Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.98 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN MINH HÀ

PHÊ CHUẨN CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN MINH HÀ

PHÊ CHUẨN CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN ANH TUẤN


HÀ NỘI, 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi thực
hiện từ tháng 7 năm 2020 và hoàn thành vào tháng 2 năm 2021. Các số liệu và trích
dẫn trong luận văn là trung thực. Các kết quả nghiên cứu của luận văn khơng trùng
với bất kỳ cơng trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Xuân Minh Hà


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÉT PHÊ CHUẨN CÁC
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.......................9
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong
tố tụng hình sự............................................................................................ 9
1.2. Các quy định về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam...................................................................16
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XÉT PHÊ CHUẨN CÁC BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI................................................................................................ 45
2.1. Những kết quả đạt được trong xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn
trong TTHS từ thực tiễn thành phố Hà Nội.............................................. 45
2.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế,
vướng mắc trong xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS từ

thực tiễn thành phố Hà Nội.......................................................................54
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA XÉT PHÊ
CHUẨN CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI............................................64
3.1. Hồn thiện Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản khác có liên quan
đến xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn.............................................64
3.2. Các giải pháp khác.............................................................................67
KẾT LUẬN....................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................74


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
1.

BLHS

2.

BLTTHS

3.

CQĐT

4.

ĐTV

5.


KSV

6.

TTHS

7.

TA

8.

TAND

9.

TANDTC

10. TAQS
11. TTHS
12. VKS
13. VKSND
14. VKSNDTC
15. VKSQS


DANH MỤC BẢNG, BIỂU

Bảng 2.1. Tình hình thụ lý án hình sự trên địa bàn Thành phố Hà Nội..........48

từ năm 2016 đến năm 2020.............................................................................48
Biểu đồ 2.1. Tình hình thụ lý án hình sự trên địa bàn Thành phố Hà Nội......49
từ năm 2016 đến năm 2020.............................................................................49
Bảng 2.2. Tình hình xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp trong TTHS trên địa bàn Thành phố Hà Nội................................... 51
từ năm 2016 đến năm 2020.............................................................................51
Bảng 2.3. Tình hình VKS khơng phê chuẩn lệnh tạm giam và lệnh bắt tạm
giam của CQĐT trên địa bàn Thành phố Hà Nội............................................53
từ năm 2016 đến năm 2020.............................................................................53


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong tiến trình cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số
37/2012/QH13, ngày 23/11/2012; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005; Nghị
quyết số 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013; Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày
27/11/2015 và các Nghị quyết khác của Quốc hội đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
nhân dân (VKSND), thực hiện gắn công tố với hoạt động điều tra; đáp ứng yêu cầu
đấu tranh phòng, chống tội phạm; bảo đảm việc giải quyết các nguồn tin về tội
phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng quy định của pháp luật; không bỏ lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội . Để thực hiện tốt các yêu cầu
trên, một mặt phải đảm bảo hồ sơ vụ án khi được đưa ra truy tố, xét xử phải được
điều tra một cách khách quan, toàn diện, chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đầy
đủ, rõ ràng, mọi tình tiết của vụ án phải được làm sáng tỏ, mặt khác phải đảm bảo
đúng thủ tục tố tụng và hình thức của hồ sơ vụ án cũng được thiết lập theo đúng quy
định của pháp luật.
Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi
tắt là BLTTHS năm 2015) ra đời đã đánh dấu một bước tiến trong cơng tác lập pháp

nói chung và trong cơng tác xây dựng pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hình sự
(TTHS) nói riêng. BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi một cách tương đối toàn diện
BLTTHS năm 2003 theo hướng tăng cường trách nhiệm và quyền hạn cho VKSND,
cụ thể hóa các trách nhiệm và quyền hạn này một cách rõ nét hơn so với BLTTHS
năm 2003. Viện kiểm sát (VKS) vẫn giữ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
BLTTHS năm 1988 quy định các quyền và nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn điều
tra được tập trung chủ yếu ở Điều 141. Trong đó, khơng quy định phân biệt nhiệm
vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát điều tra. BLTTHS năm 2003 đã có sự
phân biệt rõ giữa các nhóm nhiệm vụ,

1


quyền hạn khi thực hành quyền công tố (Điều 112) và nhiệm vụ, quyền hạn khi
kiểm sát điều tra (Điều 113). Trong đó, xác định quyết định phê chuẩn, quyết định
không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra (CQĐT) theo quy định của
BLTTHS là thuộc nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công
tố. Đến BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS
trong 04 giai đoạn tố tụng bao gồm: khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử và chức năng
công tố sớm hơn từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm với nhiều thẩm
quyền. BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể hơn và chặt chẽ hơn về vai trò của
VKS trong việc phê chuẩn các quyết định của CQĐT trong TTHS nói chung và các
biện pháp ngăn chặn nói riêng. Đã tạo ra một cơ chế vừa có sự phân định rõ ràng
nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT và VKS vừa đảm bảo tính phối hợp, chế ước giữa
hai cơ quan này nhằm đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án hình sự được thực hiện
đúng pháp luật.
BLTTHS năm 2015 cũng quy định rõ về các biện pháp ngăn chặn bảo đảm
cho việc giải quyết vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi; bảo đảm dân

chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Khi
áp dụng các biện pháp ngăn chặn đòi hỏi phải hết sức thận trọng, đúng căn cứ pháp
luật mà pháp luật TTHS quy định. Thực tế chỉ ra rằng, việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong TTHS không đúng không chỉ xâm phạm các quyền cơ bản của
cơng dân, gây nên những khó khăn nhất định cho việc giải quyết vụ án hình sự, mà
cịn tạo dư luận xã hội khơng tốt và có thể dẫn đến những hậu quả như bỏ lọt tội
phạm, làm oan người vô tội, vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chính
vì vậy khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn của CQĐT đòi hỏi phải có sự phê
chuẩn của VKS để đảm bảo việc thực hiện đúng pháp luật.
VKSND với vai trò, chức năng, nhiệm vụ được quy định trong Hiến pháp và
Luật tổ chức VKSND năm 2014 có nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản
của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do,

