện ngắn bậc thầy. Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan mở ra trước mắt người đọc một thế giới mới lạ và độc đáo. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn đậm chất kịch, tiếng cười trí tuệ và những tình huống xung đột tạo kịch tính đã khắc họa được hình tượng các nhân vật trong xã hội đương thời. Song cùng với thể loại tiểu thuyết, ông cũng có những đóng góp không nhỏ vào tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Các sáng tác của ông không chỉ được bạn đọc trong nước yêu mến mà còn được chọn dịch và giới thiệu ra nhiều nước: Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Bungari, Hunggari, Anbani, Đức, Ấn Độ, Tây Ban Nha, Tiệp Khắc. Bên cạnh đó, Nguyễn Công Hoan là tác giả tiêu biểu được đưa vào giảng dạy trong các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học phổ thông. Do vậy vấn đề nghiên cứu “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan” là cần thiết để có thể đi sâu vào tìm hiểu các giá trị tác phẩm cũng như tài năng nghệ thuật của ông..
<span class='text_page_counter'>(2)</span> 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Trong lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, những sáng tác của Nguyễn Công Hoan chiếm một vị trí đặc biệt. Ông là một trong những người viết truyện ngắn thành công nhất và tạo nên sự mới mẻ cho thể loại văn học này ở nước ta vào đầu thế kỉ XX. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đi sâu tìm hiểu các sáng tác của Nguyễn Công Hoan. Có hàng trăm bài báo viết về các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan và các chuyên khảo đánh giá hệ thống, sự nghiệp văn chương của ông. Hải Triều - nhà phê bình đương thời cho phái nghệ thuật vị nhân sinh cũng đã cảm nhận khá sâu sắc ý nghĩa của những vấn đề xã hội trong những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan: “ Cái chủ trương nghệ thuật vị nhân sinh của tôi ngày nay đã được biểu hiện rõ bằng những bức tranh rất linh hoạt dưới ngòi bút tài tình của nhà văn Nguyễn Công Hoan ”. Tập thể tác giả cuốn “ Sơ thảo Lịch sử văn học Việt Nam 19301945” nhận xét : “Ông sở trường về cách mô tả tư cánh hèn hạ, đê tiện hết chỗ nói của bọn quan lại sâu mọt, bọn nha lại hãnh tiến giàu có sang trọng và khinh người”. Viết về Nguyễn Công Hoan, Trúc Hà với bài “Một ngòi bút mới: ông Nguyễn Công Hoan” ( Đăng trên Nam Phong - 1932) đã tỏ ra khá tinh tế khi nhận ra giọng văn mới mẻ pha chất hài hước của Nguyễn Công Hoan: “Văn ông Hoan có cái hay, rõ ràng, sáng sủa, thiết thực, hơi văn nhanh và gọn, lời văn hàm một giọng trào phúng, lại thường hay đệm vào một vài câu hoặc một vài chữ có ý khôi hài bông lơn thú vị". Nguyễn Hoành Khung trong “Lời giới thiệu truyện ngắn Việt Nam 1930 -1945, tập 1” đã nhận xét: “Truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan là hiện tượng chưa có tới hai lần trong văn học Việt Nam” Nguyễn Thanh Tú trong bài: “Kịch hóa trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan ” (Thông báo khoa học của các trường Đại học, Hà Nội, 1996) trong lời giới thiệu: “Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đã đem lại tiếng cười bằng một hình thức nghệ thuật mới: kịch.