Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Đề cương môn lịch sử Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (826.1 KB, 26 trang )

Câu 1; Nêu những hiểu biết của em về sự kiện cách mạng tháng Tám và
Bản tuyên ngôn độc lập
A,Sự Kiện cách mạng tháng Tám (1945)
Cách mạng tháng Tám là tên gọi được ngành sử học chính thống tại Việt
Nam hiện nay dùng để chỉ việc Việt Minh tiến hành khởi nghĩa buộc
chính phủ Đế quốc Việt Nam do vua Bảo Đại phê chuẩn, được Nhậtbảo
hộ, bàn giao chính quyền trung ương và các địa phương cho lực lượng
này trong tháng 8 năm 1945. Việc chuyển giao quyền lực được chính
phủ Đế quốc Việt Nam thực hiện cơ bản trong hồ bình, ít có đụng độ dù
xảy ra tranh chấp với lực lượng Nhật, Đại Việt, Hòa Hảo,... ở một số địa
phương. Lực lượng quân đội Nhật tại Việt Nam khơng có phản ứng đáng
kể trước những hoạt động của Việt Minh vì lúc này Nhật đã tuyên bố đầu
hàng đồng minh và đang chờ quân đồng minh tới giải giáp, hơn nữa vua
Bảo Đại và Thủ tướng Đế quốc Việt Nam Trần Trọng Kim đã từ chối lời
đề nghị của Tư lệnh quân đội Nhật giúp chính phủ chống lại Việt Minh.[1]
Cũng trong thời điểm này các đảng phái khác như Đại Việt, Việt Nam
Quốc dân đảng... cũng có hành động tương tự buộc chính quyền Đế quốc
Việt Nam tại một số ít địa phương trao quyền lực cho họ. Trừ một số địa
phương tỉnh lỵ Hải Ninh (nay thuộc Quảng Ninh), Hà Giang, Lào
Cai, Lai Châu, Vĩnh Yên nằm trong tay Việt Quốc, Việt Cách và quân
Tưởng; còn lại chính quyền Việt Minh đã được thiết lập trên toàn bộ các
tỉnh lỵ (muộn nhất 28/8: Đồng Nai Thượng, Hà Tiên), hầu hết địa
phương trong cả nước. Một số nơi có khó khăn hơn như Hà Giang, quân
Tưởng bức rút quân Nhật (29/8), Cao Bằng (giành chính quyền 21/8
nhưng sau đó qn Tưởng tràn vào), Lạng Sơn (giành chính quyền sau
đó Tưởng tràn vào, tháng 10 mới thành lập chính quyền cách mạng),
Vĩnh Yên (Quốc dân đảng nắm giữ), Hải Ninh - Móng Cái (Cách mệnh
Đồng Minh hội nắm), một số địa bàn ở Quảng Ninh (do Đại Việt, Cách
mệnh Đồng Minh hội nắm), ở Đà Lạt (quân Nhật cịn kháng cự mạnh
như ngày 3/10)...
Kết quả chính phủ cũ giải tán và sau đó đến ngày 2 tháng


9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tun ngơn Độc lập Việt Nam khai
sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

1


Bối cảnh lịch sử
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phe Trục gồm Đức, Ý, Nhật đánh
lại phe Đồng Minh gồm Anh, Pháp, Liên Xơ. Sau có Mỹ và nhiều nước
nữa tham chiến.
Vào tháng 9 năm 1940, ngay giữa Thế chiến thứ hai, Chính phủ
Vichy của Pháp, vì đã đầu hàng Đức Quốc Xã, đồng ý cho quân đội Nhật
Bản đổ bộ vào Bắc Kỳ. Ngay lập tức quân đội Nhật dùng đó làm bàn đạp
ảnh hưởng đến các chiến trường Trung Quốc vàĐông Nam Á. Trên thực
tế, đây là một điểm quan trọng trong chiến lược quân sự của Nhật nhằm
thống trị tồn bộ vùng Đơng Nam Á. Trong khi chờ đợi cuộc đại thắng
của Đức tại châu Âu, Nhật tạm thời duy trì hệ thống bảo hộ của Pháp
tại Đông Dương. (Trong những trận đánh lớn hồi đó có thể kể đến
việc hải qn và khơng qn Nhật xuất phát từ Cam Ranh và Sài
Gòn tiêu diệt Hạm đội Viễn Đông của Anh).
Thời gian này, Đảng Cộng Sản Đông Dương lãnh đạo nhiều cuộc khởi
nghĩa chống thực dân Pháp, như Khởi nghĩa Nam Kỳ, Khởi nghĩa Bắc
Sơn nhưng đều thất bại. Những binh lính tham gia chiến tranh Thái Lan
thực hiện cuộc Binh biến Đô Lương cũng thất bại.
Vào tháng 5 năm 1941 các lực lượng ái quốc, trong đó nịng cốt là Đảng
Cộng Sản Đơng Dương, dẫn đầu bởi Hồ Chí Minh, tập họp tại một địa
điểm gần biên giới Việt-Trung, tham gia một tổ chức đứng về phía Đồng
Minh giành độc lập cho Việt Nam gọi là Việt Nam Độc lập Đồng minh,
thường được gọi vắn tắt là Việt Minh. Tổ chức này xây dựng một chiến
khu do họ kiểm soát ở biên giới Việt Trung. Ngày 22 tháng

12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp thành lập một trung đội 34 người mang
tên Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (một trong những tiền thân
của Quân đội Nhân dân Việt Nam), ngay sau khi thành lập đã tiến đánh
quân Nhật, mở rộng chiến khu. Trước khi Nhật đầu hàng Đồng Minh,
chiến khu đã bao gồm nhiều tỉnh vùng đông Bắc Bắc Bộ, gọi là chiến
khu Việt Bắc.
Trong khi đó, phản ứng trước sự kiện Nhật đảo chính Pháp, ngày 12
tháng 3 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam ra chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" nhằm
phát động cao trào kháng Nhật cứu nước (thay đổi hình thức tun
truyền, tổ chức đấu tranh để thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa, tập
dượt quần chúng tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền).
2


Dưới sự cai trị của Nhật, từ tháng 10 năm 1944 đến tháng
5 năm 1945, nạn đói khủng khiếp diễn ra làm 2 triệu người chết. Đây là
thời cơ để Việt Minh xây dựng lực lượng lớn khắp cả nước, họ tập hợp
nhân dân cướp các kho thóc Nhật. Đồng thời, một đại hội đại biểu toàn
quốc họp trên chiến khu, thành lập Quốc dân Đại hội, tức quốc hội lâm
thời. Khi Nhật thất bại, khởi nghĩa nổ ra trên tồn quốc, đó là Cách
mạng tháng Tám. Cách mạng diễn ra nhanh chóng với sự tham gia của
hầu hết dân chúng, Việt Minh giành được chính quyền trên cả nước
trong mười mấy ngày.
Tại Châu Âu, Đức thất trận và đầu hàng ngày 7 tháng 5 năm 1945.
Ngày 6 tháng 8, Hoa Kỳ ném hai trái bom nguyên tử trên
đảo Hiroshima và Nagasaki. Ngày 15 tháng 8, Nhật hoàng tuyên bố đầu
hàng vơ điều kiện. Do đó qn Nhật tại Việt Nam dao động và tan rã.
Theo tối hậu thư Postdam của phe đồng minh gửi Nhật ngày 26 tháng 7,
quân đội Nhật sẽ bị giải giới do quân đội Trung Hoa ở bắc vĩ tuyến 16, và