2


danh dự, nhân phẩm của công dân… Một trong những nhiệm vụ được cụ thể hoá
của ngành kiểm sát là công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự. VKS thể hiện quyền năng của mình rõ ràng nhất thơng qua xét phê chuẩn
các lệnh, quyết định của CQĐT. Xét phê chuẩn vừa thể hiện quyền năng vừa thể
hiện trách nhiệm của VKS. Đồng thời cũng cần khẳng định rằng xét phê chuẩn là
hoạt động đặc thù và duy nhất chỉ VKS mới có quyền phê chuẩn các quyết định của
CQĐT trong TTHS. Các quy định và văn bản hướng dẫn về thủ tục phê chuẩn và
xét phê chuẩn của VKSND nói chung và xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn
trong TTHS nói riêng vẫn cịn những khó khăn, vướng mắc dẫn đến ảnh hưởng
đáng kể đến việc giải quyết các vụ án hình sự. Việc xem xét, đánh giá những ưu
điểm và hạn chế trong xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS, làm rõ
những nguyên nhân của tình trạng này để đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu
quả xét phê chuẩn của VKS là một vấn đề bức thiết trong tình hình hiện nay.

Nhận thức được điều đó, tác giả đã chọn vấn đề “Phê chuẩn các biện
pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm đề tài
nghiên cứu luận văn của mình, nghiên cứu những vấn đề chung cũng như thực trạng
xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS từ thực tiễn thành phố Hà Nội
nói riêng để làm rõ vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành quy định về xét phê chuẩn
các biện pháp ngăn chặn trong TTHS cho đến nay đã có một số cơng trình nghiên
cứu có liên quan đến vấn đề này như sau:
Thứ nhất, có thể kể đến các nghiên cứu có tính đại cương, cơ bản như: giáo
trình giảng dạy của các trường đại học như cuốn Giáo trình Luật tố tụng hình sự của
các trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học
Kiểm sát Hà Nội, Học viện An ninh nhân dân, Học viện Cảnh sát nhân dân; Bình
luận khoa học BLTTHS Việt Nam năm 2003, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
2004 của Bộ Tư pháp- Võ Khánh Vinh; Bình luận khoa học

3


BLTTHS năm 2015, Nhà xuất bản Lao Động, 2018 của TS. Phạm Mạnh Hùng....
Các tài liệu này đã phân tích nội dung các quy định của BLTTHS trong đó có các
quy định về việc phê chuẩn của VKS, hoạt động của các cơ quan có liên quan đến
việc phê chuẩn của VKS.
Các nghiên cứu có tính lý luận chung về chức năng của VKS như các bài viết
đăng trên các tạp chí khoa học: Một số ý kiến về tăng cường trách nhiệm của Viện
kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt động điều
tra, Tạp chí kiểm sát số 16/2009; Nguyễn Tiến Sơn (2009), Phân biệt thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Tạp chí kiểm sát số 09/2009; Lê
Ngọc Duy, Về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Việt
Nam theo Hiến pháp năm 2013, Tạp chí kiểm sát số 14/2019...

Những bài viết nêu trên nghiên cứu về các hoạt động của VKS trong thực hành
quyền công tố, gắn công tố với điều tra. Đưa ra một số điểm hạn chế và đề xuất
nhằm tăng cường trách nhiệm, nâng cao hiệu quả của hoạt động thực hành quyền
công tố của VKS. Những nghiên cứu này đã phần nào làm rõ được một số vấn đề
chung liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong xét phê chuẩn.
Các nghiên cứu chuyên sâu về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS
ở các phạm vi và mức độ khác nhau có liên quan đến xét phê chuẩn của VKS

trong TTHS như luận văn “Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân
dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự” của tác giả Nguyễn Vũ Quang (2011), Luận văn thạc sĩ luật học, trường
Đại học Luật Hà Nội; “Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Vũ Thị Nhiên (2017), Luận
văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội; “Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn” của tác giả Nguyễn
Hữu Tùng Lâm (2018), Luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội. Hay
các sách chuyên khảo như: “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra” Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nông Xuân Trường
(2005), NXB Tư pháp, Hà Nội; “Kỹ