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> hóatrần thuật, làm phong phú loại hình kể chuyện, làm giàu cho nghệ thuật tự sự trong văn học Việt Nam ở thế kỉ này”. Còn Nguyễn Đăng Mạnh đã ra nhận định chính xác và sâu sắc về tiếng cười Nguyễn Công Hoan trong truyện ngắn trào phúng: “Phong cách Nguyễn Công Hoan không thiên về lối thâm trầm kín đáo. Ông thích bốp chát, đánh vỗ ngay vào mặt đối phương. Tiếng cười đả kích của Nguyễn Công Hoan, vì thế, thường là những đòn đơn giản mà ác liệt (…). Nguyễn Công Hoan là một nhà văn kể chuyện có duyên, có sức hấp dẫn, đối thoại có kịch tính, giọng kể truyện tự nhiên hoạt bát, lối ví von so sánh độc đáo, cách chơi chữ táo bạo, dí dỏm,.... Nhưng về đại thể, bí quyết chủ yếu vẫn là nghệ thuật dẫn dắt tình tiết sao cho mâu thuẫn trào phúng, tình thế hài hước bật ra ở cuối tác phẩm một cách thật đột ngột, bất ngờ”. Lê Minh – con gái nhà văn Nguyễn Công Hoan, người hết sức gần gũi và thấu hiểu cha mình đã viết trong bài “Sức trẻ của một cây bút” (in trong Tuyển tập Nguyễn Công Hoan, tập I, NXB Văn học, Hà Nội, 1983): “Ngôn ngữ của ông là ngôn ngữ ta nói hằng ngày được chọn lọc và nâng cao, có khi ông đưa ca dao, tục ngữ vào truyện một cách tự nhiên, thoải mái. Chữ ông dùng giàu hình ảnh, từng nhân vật mang sắc thái ngôn ngữ riêng, bộc lộ tâm lý xã hội”. Nhìn chung thì các nhà nghiên cứu chỉ mới đứng trên một góc độ, một phương diện để nghiên cứu, đánh giá chung về phong cách của Nguyễn Công Hoan. Tuy nhiên nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong các truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan thì hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề lý luận và thực tiễn. Đây là một đề tài hay và hấp dẫn, tôi hi vọng rằng khóa luận này ít nhiều có đóng góp để hiểu sâu sắc hơn về nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại thế kỉ XX..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Trong khuôn khổ của phạm vi đề tài và giới hạn của khóa luận, tôi tập trung chủ yếu vào các sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Công Hoan đồng thời liên hệ, so sánh với các nhà văn khác. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thực hiện đề tài, tôi sử dụng rất nhiều phương pháp nhưng chủ yếu là các phương pháp: - Phương pháp hệ thống - Phương pháp đối chiếu - so sánh - Phương pháp lịch sử - Các thao tác thống kê, phân loại, phân tích, tổng hợp. 5. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Thông qua lý luận về nghệ thuật trần thuật, đi sâu tìm hiểu những đặc sắc và thành công nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, từ đó chỉ ra đóng góp của nhà văn vào sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại. - Góp phần tìm hiểu và giảng dạy những tác phẩm văn học của Nguyễn Công Hoan trong nhà trường. 6. CẤU TRÚC KHÓA LUẬN: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa luận được cấu trúc thành hai chương: - CHƯƠNG I:. Những vấn đề khái quát chung. - CHƯƠNG II: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan..
<span class='text_page_counter'>(5)</span> B. NỘI DUNG. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT CHUNG 1. TÁC GIẢ NGUYỄN CÔNG HOAN 1.1.. Cuộc đời. - Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903 trong một gia đình quan lại xuất thân khoa bảng bắt đầu thất thế. - Năm lên bốn tuổi, Nguyễn Công Hoan được người bác ruột (Nguyễn Đạo Quán) nuôi cho ăn học. - Bà nội Nguyễn Công Hoan thuộc nhiều thơ Đường, truyện Nôm. - Xuất thân nghề giáo và nhiều lần thay đổi địa bàn làm việc, chứng kiến nhiều cảnh sống của các tầng lớp xã hội. - Ông bắt đầu viết văn từ lúc 17 tuổi khi đang học ở trường Bưởi. năm 20 tuổi, ông có tập truyện ngắn đầu tiên (Kiếp hồng nhan) được xuất bản. 1.2.. Sự nghiệp sáng tác. Nguyễn Công Hoan bắt đầu cầm bút viết vào khoảng những năm 1920 – 1923 và bắt đầu khẳng định ngòi bút của mình vào những năm 1929. Ngay từ buổi đầu cầm bút, Nguyễn Công Hoan đã tự vạch cho mình một con đường đi, có thể nói đó là con đường tích cực, tiến bộ so với tình hình văn học công khai nước ta lúc bấy giờ..