do quân đội Anh từ nam vĩ tuyến 16.
Trước tình hình đó Nhật bàn giao cho Khâm sai Bắc Kỳ Phan Kế Toại bộ
máy hành chính địa phương, sở Bảo An, Sở Mật thám trung ương, sở
Kiểm duyệt và một số công sở khác. Nhật chỉ giữ quyền kiểm sốt Ngân
hàng Đơng Dương và Phủ Toàn quyền.[2] Đầu tháng 8/1945, cán bộ Việt
Minh Đoàn Xuân Tín được giao nhiệm vụ gặp Phan Kế Toại để nắm bắt
tư tưởng và vận động ông ủng hộ Việt Minh, đồng thời thăm dị thái độ
của chính phủ Trần Trọng Kim[3] Sau đó Khâm sai Phan Kế Toại
gặp Nguyễn Khang, người do Xứ ủy Bắc Kỳ cử đến. Ông đề nghị Việt
Minh tham gia Chính phủ Bảo Đại và ngừng các hoạt động chống Nhật
nhưng Nguyễn Khang bác bỏ.[4]
Diễn biến tại miền Bắc
Khi nhậm chức, Bộ trưởng Tư pháp Trịnh Đình Thảo của chính phủ
Trần Trọng Kim đã ra lệnh thả hàng ngàn tù chính trị bị Pháp giam giữ
trước đó bao gồm đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương và các đảng
phái quốc gia, đồng thời cho phép các tổ chức, hội đồn chính trị được
hoạt động công khai. Tin đồn lực lượng quân Nhật sắp sửa đầu

3


hàng đã lan tỏa khắp nơi tại miền Bắc, lợi dụng cơ hội, dân chúng đã tụ
tập biểu tình, bãi cơng nhiều nơi, như ở Thái Bình vào ngày 11 tháng 8.
Từ ngày 12 tháng 8 năm 1945, các đơn vị Giải phóng qn của Việt Minh
lần lượt tiến cơng các đồn Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái
Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái... và hỗ trợ nhân dân các tỉnh này tiến
lên giành chính quyền tại các tỉnh lỵ.
Hội nghị toàn quốc họp ở Tân Trào ngày 13 tháng 8 năm 1945 dưới chủ
trì của Hồ Chí Minh với sự tham gia của Trường Chinh (chủ tọa), Hoàng
Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng đã nhận định rằng những điều kiện cho

Tổng khởi nghĩa đã chín muồi và chuẩn bị lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa.
Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc được thành lập gồm: Trường Chinh, Võ
Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Lê Thanh Nghị và Chu Văn Tấn. Tuy
nhiên nhiều nơi nổi dậy khi chưa nhận được chỉ thị của Trung ương. Một
đoàn cán bộ gồm Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Huy Cận vào
Huế, và Hoàng Quốc Việt, Cao Hồng Lãnh, Nguyễn Thị Thập vào Sài
Gịn để đơn đốc khởi nghĩa.
Ngày 14-8 một số cán bộ Đảng Cộng sản và Việt Minh dù chưa nhận
được lệnh khởi nghĩa nhưng căn cứ vào tình hình hiện tại và chỉ thị
"Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" đã quyết định cùng
nhân dân khởi nghĩa, khởi nghĩa lan rộng ra xã thuộc các tỉnh ở đồng
bằng sông Hồng như Thanh Hóa, Thái Bình...
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, một đơn vị Giải phóng quân của Việt Minh
do Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào (Tuyên Quang) kéo về bao vây,
tấn công quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên.

Tổng khởi nghĩa Hà Nội
Sáng ngày 19 tháng 8, hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân
cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội.
Khoảng 10 giờ rưỡi, cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách
mạng được sự bảo vệ của Thanh niên tự vệ, của tổ chức Việt Minh Hoàng
Diệu Hà Nội đã diễn ra. Đại diện Việt Minh tuyên bố: Tổng khởi nghĩa!
Bài chi tiết: Tổng khởi nghĩa Hà Nội
. Chỉ đạo khởi nghĩa ở Hà Nội có Nguyễn Khang, Trần Tử Bình, Nguyễn
Quyết.
4


Diến biến tại Huế
Ngày 17 tháng 8 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim tổ chức mít tinh

ra mắt quốc dân nhưng cuộc mít tinh thành cuộc tuần hành ủng hộ Việt
Minh. Ngày 23/8 khởi nghĩa giành thắng lợi. Chỉ đạo khởi nghĩa có
Nguyễn Chí Thanh và Tố Hữu. Cuộc khởi nghĩa có sự đóng góp của lực
lượng Thanh niên tiền tuyến (Thanh niên Phan Anh).
Diễn biến tại miền Nam
Tại Sài Gòn, Huỳnh Phú Sổ kết hợp các tổ chức chính trị Cao Đài, Hồ
Hảo, Việt Nam Quốc dân đảng, Đại Việt Quốc dân đảng... thành Mặt
trận Quốc gia Việt Nam Thống nhất, tổ chức một cuộc biểu tình lớn
chống Pháp.
Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Việt Minh mà Thanh niên Tiền phong làm
nịng cốt tổ chức biểu tình và giành chính quyền tại Sài Gịn (nơi chịu sự
cai trị trực tiếp của Nhật). Chỉ đạo nội dậy ở nội thành là nhóm Việt
Minh Tiền phong do Trần Văn Giàu chỉ đạo.
Đến ngày 28 tháng 8, Việt Minh giành được chính quyền tồn quốc. Hai
tỉnh cướp được chính quyền cuối cùng là Hà Tiên và Đồng Nai Thượng.

Những hình ảnh về cách mạng tháng Tám(1945);

5


B, Bản tuyên ngôn Độc Lập (1945):
Tại Hà Nội
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội). Chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tun ngơn Độc lập và tuyên bố sự khai sinh
của một nước Việt Nam mới: Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Bản tun
ngơn, dựa theo bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, bắt đầu bằng câu: Tất
cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.

Tiếp theo đó, đất nước non trẻ tổ chức tổng tuyển cử, xây dựng nhà nước
dân chủ độc lập đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh được 98%
ủng hộ[cần dẫn nguồn].
Theo tường thuật của nhà báo Hồng Hà, báo Cứu quốc của Việt Minh,
ông Nguyễn Hữu Đang đọc chương trình buổi lễ và giới thiệu Chính phủ
lâm thời, chủ tịch Chính phủ đọc Tun ngơn độc lập, các thành viên
Chính phủ tun thệ, ơng Võ Ngun Giáp, bộ trưởng Bộ Nội vụ giãi bày
tình hình trong nước và nhiệm vụ của Chính phủ, ơng Trần Huy Liệu
tường trình vào Huế nhận sự thối vị của vua Bảo Đại, ông Nguyễn
Lương Bằng đại biểu của Tổng bộ Việt Minh thuật qua lại cuộc tranh
đấu của Việt Minh để mưu giải phóng cho dân tộc... Bài báo khơng nhắc
đến Đảng cộng sản[10].