4


năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong Tố tụng
hình sự” Học viện tư pháp (2006), NXB ĐHQG Hà Nội; “Tổng hợp những vướng
mắc trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003 liên quan đến việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát” Ban biên tập Tạp chí kiểm sát
(2010), Tạp chí kiểm sát số chuyên đề tháng 12/2010; “Hướng dẫn, chỉ dẫn
BLTTHS năm 2015”, TS. Lại Viết Quang (2019), NXB Thông tin và truyền thông...
Những luận văn, sách chuyên khảo trên không trực tiếp nghiên cứu về xét phê

chuẩn của VKS trong TTHS nhưng đã làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
nội dung, căn cứ pháp luật, thủ tục tiến hành đề nghị phê chuẩn và phê chuẩn của
VKS đối với quyết định của CQĐT. Các cơng trình trên cũng đưa ra một số những
hạn chế, bất cập trong việc áp dụng pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả của
hoạt động TTHS nói chung, hoạt động thực hành quyền cơng tố của VKS nói riêng.
Các nghiên cứu trên về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS
đã có những đóng góp khoa học nhất định và đáng trân trọng cả về lý luận và thực
tiễn. Tuy nhiên, hiện nay chưa có đề tài khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ,
toàn diện về mặt lý luận, cũng như đưa ra các giải pháp toàn diện cho những khó
khăn, vướng mắc trên thực tế của xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong
TTHS từ thực tiễn thành phố Hà Nội. Xuất phát từ tình hình nghiên cứu như trên
cho thấy cần phải có nghiên cứu về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật TTHS đối với xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong quá
trình thực hành quyền công tố trên địa bàn thành phố Hà Nội và đưa ra những kiến
nghị nhằm hoàn thiện vấn đề này.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề chủ yếu

sau: nghiên cứu những vấn đề lý luận về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn
trong TTHS; nghiên cứu pháp luật TTHS về xét phê chuẩn các biện ph áp
ngăn chặn; nghiên cứu thực tiễn phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS từ
thực tiễn thành phố Hà Nội.

5


- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về lý luận: Luận văn làm sáng tỏ bản chất pháp lý của xét phê chuẩn các

biện pháp ngăn chặn trong luật TTHS Việt Nam; xây dựng khái niệm khoa học về

xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS và ý nghĩa của hoạt động này
trong TTHS.
+ Về pháp luật: Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản của

pháp luật TTHS về xét phê chuẩn của VKS đối với các biện pháp ngăn chặn của
CQĐT cần có sự phê chuẩn của VKS trong TTHS ở Việt Nam.
+ Về thực trạng xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS từ thực

tiễn thành phố Hà Nội: Nghiên cứu thực trạng xét phê chuẩn các biện pháp ngăn
chặn trong TTHS trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2016 đến năm
2020.
+ Về kiến nghị: Tập trung vào kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS về xét

phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và thực tiễn xét phê chuẩn các
biện pháp ngăn chặn trong TTHS, luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả của hoạt động này.
Để đạt được mục đích trên, tác giả xác định nhiệm vụ cụ thể của luận văn
là:
- Nghiên cứu, làm rõ khái niệm và ý nghĩa của xét phê chuẩn các biện

pháp ngăn chặn trong TTHS;
- Khái quát pháp luật TTHS về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn từ

năm 1945 đến trước BLTTHS năm 2015 để thấy được sự hình thành và phát triển
của chế định này;
- Nghiên cứu, phân tích quy định của BLTTHS năm 2015 về xét phê

chuẩn các biện pháp ngăn chặn nhằm tìm ra những bất cập trong quy định của pháp

luật;

6


- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật TTHS

về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn thành phố Hà Nội để từ đó
rút ra những kinh nghiệm, tìm ra những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thi
hành quy định của luật TTHS về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn nói chung
và xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn từ thực tiễn thành phố Hà Nội nói riêng;
- Đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả về xét phê chuẩn các biện

pháp ngăn chặn trong TTHS.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận văn
sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau: Thống kê, phân tích, so sánh,
tổng hợp, lịch sử, lý luận kết hợp với thực tiễn để nghiên cứu đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã có những đóng góp mới như sau:
- Đã xây dựng được khái niệm khoa học về xét phê chuẩn các biện pháp

ngăn chặn trong TTHS;
- Đã làm rõ được ý nghĩa pháp lý và chính trị-xã hội của xét phê chuẩn các

biện pháp ngăn chặn trong TTHS;
- Đã phân tích được những quy định của pháp luật TTHS hiện hành về nội

dung của xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn;

- Đã phát hiện được một số hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng luật

TTHS hiện hành về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn từ thực tiễn thành phố
Hà Nội;
- Đã phân tích làm rõ thực trạng xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn

trong TTHS từ thực tiễn thành phố Hà Nội, xác định được nguyên nhân của những
hạn chế, vướng mắc trong hoạt động này;

7


- Đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật TTHS đặc

biệt là các quy định của BLTTHS năm 2015 và đưa ra một số giải pháp khác nhằm
nâng cao chất lượng xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung chính của luận văn bao
gồm 03 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề chung về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn

trong tố tụng hình sự.
- Chương 2: Thực trạng xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố

tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội.
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của xét phê chuẩn

các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội.