<span class='text_page_counter'>(6)</span> 1.3.. Quan điểm nghệ thuật. - Cuộc sống thôi thúc ông cầm bút viết về “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Ngay từ những ngày đầu cầm bút ông đã viết về những đề tài phản ánh hiện thực xã hội, đả kích không thương tiếc bọn quan lại tham lam, bỉ ổi đồng thời rất thương cảm với cảnh cơ cực của những người nghèo khổ và bênh vực họ. - Với Nguyễn Công Hoan “người viết văn không chỉ cần có vốn về sống, vốn về chữ nghĩa mà còn vốn về văn hóa nữa”, do đó với nghề văn, đòi hỏi trước tiên là cái tâm, cái đức - Ông quan niệm : “Văn chương không nên chỉ là một thứ để giải trí. Nó phải thêm nhiệm vụ có ích”.. 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT. 2.1.. Nghệ thuật trần thuật. - Trần thuật là một phương diện cơ bản của nghệ thuật tự sự - một phương thức biểu đạt thông dụng mà văn học lựa chọn để hiểu biết và phản ánh đời sống. - Nghệ thuật trần thuật giúp cho người nghiên cứu đi sâu khám phá những đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của mỗi nhà văn, trên cơ sở đó, người đọc tiếp nhận và giải mã cấu trúc bên trong tác phẩm, đồng thời có thể đánh giá những sáng tạo, những đóng góp của nhà văn đối với sự phát triển truyện ngắn nói riêng và quá trình hiện đại hoá văn xuôi Việt Nam nói chung. 2.2.. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn:. - Kết cấu của truyện ngắn thường là một sự tương phản, liên tưởng. - Bút pháp trần thuật thường là chấm phá. - Giọng điệu, ngôn ngữ gần với cuộc sống hàng ngày..
<span class='text_page_counter'>(7)</span> CHƯƠNG II: NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN 1. KẾT CẤU TRẦN THUẬT 1.1.. Kết cấu đối lập 1.1.1. Đối lập giữa các nhân vật 1.1.1.1. Truyện ngắn có chủ đề phê phán xã hội. Hầu hết truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan đều xoay quanh sự đối chọi giữa kẻ giàu và người nghèo. Kẻ giàu là bọn có thế lực, địa vị, bọn thực dân, bọn quan lại, cả quan ông lẫn quan bà, bọn tư sản, địa chủ, cường hào, lính tráng – thủ phạm gây ra những chuyện nhơ nhuốc, xấu xa trong xã hội. Người nghèo là lớp dân nghèo thành thị, phu xe, kép hát người ở, ăn mày, gái điếm, lưu manh,… và họ dưới con mắt của Nguyễn Công Hoan cũng không tránh khỏi những thói tật, các nết xấu. Thế giới nhân vật của Nguyễn Công Hoan hầu như đều có ngoại hình xấu xí, điều này đã trở thành một ý thức thẩm mĩ trong các sáng tác của ông. “Tôi vẽ người xấu nhạy hơn người tốt. Bởi vì tôi vốn bi quan nên nhìn mọi vật bằng con mắt hoài nghi, chỉ thấy phía xấu. Phía xấu dễ nhập hơn phía tốt”. 1.1.1.2. Truyện ngắn có chủ đề đạo đức luân lí, hôn nhân gia đình Ở những truyện xoay quanh chủ đề đạo đức luân lý, hôn nhân gia đình, quan hệ luyến ái nam nữ thường thể hiện sự đối lập, xung đột giữa hai thế hệ: già và trẻ, hai giới tính: nam và nữ, đôi khi lại diễn ra giữa vợ lẽ và vợ cả: Thế là mợ nó đi Tây, Người vợ lẽ bạn tôi, Cô Kếu – gái tân thời,… Ở những loại truyện này, nhìn chung, Nguyễn Công Hoan thường đứng về phía người già, nam giới hay vợ cả để phê phán. Trong Đời viết văn của tôi, Nguyễn Công Hoan thổ lộ: “Tôi sinh trưởng trong một gia đình phong kiến suy tàn vì chế độ đổi thay, nên bị lép vế. Do đó tôi đã chịu sự giáo dục hằn học với bọn quan lại ôm chân đế quốc để mưu cầu phú quý trên lưng những người nghèo hèn”..