Tại Sài Gòn
6


Ngày 2 tháng 9 năm 1945, hàng ngàn người dân từ nhiều tỉnh và tại Sài
Gòn kéo về quảng trường Norodom (gần nhà thờ Đức Bà) chờ được nghe
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tun ngơn độc lập từ quảng trường Ba
Đình (Hà Nội). Nhưng do thời tiết xấu và trình độ kỹ thuật lúc đó, những
lời tun bố của Hồ Chí Minh trước quốc dân khơng đến được với những
người dự mít tinh. Ơng Trần Văn Giàu, Chủ tịch Lâm ủy hành chính
Nam Bộ bước lên khán đài kêu gọi nhân dân đồn kết chung quanh
chính phủ Hồ Chí Minh, nâng cao cảnh giác, "sẵn sàng đập tan mưu đồ
của thực dân, đế quốc trở lại xâm lược nước ta lần nữa".[cần dẫn nguồn] Bác
sĩ Phạm Ngọc Thạch, người được cử chức Bộ trưởng Bộ Y tế Chính phủ
lâm thời thay mặt chính phủ tuyên thệ trước quốc dân "Cương quyết
lãnh đạo đồng bào giữ gìn đất nước, vượt qua khó khăn nguy hiểm xây
đắp nền độc lập hồn tồn cho Việt Nam".

Khi cuộc mít tinh chuyển sang biểu tình tuần hành, từ trên những tầng
lầu cao xung quanh, qn Pháp đã nổ súng bắn vào đồn biểu tình tuần
hành, từ trên những lầu cao xung quanh, làm 47 người chết và bị thương.
[11]
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, ông Trần Văn Giàu viết lời kêu gọi Nam
Bộ kháng chiến: "Hãy nắm chặt vũ khí trong tay, xơng lên đánh đuổi thực
dân Pháp, cứu nước. Cuộc kháng chiến bắt đầu..."

Những hình ảnh khi Hồ Chủ Tịch đọc bản tuyên ngôn độc lập;

Câu 2: Giới thiệu về Văn Miếu-Quốc Tử Giám.
7


Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú
hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng
Long. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào
danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt. Quần thể kiến trúc Văn
Miếu - Quốc Tử Giám bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám
và vườn Giám và kiến trúc chủ thể là Văn Miếu - nơi thờ Khổng Tử và
Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Khu Văn Miếu Quốc Tử Giám có tường gạch vồ bao quanh, phía trong chia thành 5 lớp
khơng gian với các kiến trúc khác nhau. Mỗi lớp khơng gian đó được giới
hạn bởi các tường gạch có 3 cửa để thơng với nhau (gồm cửa chính giữa
và hai cửa phụ hai bên). Từ ngồi vào trong có các cổng lần lượt là: cổng
Văn Miếu, Đại Trung, Đại Thành và cổng Thái Học. Với hơn 700 năm
hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Nay, Văn MiếuQuốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng
thời cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội
thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ
tử ngày nay đến "cầu may" trước mỗi kỳ thi.
*Lịch sử và văn hóa của Văn Miếu

Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý
Thánh Tông (Đại Việt sử ký toàn thư. Nhà xuất bản. Khoa học xã hội, Hà
Nội, tập 1, tr.234) chép: "Mùa thu tháng 8, làm Văn Miếu,
đắp tượng,Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị
hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học." [1]. Như vậy Văn
miếu ngoài chức năng thờ các bậc Tiên thánh, Tiên sư của đạo Nho, cịn
mang chức năng của một trường học Hồng gia mà học trò đầu tiên là
Thái tử Lý Càn Đức, con trai vua Lý Thánh Tông với Nguyên phi Ỷ Lan,
lúc đó mới 5 tuổi, đến năm 1072 tức là năm 8 tuổi lên ngôi trở thành
vua Lý Nhân Tông
Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn
Miếu có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu,
trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý (nên gọi
tên là Quốc Tử, người học đầu tiên là hồng tử Lý Càn Đức). (Việt sử
thơng giám cương mục. Nhà xuất bản. Văn sử địa. 1957) chép: "Bính
Thìn, năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 1 tháng 4... lập nhà Quốc Tử Giám;
tuyển trong các văn thần lấy những người có văn học, bổ vào đó".
Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử.
8


Tượng vua Lý Nhân Tông
Năm Nguyên Phong thứ 3 1253, vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử Giám
thành Quốc Học Viện cho mở rộng và thu nhận cả con cái các nhà
thường dân có sức học xuất sắc. Chức năng trường Quốc học ngày càng
nổi bật hơn chức năng của một nơi tế lễ "Quý Sửu năm thứ ba(1253)...
Tháng 6 lập Quốc Học Viện tô tượng Khổng Tử, Chu công và Á Thánh,
vẽ tượng 72 người hiền để thờ... Tháng 9 xuống chiếu cho các nho sĩ trong
nước đến Quốc học viện giảng học tứ thư, lục kinh" (ĐVSKTT).
Lấy Phạm Ứng Thần giữ chức Thượng thư kiêm chức Đề điệu Quốc Tử

viện để trông nom công việc học tập tại Quốc Tử Giám.
Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư
nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hồng tử. Năm 1370
ơng mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng
Tử.
Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh
Tông cho dựng bia của những người thi đỗ tiến sĩ từ khoa thi 1442 trở đi
(chủ trương đã đề ra năm 1442 nhưng chưa thực hiện được). Mỗi khoa,
một tấm bia đặt trên lưng rùa. Tới năm đó, nhà Lê đã tổ chức được 12
khoa thi cao cấp, Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã tổ chức đều đặn cứ ba
năm một lần, đúng 12 khoa thi.

9


Không phải khoa thi nào tiến hành xong đều được khắc bia ngay, khơng
phải bia đã dựng thì vĩnh tồn, khơng hư hỏng, khơng mất mát. Từng thời
có những đợt dựng, dựng lại lớn, như năm 1653 (Thịnh Đức năm thứ
nhất, năm 1717 (Vĩnh Thịnh năm thứ 13).
Cuối triều Lê, thời Cảnh Hưng, bia vẫn được khắc đều đặn. Dù khơng
cịn giữ được đủ bia, nhà cơng trình điêu khắc giá trị và tư liệu lịch sử
quý báu.
Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám - cơ sở đào tạo và
giáo dục cao cấp của triều đình.
Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn
định đây là Văn Miếu - Hà Nội. Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn
Thành cho xây thêm Khuê Văn Các bên cạnh giếng vuông. Như vậy vào
đầu thời Nguyễn, Văn miếu Thăng Long đã một lần được sửa sang chỉ
còn là Văn Miếu của trấn Bắc Thành, sau đổi thành Văn Miếu Hà Nội.
Còn Quốc Tử Giám thì đổi thành học đường của phủ Hồi Đức và sau đó

tại khu vực này xây đền Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử.
Đầu năm 1947, thực dân Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ
còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay toàn bộ khu Thái Học
được xây dựng với diện tích 1530m² trên tổng diện tích 6150m² gồm các
cơng trình kiến trúc chính là Tiền đường, Hậu đường, Tả vu, Hữu vu,
nhà chuông, nhà trống được mô phỏng theo kiến trúc truyền thống trên
nền đất xưa của Quốc Tử Giám.