8



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÉT PHÊ CHUẨN CÁC BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình
sự
Phê chuẩn là một từ gốc Hán Việt, theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn
ngữ học do Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 1998 thì: “Phê chuẩn” là xét duyệt,
đồng ý cho thi hành. Còn theo Từ điển luật học Nhà xuất bản từ điển bách khoa khái
niệm phê chuẩn là: “Xét duyệt để cho phép sử dụng hoặc thực hiện một văn bản,
công việc, vấn đề hay lĩnh vực nào đó”. Phê chuẩn cịn được hiểu là: “Việc thực
hiện quyền lực của cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền (thường là cấp trên) chấp
thuận một hay nhiều đề nghị, yêu cầu của cấp phụ thuộc (thường là cấp dưới) được
ghi vào văn bản có ký tên hoặc ký tên và đóng dấu, cho phép cấp phụ thuộc được
thực hiện yêu cầu, đề nghị đó. Phê chuẩn thường xuất hiện trong q trình giải
quyết những cơng việc chung của các cơ quan nhà nước, khi cấp phụ thuộc (tổ chức
cá nhân) có một số yêu cầu về công việc cần thiết mà điều kiện tiên quyết để thực
hiện yêu cầu đó là sự chấp thuận của cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền, khi đó
cấp phụ thuộc phải làm một văn bản như: tờ trình, đơn đề nghị, bản yêu cầu, dự thảo
đề án, hiệp ước… gửi cho cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền. Trong văn bản cấp
phụ thuộc nêu rõ yêu cầu, lý do, nội dung, mục đích và các điều kiện thực hiện. Sau
khi xem xét các văn bản đó, nếu thấy không trái với pháp luật và thuộc thẩm quyền
giải quyết của mình thì cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền phê vào văn bản đó u
cầu của mình, có ký tên hoặc ký tên và đóng dấu cho phép hoặc khơng cho phép cấp
phụ thuộc được thực hiện. Có thủ tục phê chuẩn toàn bộ hoặc chỉ phê chuẩn một
hay một số yêu cầu đề nghị nào đó trong văn bản yêu cầu của cấp phụ thuộc. Phê
chuẩn có giá trị pháp lý nếu các yêu cầu, đề nghị của cấp phụ thuộc được cá nhân

hoặc tổ chức có thẩm quyền chấp thuận nằm trong các quy định của pháp

9


luật hiện hành [34]. Các khái niệm trên về thuật ngữ “phê chuẩn” đều đề cập đến
mối quan hệ quyền lực nhà nước giữa cơ quan có thẩm quyền giám sát, thẩm tra với
cơ quan có thẩm quyền thi hành những hoạt động nhất định do pháp luật quy định
phải chịu sự giám sát, thẩm tra thông qua thủ tục phê chuẩn.
Biện pháp ngăn chặn là một loại biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự do các
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng đối với người bị buộc tội
khi các cơ quan, người có thẩm quyền này có căn cứ cho rằng những người này sẽ
gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, giải quyết vụ án hình sự. Các BPNC
là một trong những chế định pháp lý quan trọng có ý nghĩa to lớn trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự. Việc nhận thức thống nhất, đồng thời các quy định và áp
dụng đúng đắn các BPNC là bảo đảm cần thiết cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ
của TTHS để phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
BLTTHS năm 2015 mặc dù không đưa ra khái niệm về biện pháp ngăn chặn,
nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 109 BLTTHS năm 2015 thì: “ Để kịp thời
ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành
án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của
mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ,
tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất
cảnh.”
Các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất,
gây tác động, ảnh hưởng nhất định đến các quyền và lợi ích của đương sự, thậm chí
hạn chế một số quyền, hạn chế tự do... đối với người bị áp dụng.
Buộc tội là một quá trình diễn ra trong suốt quá trình chứng minh tội phạm,

chứng minh người thực hiện hành vi phạm tội. Để thực hiện được nhiệm vụ này địi
hỏi phải có một lực lượng chun mơn về điều tra thu thập toàn diện chứng cứ xác
định tội phạm, người phạm tội hoặc để xác định người vô tội trong giai đoạn điều
tra. Những hoạt động điều tra này chủ yếu do CQĐT và các Điều tra viên (ĐTV)

10


thực hiện. Tuy nhiên, quyền buộc tội phải do cơ quan có chức năng thực hành quyền
cơng tố tức VKS thực hiện. Trong phạm vi chức năng của mình, VKS có quyền và
trách nhiệm quyết định cuối cùng về những vấn đề liên quan đến việc buộc tội một
chủ thể nào đó; kiểm sốt được việc phát hiện, điều tra tội phạm và xử lý tội phạm.
VKS và CQĐT là các cơ quan tiến hành tố tụng có chức năng khác nhau, phải được
phân định nhiệm vụ, quyền hạn có tính độc lập tương đối nhằm đảm bảo từng cơ
quan thực hiện đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy vậy, luật TTHS
khơng thể chia tách, cắt khúc quyền lực tư pháp để từ đó làm suy giảm khả năng
đấu tranh phòng, chống tội phạm. Mối quan hệ giữa VKS và CQĐT là mối quan hệ
vừa chế ước, vừa phối hợp. Đó chính là cội nguồn xuất phát của xét phê chuẩn của
VKS trong TTHS.
Trong luật TTHS có chủ thể tiến hành tố tụng được độc lập thực hiện các
hoạt động tố tụng nhưng có những chủ thể khi thực hiện một số hoạt động cần phải
được sự phê chuẩn của chủ thể khác. Điều này xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ
của mỗi chủ thể trong tố tụng là khác nhau. Chủ thể trong TTHS là các cơ quan
được tiến hành tố tụng: CQĐT, cơ quan cơng tố là VKS, cơ quan xét xử là Tịa án
(TA) thực hiện các chức năng tương ứng là điều tra, truy tố, xét xử.
Trong các cơ quan tiến hành tố tụng tại Việt Nam, hệ thống CQĐT gồm
nhiều tiểu hệ thống, với nhiều đầu mối quản lý đang tồn tại và hoạt động độc lập với
nhau, được tổ chức trong lực lượng cảnh sát, an ninh, trong quân đội và VKS. Tùy
theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi hệ thống mà tổ chức nhiều cấp. Trung bình mỗi
tỉnh có 3 CQĐT cấp tỉnh, cả nước 63 tỉnh, thành thì chỉ riêng CQĐT cấp tỉnh ở cả