<span class='text_page_counter'>(8)</span> 1.1.2. Đối lập giữa các sự cố 1.1.2.1.. Đối lập giữa hình thức và nội dung. Những vấn đề xã hội, vấn đề đạo đức trong quan hệ gia đình mà Nguyễn Công Hoan phản ánh trong tác phẩm thường của mình thường mang vẻ ngoài đẹp đẽ, có ý nghĩa nhưng thực chất bên trong xấu xa, vô nghĩa. Đây là kết cấu đối lập được khai thác phổ biến trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan “Có thể nói cấu trúc truyện tạo nên cơ sở xung đột giữa hình thức và nội dung chiếm đại bộ phận trong truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan”. 1.1.2.2.. Đối lập giữa nguyên nhân nhỏ nhặt, tầm thường và kết quả to tát, nghiêm trọng. Mâu thuân giữa nguyên nhân và kết quả: Thằng ăn cắp, Thế cho nó chừa, Nỗi lòng ai tỏ, Lại chuyện con mèo … 1.1.2.3.. Đối lập giữa phúc và họa. Các tác phẩm loại này chiếm tỉ lệ không cao nhưng là những sáng tạo độc đáo của Nguyễn Công Hoan: Được chuyến khách, Tấm giấy một trăm, Thật là phúc, Hé! Hé! Hé!, Cái nạn ô tô,... Xã hội đảo điên như một sân khấu diễn trò, họa phúc không thể biết trước và tất cả như muốn lộn trái. Nhân vật trào phúng trong những tác phẩm loại này thường được miêu tả như những người gặp được điều may mắn, hạnh phúc nhưng thực ra lại gặp phải những tai họa khôn lường.. 1.2.. Những lời trữ tình ngoại đề độc đáo. - Những lời trữ tình ngoại đề này thường ngắn gọn, được đưa vào trong từng trường hợp cụ thể: đầu truyện, giữa truyện hoặc cuối truyện. - Mang lại hiệu quả trào phúng cao.. 2. 2.1.. NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT Ngôn ngữ.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> 2.1.1. Ngôn ngữ nhân vật 2.1.1.1. Ngôn ngữ đối thoại Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật giúp người đọc cảm nhận được tính cách, quan điểm, những điểm nhìn khác nhau của nhân vật thông qua cuộc đối thoại. Trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, những mẫu đối thoại thường sinh động, có khả năng bộc lộ rõ tính cách nhân vật và truyền đạt chủ đề của tác phẩm.. 2.1.1.2. Ngôn ngữ độc thoại Để thể hiện thế giới nội tâm, những suy nghĩ, tâm tình của nhân vật thì phù hợp nhất là hình thức ngôn ngữ độc thoại. Trong các sáng tác của Nguyễn Công Hoan, thế giới nội tâm của nhân vật được bộc lộ một cách chân thức, với những suy nghĩa, cảm nhận về con người và thế giới xung quanh mình. 2.1.2. Ngôn ngữ quần chúng - Ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan là ngôn ngữ của quần chúng được chọn lọc và nâng cao, đậm chất ca dao, tục ngữ. - Giản dị, giàu hình ảnh, cụ thể, hay so sánh, ví von.. 2.2.. Giọng điệu 2.2.1. Giọng điệu hài hước, mỉa mai. Nguyễn Công Hoan đã chế giễu, mỉa mai, châm biếm, đả kích không thương tiếc từ bọn quan lại hãnh tiến đến lính tráng ở các phủ huyện, từ bọn tư sản chỉ biết thờ phụng đồng tiền đến bọn.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> địa chủ cường hào, ác bá ở nông thôn rồi đến bọn thanh niên nam nữ “hư hỏng” đua đòi theo lối sống Âu hóa với biết bao chuyện bỉ ổi, vô đạo, vô luân trong xã hội đương thời. 2.2.2. Giọng điệu giễu nhại Lời văn trần thuật của Nguyễn Công Hoan luôn có giọng giễu nhại để hạ bệ tất cả những gì gọi là nghiêm trang, nghiêm túc; biến chúng thành trò cười với hình thức mô phỏng một cách hài hước lời nói, giọng điệu của nhân vật hay phong cách ngôn ngữ của một tầng lớp nào đấy.. 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG TRUYỆN 3.1.. Đẩy mâu thuẫn trào phúng phát triển cao độ. Mỗi truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là một xung đột trào phúng mang đậm chất kịch. Ở đó sự đối lập, sự mâu thuẫn được dùng như một nguyên tắc để xây dựng các mối quan hệ tương tác giữa các hình tượng, nhằm bộc lộ một tật xấu, một thói hư nào đó của một loại người nhất định.. 3.2.. Kết thúc đột ngột, bất ngờ. Để gây cười, truyện thường kết thúc đột ngột, tác giả đã sáng tạo ra nhiều thủ pháp: + Giả định, suy đoán để đánh lạc hướng + Xây dựng nhân vật ngớ ngẩn + Tạo chuỗi lời nói mập mờ, hai nghĩa Nguyễn Công Hoan từng nói: “Câu kết của tôi là một cái lờ. Nó thường làm độc giả đột ngột cũng như đến chỗ hẹp, nước chảy mạnh, thì cá bất thình lình bị đẩy tuột vào hom”.. C. KẾT LUẬN.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.
<span class='text_page_counter'>(12)</span>