10


Kiến trúc
Văn Miếu-Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam thành Thăng Long, xưa thuộc
thôn Minh Giám, tổng Hữu Nghiêm, huyện Thọ Xương; thời Pháp thuộc
làng Thịnh Hào, tổng Yên Hạ, huyện Hồng Long, tỉnh Hà Đơng. Nay
thuộc thành phố Hà Nội. Bốn mặt đều là phố, cổng chính là phố Quốc Tử
Giám (phía Nam), phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía Tây là
phố Tơn Đức Thắng, phía Đơng là phố Văn Miếu. Quần thể kiến trúc này
nằm trên diện tích 54331m² bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu - Quốc Tử
Giám và vườn Giám mà kiến trúc chủ thể là Văn Miếu nơi thờ Khổng Tử
và Quốc Tử Giám, trường học cao cấp đầu tiên của Việt Nam.
Nhà Thái học sinh đời Lý - Trần quy mô thế nào, hiện chưa khảo được, vì
các tư liệu lịch sử khơng thấy ghi lại. Thời thuộc Minh, nhiều di tích lịch
sử văn hoá bị đốt hoặc đưa về Yên Kinh, (Bắc Kinh), nhưng Văn Miếu
vẫn được người Minh tôn trọng. Năm Giáp Ngọ (1414) Hoàng Phúc xin
với vua nhà Minh cho lập Văn Miếu ở các châu, huyện trong cả nước.[2]
Năm Quý Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 14 (1483) Lê Thánh Tông, đã
thực hiện một đợt đại trùng tu, được ghi lại trong Đại Việt sử ký toàn
thư như sau: Tháng Giêng, mùa xuân sửa nhà Thái học...Đằng trước nhà
Thái học dựng Văn Miếu. Khu cũ của Văn Miếu có điện Đại Thành để thờ

Tiên Thánh, Đông vũ và Tây vũ chia ra thờ các Tiên hiền, Tiên nho; điện
Canh Phục để làm nơi túc yết, Một kho để chứa đồ tế khí và một phịng để
làm nhà bếp; đằng sau nhà Thái học, dựng cửa Thái học, nhà Minh ln.
Giảng đường phía đơng và giảng đường phía tây thì để làm chỗ giảng dạy
các học sinh. Lại đặt thêm kho Bí thư để chứa ván gỗ khắc thành sách; bên
đông bên tây nhà Thái học làm nhà cho học sinh trong ba xá, mỗi bên ba
dãy, mỗi dãy 25 gian để làm chỗ nghỉ ngơi của học sinh
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết vào tháng 11 niên hiệu Hồng Thuận
năm thứ 3 (1511) vua Lê Tương Dực: Sai Nguyễn Văn Lang sửa lại điện
Sùng Nho ở Quốc Tử Giám và 2 giải vũ, 6 nhà Minh Luân, phòng bếp,
phòng kho, cùng làm mới 2 nhà bia bên đông bên tây, mỗi gian tả hữu đều
để 1 tấm bia[3]

11


Văn Miếu - Quốc Tử Giám nhà Lê đã được Lê Quý Đôn miêu tả
trong Kiến văn tiểu lục (sách viết năm 1777) thì: Văn Miếu; Cửa Đại
Thành Nhà 3 gian 2 chái, lợp bằng ngói đồng (ngói ống), Đơng Vũ và Tây
Vũ 2 dãy đều 7 gian, đằng sau cửa nhỏ 1 gian, điện canh phục 1 gian 2
chái, nhà bếp 2 gian, kho tế khí 3 gian 2 chái, cửa Thái học 3 gian, có
tường ngang lợp bằng ngói đồng (ngói ống), nhà bia phía đơng và tây đều
12 gian, kho để ván khắc sách 4 gian, ngoại nghi môn 1 gian, xung quanh
đắp tường, cửa hành mã ngoài tường ngang 3 gian, nhà Minh Luân 3 gian
2 chái, Cửa nhỏ bên tả và bên hữu đều 1 gian, có tường ngang. nhà giảng
dạy ở phía đơng và phía tây 2 dãy, mỗi dãy đều 14 gian. Phịng học của học
sinh tam xá ở phía đơng và phía tây đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian
2 người[4].
Toàn bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đều là kiến trúc thời đầu nhà
Nguyễn. Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch vồ

(đây là sản phẩm của nhà Hậu Lê)
Hiện nay quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám được chia làm ba
khu vực chính: 1 là Văn hồ, 2 vườn Giám và 3 là khu nội tự Văn Miếu Quốc Tử Giám đây là khu chủ thể, bố cục đăng đối từng khu, từng lớp
theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ
Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Tuy
nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn, kiến trúc đơn giản hơn và theo
phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc Việt Nam (từ thế kỷ 17 đến
thế kỷ 19).
Văn Hồ
Hồ Văn hay hồ Giám phía trước cổng vào Văn Miếu.

12


Phía nam, trước mặt Văn Miếu là hồ Minh Đường hay Văn hồ, dân gian
thường gọi là hồ Giám. Chính quyền thành phố Hà Nội đã cố gắng giải
toả, nhưng hiện nay diện tích cũng chỉ cịn được 12297 m², giữa hồ có gị
Kim Châu, trên gị dựng Phán Thuỷ đường (là nơi diễn ra các buổi bình
văn thơ của nho sĩ kinh thành xưa). Theo ý đồ kiến trúc, đây vốn là cái
"tiểu minh đường" của Văn Miếu, là một bộ phận khăng khít của tồn
bộ cơng trình kiến trúc chung. Năm 1863, trong dịp sửa nhà bia Văn
Miếu, Văn Hồ đã được một lần tu sửa. Sự việc này còn ghi lại rõ ràng
trên tấm bia đá dựng ở gị giữa hồ: Trước miếu có hồ lớn, trong hồ có gị
Kim Châu, vào khoảng niên hiệu Cảnh Trị (1668-1671), Tham tụng họ
Phạm (Phạm Công Trứ) làm 10 bài thơ vịnh Phán thuỷ để ghi lại cảnh
đẹp... Mùa thu năm Quý Hợi niên hiệu Tự Đức (1863) tôi [5] cùng Cao
đài Đặng Lương Phủ(Đặng Tá) dựng đình bia Tiến sĩ và sửa sang khu hồ...
Mùa thu năm Ất Sửu (1865), Đặng sứ quân lại xuất tiền nhà xây một đình
trên gị Kim Châu. Đình làm xong gọi là Văn hồ đình.... .
Ngày 12 tháng 2 năm 1998, trong khi nạo vét cải tạo hồ Văn đã tìm thấy