nước ta có khoảng 200 CQĐT, chưa kể đến CQĐT cấp huyện và hàng chục CQĐT
trong quân đội. Mối quan hệ giữa các CQĐT thuộc hệ thống đều có sự độc lập và
khép kín về phương diện, điều hành và lãnh đạo chuyên môn. Hiện tại, BLTTHS,
Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự và một văn bản pháp luật của cơ quan có
thẩm quyền hướng dẫn chung cho hoạt động của cả bộ máy điều tra tố tụng, xác
định rõ mối quan hệ giữa các CQĐT trong cùng ngạch cũng như khác ngạch, chỉ có
những văn bản hướng dẫn riêng của cơ quan hành chính quản lý ngành đối

11


với CQĐT thuộc ngành mình. Bên cạnh các CQĐT mang tính chun trách, pháp
luật TTHS cịn cho phép một số cơ quan hành chính cũng được quyền tham gia vào
một số hoạt động điều tra: Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm
và các cơ quan khác thuộc lực lượng cảnh sát nhân dân (Cảnh sát kinh tế, hình sự,
cảnh sát phịng chống ma túy …); thuộc lực lượng an ninh nhân dân (chống gián
điệp, phản động …) và các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Có thể
gọi chung các cơ quan này là các cơ quan có thẩm quyền tố tụng khác. Đây là một
phả hệ tổ chức phức tạp, xét cả về chiều dọc lẫn chiều ngang [12]. Luật TTHS quy
định người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến
cảng được quyền tiến hành một số hoạt động tố tụng hình sự như bắt người trong
trường hợp khẩn cấp, tạm giữ hình sự, gia hạn tạm giữ hình sự. Đồng thời quy định
việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp và gia hạn tạm giữ đều phải có sự phê
chuẩn của VKS. Việc áp dụng các lệnh, quyết định này của người chỉ huy tàu bay,
tàu biển khi các phương tiện đã rời khỏi sân bay, bến cảng là họ đã thực hiện hoạt
động của CQĐT nhằm đảm bảo hiệu quả của hoạt động TTHS. Như vậy, CQĐT là
cơ quan được thành lập để thực hiện nhiệm vụ điều tra các vụ án hình sự, ngồi ra
CQĐT cịn bao gồm một số các cơ quan có thẩm quyền tố tụng khác được giao tiến
hành thực hiện một số hoạt động điều tra và các chủ thể có thẩm quyền ra một số
lệnh, quyết định TTHS trong tình huống khẩn cấp theo luật định.

Hoạt động điều tra của CQĐT là hoạt động thu thập, nghiên cứu và đánh giá
chứng cứ để tìm ra sự thật của vụ án, sự thật của hành vi phạm tội và xác định người
đã thực hiện hành vi phạm tội. Trong quá trình điều tra, để thu thập chứng cứ CQĐT
có quyền áp dụng các biện pháp tố tụng về điều tra. Song, nhiều biện pháp tố tụng
có liên quan tới quyền cơ bản của cơng dân được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp
luật, như bắt người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giam... phải có sự phê chuẩn của
VKS. Nếu VKS khơng phê chuẩn, thì các lệnh, quyết định đó khơng được thi hành.
Trong trường hợp khơng phê chuẩn thì trong quyết định khơng phê chuẩn phải nêu
rõ lý do. Ngồi ra BLTTHS, cịn quy định VKS phê chuẩn một số quyết định tố tụng
của một số cơ quan có thẩm quyền tố tụng khác. Xét về nội dung

12


và tính chất của các quyết định của CQĐT phải được VKS xét phê chuẩn hoặc
khơng phê chuẩn, thì có thể phân thành hai loại quyết định phê chuẩn: Quyết định
phê chuẩn trước bao gồm xét phê chuẩn việc gia hạn tạm giữ; lệnh bắt bị can để tạm
giam, lệnh khám xét và lệnh tạm giam bị can và quyết định phê chuẩn sau bao gồm:
Phê chuẩn việc bắt khẩn cấp; phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, thay đổi, bổ sung
quyết định khởi tố bị can. Quyết định phê chuẩn trước là việc bắt buộc các quyết
định của CQĐT phải được gửi cho VKS xem xét việc phê chuẩn hay không phê
chuẩn trước khi thi hành. Nếu VKS phê chuẩn quyết định đó thì mới được thi hành,
nếu VKS khơng phê chuẩn thì quyết định đó khơng có hiệu lực và không được thi
hành. Các quyết định (lệnh) gia hạn tạm giữ, lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh
khám xét và lệnh tạm giam bị can do người có thẩm quyền (Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng CQĐT) quyết định và phải được gửi cùng các tài liệu có liên quan đến VKS
cùng cấp để xét phê chuẩn và trong một thời hạn theo quy định của BLTTHS, VKS
phải có trách nhiệm ra quyết định phê chuẩn hoặc khơng phê chuẩn. Quyết định phê
chuẩn sau là việc phê chuẩn của VKS được tiến hành sau khi CQĐT đã ra quyết
định và đã thi hành quyết định đó. Đó là các trường hợp xét phê chuẩn việc bắt khẩn

cấp; quyết định khởi tố bị can [26].
Có thể thấy rõ điểm chung lớn nhất của các quyết định của CQĐT cần phải
có sự phê chuẩn của VKS là chúng đều là các hoạt động mang tính cưỡng chế, khi
thi hành chúng đồng nghĩa với việc hạn chế hoặc là tiền đề để hạn chế đáng kể các
quyền, tự do đối với cơng dân. Như vậy mục đích của việc phê chuẩn trong TTHS là
nhằm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động mang tính chất cưỡng chế bất lợi về quyền
tự do đối với công dân của CQĐT; đảm bảo việc áp dụng các biện pháp này là hợp
pháp và cần thiết. Thơng qua việc phê chuẩn VKS có thể ngăn chặn những hành
động xâm phạm các quyền của công dân không được pháp luật cho phép; ngăn ngừa
sự lạm quyền, lạm dụng các biện pháp cưỡng chế của CQĐT.
Như vậy, có thể hiểu xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự là việc Viện kiểm sát xem xét các biện pháp ngăn chặn của Cơ quan điều
tra và cơ quan có thẩm quyền tố tụng khác trong giai đoạn điều tra các vụ án hình

13


sự theo quy định của luật tố tụng hình sự để ra quyết định đồng ý hoặc không đồng
ý Cơ quan điều tra và cơ quan có thẩm quyền tố tụng khác được tiến hành một số

hoạt động tố tụng hình sự, nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân, đảm bảo tính hợp pháp và cần thiết của các biện pháp ngăn chặn, ngăn ngừa
việc lạm dụng của cơ quan điều tra và cơ quan có thẩm quyền tố tụng khác.
1.1.2. Ý nghĩa của xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS
Xét phê chuẩn trong TTHS là sự thể hiện quyền giám sát của VKS và mối
quan hệ vừa chế ước, vừa phối hợp giữa VKS và CQĐT. Xét phê chuẩn các biện
pháp ngăn chặn trong TTHS có ý nghĩa trong việc đảm bảo cho hoạt động điều tra
hình sự với nhiều biện pháp cưỡng chế thường xuyên được áp dụng diễn ra trong
phạm vi pháp luật cho phép. Với nhiệm vụ của mình, VKS chỉ được phép phê chuẩn
các quyết định của CQĐT khi xét thấy quyết định đó đáp ứng đủ các điều kiện là

phù hợp với quy định của pháp luật và cần thiết cho việc điều tra giải quyết vụ án cụ
thể đó.
- Ý nghĩa pháp lý: Pháp luật TTHS quy định quyền phê chuẩn của VKS là

nhằm đòi hỏi những lệnh, quyết định đó được ban hành phải có căn cứ và đúng
pháp luật tránh tình trạng lạm dụng các biện pháp tố tụng này. Với nhiệm vụ của
mình, VKS chỉ được phép phê chuẩn các lệnh, quyết định của cơ quan có thẩm
quyền điều tra khi các lệnh, quyết định đó là phù hợp với quy định của pháp luật và
cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Thực hiện tốt xét phê chuẩn các biện pháp ngăn
chặn trong TTHS làm cho các quyết định của cơ quan có thẩm quyền điều tra có
hiệu lực thi hành, đảm bảo tính hợp pháp và cần thiết của các lệnh, quyết định đó.
- Ý nghĩa chính trị: Xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS góp

phần đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đó
là Hiến pháp và luật được thượng tơn, tính tối thượng của Hiến pháp và luật được
thừa nhận. Nguyên tắc thượng tôn pháp luật của Nhà nước pháp quyền đòi hỏi
khách quan hệ thống cơ quan tư pháp phải mở rộng và tăng cường hoạt động kiểm
tra, kiểm sốt xã hội của mình; trong đó VKS là một trong những thành tố của hệ
thống tư pháp có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong phạm vi cả

14


nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước mà ở đó tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất có sự
phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhà nước đề cao, tôn trọng và bảo đảm các quyền con người. Quyền cơng dân chính
là quyền con người trong một xã hội cụ thể được thể hiện, ghi nhận trong Hiến pháp
và các đạo luật của một nhà nước cụ thể. Nhà nước quy định hệ thống những bảo

đảm, bảo vệ quyền và tự do của công dân. Hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật
của VKS là một bảo đảm pháp lý quan trọng cho các quyền, tự do của công dân
được tuân thủ và thực thi một cách hiện thực, chống lại các hành vi xâm phạm từ
bất kỳ ai mà trước hết là từ sự lạm quyền của cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm
vụ của mình. So với nhiều cơ quan nhà nước khác, VKS với vị trí, chức năng và
nhiệm vụ của mình có khả năng to lớn trong việc bảo vệ quyền con người, ngăn
chặn vi phạm quyền con người, phát hiện vi phạm, khôi phục quyền, lợi ích bị vi
phạm, yêu cầu áp dụng biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện vi phạm. Hoạt
động của VKS trong TTHS phản ánh điển hình nhất, đậm nét nhất vai trò này. Tham
gia trong TTHS, VKS thực hành quyền công tố để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, xã hội và cơng dân, chống lại hành vi tội phạm. Lĩnh vực hoạt động
TTHS là lĩnh vực mà trong đó việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hạn chế các
quyền tự do hiến định của công dân như tạm giam, khám xét nhà ở, thân thể, thư
tín… là cần thiết, khơng thể tránh khỏi và có tính phổ biến nhưng việc áp dụng
những biện pháp này phải trên cơ sở các quy định của BLTTHS. Phê chuẩn các biện
pháp ngăn chặn của VKS là bảo đảm cần thiết loại trừ những trường hợp hạn chế
các quyền tự do của công dân không có căn cứ và khơng đúng với quy định của
BLTTHS.
- Ý nghĩa xã hội: Xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong TTHS góp

phần đáp ứng yêu cầu của người dân vào sự nghiêm minh, chính xác, đúng pháp
luật, có căn cứ của các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng. Xét phê chuẩn các
biện pháp ngăn chặn trong TTHS được thực hiện đúng đắn, chính xác giúp củng cố