tấm bia Hoàn Văn hồ bi, soạn năm Bảo Đại thứ 17 (1942), do cử nhân
khoa Quý Mão Hoàng Huân Trung [6] soạn. Điều đặc biệt là mặt sau của
bia khắc bản dịch chữ Hán ra chữ Quốc ngữ do đốc học Trần Trọng Kim
và Nguyễn Quang Oánh dịch. Cho biết hồ này và cả giải đất chạy suốt
chiều dài mé tây của Văn Miếu đều thuộc quần thể khu vực Văn Miếu Quốc Tử Giám. Đến cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 20 do phân cách địa giới
hành chính, khu vực Văn Miếu thuộc đất tỉnh Hà Đông. Khi đất Văn
Miếu - Quốc Tử Giám trao lại cho tỉnh Hà Nội thì bỏ sót lại khu hồ Văn,
vì thế năm 1939các văn thân nho sĩ tỉnh Hà Nội đệ đơn trình Thị trưởng
Hà Nội xin Cơng sứ tồn quyền Bắc Kỳ trả lại hồ Văn vào địa phận Văn
Miếu, văn bia có đoạn viết: Hồ này ở ngồi tường cửa thứ ba Văn Miếu
tên là hồ Minh Đường hay là Văn hồ. Hồ rộng 1 vạn chín trăm thước
vng tây, trong hồ có gị trịn tên gọi Kim Châu rộng hai trăm thước
vuông tây
Một hồ nước trong, quanh bờ cây cối râm mát, một gị đất nổi giữa hồ
trên có một kiến trúc nhỏ đẹp lẩn dưới cành lá sum suê, cảnh này mở đầu
cho một khu kiến trúc sẽ trở thành một tấm gương soi, nhân đơi cảnh trí,
có tác dụng gây cho khách tham quan cảm giác mát mẻ dịu dàng ngay từ
khi mới đặt chân vào khu kiến trúc.[7]

13


Khu nội tự Văn Miếu - Quốc Tử Giám tôn nghiêm, được ngăn cách
với vườn Giám và không gian bên ngoài bằng tường gạch vồ và được chia
làm 5 lớp không gian khác nhau, mỗi lớp được giới hạn bởi các tường
gạch và có các cửa thơng nhau: một cửa chính giữa và hai cửa phụ hai
bên với các kiến trúc chủ thể là: cổng Văn Miếu, cổng Đại Trung, Khuê
Văn các, cổng Đại Thành, khu điện thờ, cổng Thái Học và kết thúc là khu
Thái Học.
Văn Miếu Mơn

Phía trước Văn Miếu môn là tứ trụ (nghi môn) và hai tấm bia Hạ mã hai
bên đó là mốc ranh giới chiều ngang phía trước mặt cổng. Xưa kia dù
cơng hầu hay khanh tướng, dù võng lọng hay ngựa xe hễ đi qua Văn
Miếu đều phải xuống đi bộ ít nhất từ tấm bia Hạ mã bên này sang tới tấm
bia Hạ mã bên kia mới lại được lên xe lên ngựa. Thế đủ biết Văn Miếu có
vị trí tơn nghiêm tới chừng nào. Tứ trụ được xây bằng gạch, hai trụ giữa
xây cao hơn trên có hình 2 con nghê chầu vào. Quan niệm tâm linh cho
rằng đây là vật linh thiêng có khả năng nhận ra kẻ ác hay người thiện.
Hai trụ ngoài đắp nổi 4 con chim phượng x cánh chắp đi vào nhau.
Tứ trụ có đơi câu đối chữ Hán:

Đông, tây, nam, bắc do tư đạo
Công, khanh, phu sĩ, xuất thử đồ
Tạm dịch là:
Đông, tây, nam, bắc cùng đạo này (đạo Nho)
Công, khanh, phu sĩ xuất thân từ đường này

14


Văn Miếu mơn tức là cổng tam quan phía ngồi. Cổng có ba cửa, cửa
giữa cao to và xây 2 tầng. Tầng trên có ba chữ (Văn miếu mơn). Kiểu
dáng kiến trúc Văn Miếu môn nhiều nét độc đáo rất đáng lưu ý trong khi
nghiên cứu kiến trúc cổ Việt Nam. Nhìn bên ngồi tam quan là 3 kiến
trúc riêng biệt. Cửa chính giữa thực chất xây 2 tầng. Mặt bằng hình
vng. Tầng dưới to, tầng trên nhỏ chồng lên giữa tầng dưới. Ngày 18
tháng 3 năm Khải Định thứ 3, vua Khải Định bắc tuần có đến chiêm bái
Văn Miếu Hà Nội và làm hai bài thơ tứ tuyệt bằng chữ Hán, rồi phán cho
tỉnh thần Hà Đông khắc vào bia dựng trên gác tam quan. (rất tiếc bia
hiện nay khơng cịn, chỉ cịn lại bệ bia, hai mặt bệ là hình hổ phù rất đẹp)

Nguyên văn hai bài thơ như sau:
Bài thứ nhất
Hóa thành nam quốc ái văn hoa,
Thánh đạo chân truyền quán bách gia,
Tằng vi Bắc phương danh giáo địa,
Nghi hồ miếu mạo vĩnh nguy nga.
Tạm dịch là:
Giáo hoá lan tràn khắp nước ta,
Đạo Thánh đứng đầu cả bách gia,
Nghe nói Bắc phương văn vật thịnh,
Thảo nào Văn Miếu vẫn nguy nga.
Bài thứ hai
Thời trung văn giáo nhập Viêm đô,
Bách thế tôn sùng đệ nhất Nho,
Thử đặc Lý triều lưu cổ tích.
Kinh kỳ tự hữu hảo quy mô
Tạm dịch là:
Thời trung đạo ấy tới Viêm đô,
Trăm thủa đề cao nhất đạo Nho,
15


Triều Lý vẫn còn lưu dấu cũ,
Kinh thành riêng để một quy mơ.
Phía trước cổng tam quan là đơi rồng đá cách điệu thời Lê, bên trong là
đôi rồng đá thời Nguyễn. Hai mặt cổng tam quan Phía ngồi có hai câu
đối nề (không rõ niên đại)
Câu đối thứ nhất
Đại quốc bất dịch giáo, bất biến tục, thả tôn sùng chi, diệc tín tư văn
ngun hữu tự

Ngơ Nho yếu thơng kinh, yếu thức thời, vô câu cố dã, thượng tư thánh
huấn vĩnh tương đôn.
Tạm dịch nghĩa là:
Nước lớn trong giáo dục, giữ thuần phong, đạo được tôn sùng, tin tưởng
tư văn ngun có gốc.
Nhà Nho phải thơng kinh, phải thức thời, chớ nên cố chấp, những lời
thánh huấn phải ghi lòng.
Câu đối thứ hai
Sĩ phu báo đáp vị hà tai! Triều đình tạo tựu chi ân, quốc gia sùng thượng
chi ý
Thế đạo duy trì thử nhi! Lễ nhạc y quan sở tụy, thanh danh văn vật sở đô.
Tam dịch nghĩa là:
Sĩ phu có nhiều báo đáp, ơn triều đình đào tạo, ý nhà nước tơn sùng.
Thế đạo nhờ đó duy trì, chốn lễ nhạc y quan, nơi thanh danh văn vật.
Đại Trung Môn