15


lòng tin của nhân dân vào các cơ quan tư pháp, vào chính sách của Đảng, Nhà nước
để đảm bảo trật tự xã hội, sự vững mạnh của Nhà nước. Thực hiện tốt việc phê
chuẩn sẽ góp phần làm cho hoạt động điều tra diễn ra khách quan hơn, xác định

chính xác tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, phòng ngừa và hạn chế
oan, sai bỏ lọt tội phạm xảy ra trong hoạt động TTHS.
1.2. Các quy định về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn trong pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.1. Khái quát các quy định về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn
trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trước BLTTHS năm 2015
- Giai đoạn 1945-1960
Ngay sau khi chính quyền cách mạng được thành lập tháng 9/1945, để đáp
ứng các u cầu của tình hình chính trị phức tạp, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Cách
mạng Việt Nam đã ban hành ngay Sắc lệnh số 33 ngày 13/9/1945 về việc thành lập
các TAQS ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam để xét xử tất cả các người nào phạm vào
một việc gì đó có phương hại đến nền độc lập của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
và Sắc lệnh số 37/SL ngày 26/9/1945 về việc quy định thẩm quyền theo lãnh thổ
cho các TAQS. Hệ thống TAQS này đã thay thế TA dân chúng hoặc TAQS thời tiền
khởi nghĩa và trở thành vũ khí tư pháp sắc bén để trấn áp, trừng trị những thế lực
thù địch và bảo vệ thành quả cách mạng.
Đối với vấn đề bảo vệ các quyền tự do cá nhân của công dân, ngay sau đó,
Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Cộng hịa đã ban hành Sắc lệnh số 40 ngày 29/3/1946
trong đó quy định những người có thẩm quyền bắt, khám xét, giam giữ … đối với
những người có hành vi vi phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Thẩm phán viên.
Tiết 1 Điều 1 Sắc lệnh số 40 quy định: “Chỉ trừ khi nào có sự phạm pháp quả tang
về khinh tội hay trọng tội còn bao giờ bắt người cũng cần phải có lệnh của Thẩm
phán viên”, Điều 3 quy định: “Việc giam cứu trước khi xử, bao giờ cũng do các cơ
quan tư pháp quyết định”. Tại tiết II Sắc lệnh quy định về “những phương pháp đề
phòng đặc biệt”, Điều 7 cho phép “Trong tình thế đặc biệt hiện thời và cho đến khi
có lệnh khác, Chủ tịch ủy ban hành chính kỳ đặc cách được phép lệnh bắt những

16



người xét ra lời nói hay việc làm có thể làm hại cho sự đấu tranh giành độc lập, cho
chế độ dân chủ, cho sự an tồn của cơng chúng và sự đoàn kết của quốc gia …”.
Như vậy, Sắc lệnh này cho phép trong trường hợp đặc biệt, cơ quan hành chính có
thể ra lệnh bắt người khơng phải là phạm tội quả tang nhưng vẫn phải được sự đồng
ý của một hội đồng trong đó có sự hiện diện của đại diện cơ quan tư pháp. Chế định

này tương tự như việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp trong TTHS hiện nay.
Theo các văn bản: Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức các Tòa án và
ngạch Thẩm phán; Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1046 về ấn định thẩm quyền các TA và
sự phân công giữa các nhân viên trong TA; Sắc lệnh số 23 ngày 21/2/1946 về thành
lập Việt Nam công an vụ; Sắc lệnh số 131 ngày 20/7/1946 về Tổ chức tư pháp công
an thì Tư pháp cơng an có nhiệm vụ “truy tầm tất cả các sự phạm pháp (đại hình,
tiểu hình hoặc vi cảnh), sưu tập các tang chứng, bắt giao người phạm pháp cho các
TA xét xử trong phạm vi luật pháp ấn định”. Tư pháp cơng an vụ gồm có: Phụ trách
tư pháp công an là Dự thẩm, Biện lý và Phó biện lý; ủy viên tư pháp cơng an gồm:
Thẩm phán sơ cấp, Chủ sự và Phó chủ sự phịng chính trị và phịng tư pháp, Trưởng
ban chính trị và ban tư pháp cùng quận trưởng các quận công an, trưởng ty cơng an
tỉnh, Kiểm sốt viên kiểm lâm, Hỏa xa, Thương chính và tất cả các viên chức mà
pháp luật giao phó cho nhiệm vụ tư pháp cơng an đối với những việc phạm pháp
riêng của từng ngành. Như vậy tư pháp cơng an chính là cơ quan có chức năng điều
tra các vụ án hình sự, là tiền thân của CQĐT ngày nay. Điều thứ 5 Sắc lệnh số 13
ngày 24/1/1946 về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán quy định: “Những ủy
viên tư pháp công an về phương diện tư pháp công an đều đặt dưới quyền kiểm soát
trực tiếp của Biện lý hay Thẩm phán viên nào giữ chức vụ biện lý (còn được gọi là
Thẩm phán buộc tội) ở những tỉnh không có Biện lý. Biện lý có quyền ra chỉ thị và
kiểm sốt cơng việc của tất cả các ủy viên tư pháp công an”. Trong giai đoạn này,
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật được gia cho
Viện Công tố - tiền thân của VKS ngày nay. Như vậy, khi cơ quan công tố chưa
được tổ chức độc lập thì vai trị kiểm sốt, chỉ đạo hoạt động điều tra do Biện lý hay
Thẩm phán giữ chức vụ biện lý là người thực hiện quyền buộc tội đảm nhiệm. Việc