16


Từ cổng chính Văn Miếu mơn, vào khơng gian thứ nhất gọi là khu Nhập
đạo, theo đường thẳng tới cổng thứ hai là Đại Trung môn. Ngang hàng
với Đại Trung mơn bên trái có Thành Đức mơn, bên phải có Đạt Tài
môn. Theo văn bản của ông Đỗ Văn Ninh trước đây hai cổng tả mơn và
hữu mơn ở phía trước và bằng Đại Trung môn, Thánh Đức môn và Đại tài
mơn ở phía sau. Hiện nay hai bên là không gian cây xanh và thảm cỏ Bức
tường ngang nối ba cửa vươn dài ra hai bên tới tận tường vây dọc bên
ngoài. Hai bên tả hữu của cả khu Văn Miếu, cùng với tường ngang nơi
Văn Miếu môn tạo thành một khu hình gần vng có tường vây khép kín
ra vào bằng Văn Miếu mơn. Trong khu vực này trồng cây bóng mát gần
kín mặt bằng. Hai chiếc hồ chữ nhật nằm dài sát theo chiều dọc bên

ngoài. Cảnh này gây nên cảm giác tĩnh mịch, thanh nhã của nơi "văn vật
sở đô". Cửa Đại Trung môn làm kiểu 3 gian, xây trên nền gạch cao, có
mái lợp ngói mũi hài, có hai hàng cột hiên trước và sau, ở giữa là hàng
cột chống nóc. Gian giữa cổng treo một tấm biển nhỏ đề 3 chữ sơn
then Đại Trung môn.
Con đường thẳng từ Văn Miếu môn tới Đại Trung môn lại vươn tiếp
thẳng tới Khuê Văn Các. Từ hai cửa Đạt Tài và Thành Đức ở hai bên cửa
Đại Trung, hai con đường nhỏ hơn song song chạy thẳng với con đường
trục giữa, chia khu vực thứ hai này thành 4 dải khá cân bằng. Hai hồ
nước được đào ở vị trí tương tự như hai hồ nước ở khu vực thứ nhất.
Việc lặp lại một khu vực chỉ có cây có cỏ, việc làm thêm dãy tường ngăn
và làm thêm lớp cửa ra vào, được các nhà kiến trúc cho là rất thành công
trong ý đồ tạo nên cảnh thâm nghiêm, tĩnh mịch của khu vực kiến trúc.
Khuê Văn Các
Khuê văn các (nghĩa là "gác vẻ đẹp của sao Khuê") là một lầu vuông tám
mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín thước, do
Tổng trấn Nguyễn Văn Thành triều Nguyễn đương thời cho xây dựng
vào năm 1805. Gác dựng trên một nền vuông cao cân xứng có lát
gạch Bát Tràng mỗi bề có chiều dài là 6,8 mét. Để bước lên được nền
vuông này phài đi qua ba bậc thang đá. Kiểu dáng kiến trúc Khuê Văn
Các rất hài hòa và độc đáo. Tầng dưới là 4 trụ gạch vuông, mỗi cạnh của
trụ có chiều dài một mét và trên các mặt trụ đều có chạm trổ các hoa văn
rất tinh vi và sắc sảo. Tầng trên là kiến trúc gỗ sơn son thếp vàng trừ mái
lợp và những phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu
đất nung hoặc vơi cát có độ bền cao.
17


Sàn gỗ có chừa 2 khoảng trống để bắc thang lên gác. Bốn cạnh sàn có
diềm gỗ chạm trổ tinh vi. Bốn góc sàn làm lan can con tiện cũng bằng gỗ.

Bốn mặt tường bịt ván gỗ, mỗi mặt đều làm một cửa trịn có những thanh
gỗ chống tỏa ra bốn phía. Cửa và những thanh gỗ chống tượng trưng
cho sao Khuê và những tia sáng của sao [8]. Mé trên sát mái phía cửa
ngồi vào treo một biển sơn son thiếp vàng 3 chữ (Khuê văn các). Mỗi
mặt tường gỗ đều chạm một đôi câu đối chữ Hán thiếp vàng. Cả bốn đơi
câu đối này đều rất có ý nghĩa.
Khuê tinh thiên lãng nhân văn xiển - Bích thuỷ xuân thâm đạo mạch
trường.
Hy triều phấn sức long văn trị - Kiệt các trân tàng tập đại quan
Thành lâm Bắc đẩu hồi nguyên khí - Nguyệt tế thu đàm chiếu cổ tâm.
Thánh hiền nhất thống đồ thư phủ - Văn hiến thiên thu lễ nghĩa bang.
Tạm dịch nghĩa như sau:
Sao Kh trời sáng, văn minh rộng - Sơng Bích xn sâu, mạch đạo dài
Triều ta tô điểm nhiều văn trị - Gác đẹp văn hay đón khách xem
Bắc Đẩu soi thành nhiều khí tốt - Đầm thu bóng nguyệt sáng lịng xưa
Nước lễ nghĩa nghìn năm văn hiến - Phủ đồ thư một mối thánh hiền
Gác Khuê Văn vốn là nơi xưa kia dùng để họp bình những bài văn hay
của các sĩ tử đã thi trúng khoa thi hội. Gác nhỏ, kiến trúc giản dị nhưng
tao nhã, đặc biệt lại được chọn dựng giữa những cây cổ thụ xanh tốt,
cạnh giếng Thiên Quang đầy nước trong in bóng gác.
Phân tích. Theo Kinh dịch những con số lẻ (1, 3, 5, 7, 9) thuộc về dương,
biểu hiện sự sinh sôi nảy nở và phát triển, Khuê văn các có 8 mái là bát
quái, có thêm 1 nóc ở trên là 9, số cửu trù, số cực dương.[9] Theo quan
niệm của người xưa, giếng Thiên quang hình vng tượng trưng cho mặt
đất, cửa sổ hình trịn của gác Kh văn tượng trưng cho bầu trời, có ý nói
nơi đây là nơi tập trung mọi tinh hoa của trời đất, có ý tưởng đề cao
trung tâm giáo dục văn hoá Nho học Việt Nam.[10] Ngày nay, Khuê Văn
Các ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của
thành phố Hà Nội.


18


Cửa Bi văn kết thúc con đường lát gạch nhỏ chạy từ cửa Thành Đức bên
trái Bi văn có nghĩa là trang sức nên vẻ đẹp. Ý nói văn chương trau chuốt
sáng sủa, có sức truyền cảm thuyết phục con người.
Cửa Súc văn kết thúc con đường lát gạch nhỏ chạy từ cửa Đạt Tài bên
phải Súc Văn có nghĩa là văn chương hàm súc phong phú, có khả năng
ni dưỡng vẻ đẹp của tâm hồn.
Hai cửa này cùng với gác Khuê Văn đồng thời mở đầu cho khu vực thứ
hai, khu vực giếng Thiên Quang và hai vườn bia Tiến sĩ.[11]
Tồn cảnh Thiên quang tỉnh (nhìn từ gác Kh Văn), hai bên là hai khu
nhà bia, phía cuối hình là Đại thành môn dẫn vào không gian thứ ba
Thiên Quang tỉnh (tức "giếng soi ánh sáng bầu trời") còn được gọi là Văn
Trì (Ao Văn). Thiên Quang nghĩa là ánh sáng bầu trời. Đặt tên này cho
giếng, người xây dựng có ý muốn nói con người thu nhận được tinh túy
của vũ trụ, soi sáng tri thức, nâng cao phẩm chất, tơ đẹp nền nhân văn.
Giếng hình vng, quanh bờ đều xây hàng lan can tới độ ngang lưng.
Người xưa cịn có quan niệm giếng hình vng tượng trưng cho đất, cửa
tròn gác Khuê Văn tượng trưng cho trời. Tinh hoa của cả trời cả đất đều
được tập trung ở trung tâm văn hóa giáo dục uy nghiêm giữa chốn đế đô
này. Một con đường nhỏ lát gạch bao quanh giếng cho phép người ta có
thể dạo quanh giếng, lên gác Khuê Văn, vào cửa Đại Thành hoặc rẽ sang