17


phê chuẩn trong TTHS tuy chưa được quy định một cách hệ thống và cụ thể trong
các văn bản pháp quy nhưng những hoạt động mang tính chất như phê chuẩn đối
với một số quyết định, hoạt động trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự đã được
quy định và thực hiện. Các quy định này nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra, áp
dụng các biện pháp cưỡng chế như bắt người, khám xét được kiểm soát chặt chẽ,
phòng tránh việc lạm quyền của Ủy ban hành chính.
Có thể thấy rằng trong giai đoạn này, do Nhà nước dân chủ cộng hòa mới
được thành lập, nhiều nhiệm vụ nặng nề địi hỏi phải giải quyết nên cơng tác lập
pháp chưa có được nhiều thành tựu. Quy định về phê chuẩn trong TTHS nói riêng
cũng như các quy định của pháp luật nói chung cũng như việc tổ chức bộ máy nhà
nước còn thể hiện rõ nét dấu ấn kế thừa những quy phạm của chính quyền trước
Cách mạng tháng Tám nhưng phù hợp với Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa.
- Giai đoạn 1960-1988
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, với việc đánh đuổi hoàn toàn giặc Pháp
tại miền Bắc Việt Nam, giai đoạn này có sự phát triển vượt bậc về nhiều mặt trong
đó khơng thể phủ nhận sự phát triển của cơng tác lập pháp. Hiến pháp năm 1959
rồi sau đó là Hiến pháp năm 1980 đã xác định rõ đường lối phát triển của nước ta
là đi lên xã hội chủ nghĩa. Tổ chức bộ máy nhà nước theo đó dần được hoàn thiện,
các chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước tương ứng đã được phân định
cụ thể và tương đối rạch rịi, trong đó gần như xóa hẳn các dấu vết của hệ thống
pháp luật trước tháng 9/1945. Viện Công tố (nay là VKSND) đã ra đời và được tổ
chức theo ba cấp trên cả nước để đảm bảo thực hiện chức năng công tố cũng như
thực hiện việc kiểm sát tuân theo pháp luật. Cùng với một loạt các văn bản pháp
luật mới khác được ban hành trong đó có Luật tổ chức VKSND năm 1960. Cơ
quan thực hiện chức năng công tố được thành lập, chính thức tách khỏi bộ máy của

hệ thống TA. Hệ thống VKSND được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc song
trùng trực thuộc, vừa chịu sự lãnh đạo của VKS cấp trên về chuyên môn nghiệp
vụ, vừa chịu sự lãnh đạo của Ủy ban hành chính cùng cấp. Trong TTHS,

18


VKS có chức năng: Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước
TAND những người phạm pháp về hình sự; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc điều tra của cơ quan công an và CQĐT khác. Các bản Hiến pháp trong thời kỳ
này là Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 đều quy định: Cơng dân có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức
khỏe, danh dự và nhân phẩm, khơng ai có thể bị bắt nếu khơng có quyết định của
TA, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND trừ những trường hợp phạm tội quả
tang. Tuy nhiên, các quy định về pháp luật TTHS lại chưa được hệ thống hóa thành
Bộ luật mà nằm rải rác ở nhiều văn bản. Trong giai đoạn này, các thủ tục TTHS
vẫn chủ yếu thực hiện theo các quy định trong các văn bản được ban hành trong
giai đoạn trước như: Luật số 103 ngày 20/5/1957 về bảo đảm quyền tự do thân thể
và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân; Sắc luật số
002 ngày 18/6/1957 quy định về những trường hợp phạm pháp quả tang, khẩn cấp
và bổ sung quy định Điều 10 của Luật số 103; Sắc luật số 02 ngày 15/3/1976 của
Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định sáu trường
hợp được bắt khẩn cấp. VKSND từ cấp huyện trở lên có quyền ra lệnh bắt giam
người phạm tội; Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán TAND có quyền ra lệnh bắt
giam người phạm tội trong những vụ án hình sự đang thụ lý; Trưởng và Phó cơng
an nhân dân từ cấp tỉnh trở lên có quyền ra lệnh bắt giam người phạm tội; lệnh
phải được sự phê chuẩn chính xác của VKS. Các quy định này dù có tản mạn
nhưng đã có tác dụng tích cực trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm của các
cơ quan bảo vệ pháp luật trong suốt một thời gian dài. Tuy nhiên, qua thực tế thực
hiện, hệ thống các quy định về bắt, giam, giữ cũng như các quy định về khởi tố bị

can vẫn chưa đầy đủ và chặt chẽ đã bộc lộ nhiều sơ hở nên dẫn đến tình trạng bắt
người tràn lan, lạm dụng bắt khẩn cấp và tạm giam q hạn cịn nhiều, các quyền
và lợi ích hợp pháp của cơng dân bị xâm hại địi hỏi cần phải được khắc phục triệt
để.
- Giai đoạn 1988-2003: Quy định về xét phê chuẩn các biện pháp ngăn
chặn trong BLTTHS năm 1988

19


×