19


2 vườn bia đá ở 2 bên.
Nhưng có lẽ di tích có giá trị bậc nhất ở đây là 82 tấm bia Tiến sĩ dựng ở
hai bên phải trái của giếng Thiên Quang, mỗi bên 41 tấm dựng thành 2

hàng ngang, mặt bia đều quay về phía giếng. Cả hai bên, giữa mỗi vườn
bia xây một tịa đình vng, 4 mặt bỏ trống, nền cao, giữa nền có bệ, cửa
đều trơng thẳng xuống giếng. Đây là hai tịa đình thờ bia. Xưa kia hàng
năm xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây cũng sửa lễ vật
cúng bái các vị tiên nho của nước ta mà q tính cao danh cịn khắc trên
bia đá. Trong 82 tấm bia còn lại tới ngày nay, tấm sớm nhất dựng vào
năm 1484, khắc tên các vị tiến sĩ đỗ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo
năm thứ 3 (1442) tấm cuối cùng dựng vào năm 1780, khắc tên các Tiến sĩ
đỗ khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 40 (1779). Từ
khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 tới khoa cuối cùng là
khoa Đinh Mùiniên hiệu Chiêu Thống năm thứ nhất 1787 tính cho đủ
phải tới 124 khoa thi đình, nếu chỉ kể các khoa thi Tiến sĩ, không kể các
khoa Đông Các và Chế khoa thì cũng phải 117 khoa, vậy nếu theo đúng
điển lệ triều Hậu Lêthì phải lập đủ 117 tấm bia đề tên Tiến sĩ. Thế nhưng
trải qua bao cơn binh lửa, vật đổi sao dời, số bia chỉ còn là 82 tấm. Nhiều
tấm bia nọ lắp vào rùa kia, nhiều tấm nứt vỡ phải gắn chắp lại.
Khi quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long đã làm hư hại Văn Miếu - Quốc
Tử Giám. Nông dân trại Văn Chương xin Nguyễn Huệ dựng lại bia đề
tên Tiến sĩ trong nhà Giám viết rằng:
Bia Tiến sĩ dựng trong Văn Miếu
Khởi từ năm Đại Bảo thứ ba
Xí vào Nhâm Tuất hội khoa
Thái Tơng ngự trị thuộc nhà Hậu Lê
Rồi từ đó lệ về Quốc Giám
Trải ba trăm ba mươi tám năm ròng
Đến năm thứ 40 niên hiệu Cảnh Hưng vua Hiển Tông
Là khoa Kỷ Hợi cuối cùng hết bia
Tính gồm lại số bia trong Giám
Cả trước sau là tám mươi ba
20



Dựng theo thứ tự từng khoa
Bia kia sáu thước cách xa bia này
Nhà bia đủ đơng tây 10 nóc
Vng bốn bề ngang dọc bằng nhau
Mỗi bề hai chục thước tàu
Cột cao mười thước có lầu chồng diêm
Coi thể thế tơn nghiêm có một
Cửa ra vào then chốt quan phịng
Bốn quan nhất phẩm giám phong
Ba cơ, bảy vệ canh trong canh ngồi
Bia mới dựng đầy 2 nóc trước
Tám nóc sau cịn gác lưu không
Năm năm chờ đợi bảng rồng
Các quan bộ Lễ, bộ Công chiếu hành [12]
Lời thơ vua Quang Trung ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Tháng 4 năm 1976 Viện Khảo cổ học phối hợp với phòng Bảo tồn bảo
tàng, sở Văn hóa Thơng tin Hà Nội đã khai quật được một con rùa đá đế
bia chìm sâu dưới lòng hồ cạnh Khuê Văn Các. Thân bia chưa thấy, song
sự việc này đã nâng số bia Tiến sĩ lên con số 83. Những năm thực dân
Pháp xâm lược rồi tạm chiếm Hà Nội, 2 vườn bia có lúc hoang vắng, cỏ
cao lút đầu.[13] Hiện nay 2 vườn bia đã được tu sửa lại theo mẫu sửa nhà
bia cuối cùng vào niên hiệu Tự Đức năm thứ 16 (1863), do Bố chính Hà
Nội là Lê Hữu Thanh cùng với thự Hậu quân Đô thống, Tổng đốc Hà
Ninh là Tôn Thất Hân và Án sát Hà Nội là Đặng Tá khởi xướng làm 2
nhà bia mỗi nhà 11 gian để che mưa nắng cho các di vật quý giá này. Nội
dung được ghi rõ trong 2 tấm bia dựng ở bên trái sân Đền Khải Thánh Quốc Tử Giám (xem phần trích trong mục Đền Khải Thánh - Quốc Tử
Giám)


21


Đại Thành Môn, khu điện thờ
Qua cửa Đại Thành là vào khơng gian thứ ba, khu vực chính của di tích
Quốc Tử Giám - Văn Miếu. Cũng như cửa Đại Trung, cửa Đại Thành là
một kiến trúc 3 gian với hai hàng cột hiên trước sau và một hàng cột
giữa. Chính giữa, trên giáp nóc có treo một bức hồnh khắc 3 chữ (Đại
thành môn) theo chiều ngang, đọc từ phải sang trái. Bên phải hai hàng
chữ nhỏ dọc khắc Lý Thánh Tông, Thần Vũ nhị niên, Canh Tuất thu, bát
nguyệt phụng kiến có nghĩa là: "Tháng 8 mùa thu năm Canh Tuất, niên
hiệu Thần Vũ năm thứ 2 đời Lý Thánh Tông vâng sắc xây dựng" [14]. Bên
trái một hàng chữ dọc khắc: Đồng Kháng tam niên, Mậu Tý trọng đơng
đại tu có nghĩa là "Tháng 11 năm Mậu Tý niên hiệu Đồng Khánh năm
thứ 3 đại tu".[15] Bức hoành sơn thiếp giản dị, là sản phẩm của năm 1888,
song nó là minh chứng cho một lần tu sửa lớn vào thời Đồng Khánh nhà
Nguyễn, và cũng là một bằng cứ gián tiếp cho năm khởi dựng Văn Miếu
vào thời vua Lý Thánh Tông.
Cửa Đại Thành (cửa của sự thành đạt lớn lao), mở đầu cho khu vực của
những kiến trúc chính, nơi thờ Khổng Tử, Chu Cơng, Tứ Phối, Thất thập
nhị hiền v.v... và cũng là nơi giảng dạy của trường giám thời xưa, mang
một cái tên đầy ý nghĩa tưởng khơng cịn có thể chọn một tên nào có ý
nghĩa hay hơn.
Hai cửa nhỏ theo văn bản của ông Đỗ Văn Ninh là Kim Thành bên phải
và Ngọc Thành bên trái, hiện nay là Kim Thanh môn và Ngọc Chấn
môn nằm ngang với cửa Đại Thành, song 2 cửa này khơng mở vào thẳng
khu vực chính, mà để đi qua con đường lát gạch phía sau 2 dãy Tả Vu và
Hữu Vu để tiếp tục qua sang khu Khải Thánh phía cuối cùng của di tích.
Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng mênh mang lát gạch Bát
Tràng. Hai bên phải trái của sân là 2 dãy Hữu Vu và Tả Vu. Chính trước

mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to lớn và thâm nghiêm trải suốt chiều
rộng của sân nối giáp với đầu hồi của Tả Vu, Hữu Vu 2 bên, tạo thành
cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính và thuyền thống. Sau Đại Bái Đường,
song song với Đại Bái Đường là tịa Thượng Điện, có quy mơ tương tự cả
về chiều cao lẫn bề rộng. Đại Bái Đường nối với Thượng Điện bằng một
Tiểu Đình hình vng. Nếu tách riêng cụm 3 kiến trúc này ra mà nói thì
chúng được xây dựng theo hình chữ cơng mà Tiểu đình chính là nét sổ
giữa và Đại Bái Đường, Thượng Điện là 2 nét ngang trên và dưới.

22


Thượng Điện ở phía sau 9 gian, tường xây 3 phía, phía trước có cửa bức
bàn đóng kín 5 gian giữa, 4 gian đầu hồi có cửa chấn song cố định. Nhìn
chung Thượng Điện kín đáo và do đó cũng tối hơn Đại Bái, đó cũng là ý
đồ của cơng trình sư muốn tạo cho nơi đây một khơng khí thâm nghiêm,
u tịch và họ đã thành công mỹ mãn. Nơi đây là nơi thờ những vị tổ đạo
Nho. Gian chính giữa có cái khám và ngai lớn để trên một bệ xây, trong
có bài vịChí thánh tiên sư Khổng Tử. Cách 2 gian 2 bên tới những gian
khác cũng có bệ xây và cũng có khám, trong khám có ngai và bài vị. Bên
trái có 2 ngai thờ Tăng Tử và Mạnh Tử; bên phải có 2 ngai thờ Nhan
Tử và Tử Tư. Bốn vị được thờ trên đây tức là Tứ phối được quy định thờ
từ ngày mới xây dựng Văn Miếu. Ngoài bài vị ra cả 4 vị đều có tượng gỗ
sơn thiếp rất uy nghi.
Hai gian đầu hồi cũng có 2 khám lớn xếp chầu vào gian giữa, thờ Thập
Triết gồm những vị: Mẫu tử, Nhiễm tử, Đoan mộc tử, Trang Tử, Bốc
tử, Hữu tử, Tề tử, Ngân tử, Suyền Tơn tử, Chu tử.
Tịa Đại Bái bên ngoài cũng xây 9 gian, nhưng chỉ xây 2 tường hồi còn
mặt trước mặt sau để trống. Tòa Đại Bái này có chức năng hành lễ trong
những kỳ tế tự xn thu. Chỉ gian chính giữa có hương án thờ còn các

gian khác đều bỏ trống. Tại đây treo khá nhiều hoành phi câu đối. Bức
hoành gian giữa khắc 4 chữ Khang Hi ngự thư và Đồng Khánh Mậu
Tý trọng đông thuận đề (1888)
Cũng như Thượng Điện, Đại Bái đường mang đậm phong cách kiến trúc
thời Hậu Lê, kẻ bảy giản đơn không chạm trổ cầu kỳ, chồng đấu làm
theo kiểu đấu đỡ cột chồng rất Việt Nam, khác hẳn với phong cách kiến
trúc đồng thời của những công trình ở các nước láng giềng.
Đền Khải Thánh - Quốc Tử Giám
Khu Khải Thánh là khu sau cùng của di tích. Từ Văn Miếu sang đến
Khải Thánh người ta có thể đi theo 2 con đường lát gạch phía sau Tả Vu
và Hữu Vu, hoặc cũng có thể từ sau lưng Thượng Điện qua cửa tam
quan. Cửa này là cửa chính cũng xây 3 gian, có mái lợp và cánh cửa đóng
mở. Từ bên ngồi vào đền Khải Thánh cũng có thể qua một cổng nhỏ có
cánh mở ở góc Đông Nam nơi tiếp giáp với bức tường ngăn 2 khu Văn
Miếu và Khải Thánh.

23


Đền Khải Thánh là nơi thờ cha mẹ Khổng Tử tức là Thúc Lương
Ngột và Nhan Thị. Phần nửa diện tích của khu này là sân phía trước. Sân
bị con đường lát gạch ngăn đôi dẫn từ cửa tam quan lên chính giữa đền
thờ. Nửa sân bên trái có 2 tấm bia ghi đại lược như sau: Thăng Long là
nơi đô thành cũ; là nhà Thái Học xưa. Hai bên cửa Văn Miếu có dựng bia
đề tên Tiến sĩ, bắt đầu từ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo, tới khoa Kỷ
Hợi niên hiệu Cảnh Hưng, nay hiện còn 82 tấm, đó chỉ là một số nhỏ.
Trong thời gian từ đó tới nay gió táp mưa sa, cỏ lấp rêu phong, có tới
hơn 10 tấm chữ khắc bị mịn, lỏng chỏng mỗi nơi mỗi tấm, phần nhiều sứt
mẻ không thể đọc được hết (Thập diện dư linh tinh tán lập, đa ban bác
bất khả tốt độc)

. Tôi là Thanh đến làm quan ở đây, vẫn thường muốn làm việc ấy. Mùa thu
năm nay, công việc đỡ bận, tôi bàn với quan tổng đốc và quan án sát, bàn
cách làm nhà ngói mỗi bên 2 tịa nhà, mỗi tịa 11 gian. Tấm bia nào đổ
lỏng chỏng thì đem xếp lại, mặt bia nào bị sứt sở thì đem so sánh mà khắc
lại. Cất giữ lấy vết tích xưa vậy.... Thật sự 2 tấm bia này cũng là những tư
liệu quý.
Kiến trúc đền Khải Thánh sơ sài hơn song cũng có Tả Vu, Hữu Vu 2 bên
và đền thờ ở giữa. Đền Khải Thánh xưa vốn là Quốc Tử Giám, nơi rèn
đúc nhân tài cho nhiều triều đại. Năm 1946 quân Pháp đã bắn đại bác
phá hủy sạch khơng cịn lại một kiến trúc nào. Kiến trúc ngày nay là
hoàn toàn mới. Tồn bộ mái đều được lợp hai lớp ngói lót, trên là một lớp
chì dày 1,5mm rồi đến một lớp ngói lót nữa, và trên cùng là ngói mũi hài.
Phần giữa các cột nhà với chân đá tảng cũng đặt một tấm chì dày 1,5mm
để chống ẩm từ dưới lên. Nền sân đều được lát gạch bát kích thước
30x30x4cm. Xung quanh nhà đều được bó vỉa bằng đá xanh. Quy mô
kiến trúc khu Thái Học mới rất bề thế, trang nghiêm và hài hoà với kiến
trúc cảnh quan của khu Văn Miếu phía trước.

24


Hình ảnh Văn Miếu-Quốc Tử Giám;

25


×