Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Kiểm sát hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ thực tiễn huyện tam đảo, tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (986.85 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ ĐÌNH LƯỠNG

KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ ĐÌNH LƯỠNG

KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Trần Văn Độ



Hà Nội, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được người khác công bố trong bất kỳ công trình nào khác
Tác giả luận văn

Lê Đình Lưỡng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN ............................................................................................................... 8
1.1. Những vấn đề lý luận về kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam .......................................................... 8
1.2. Những quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về kiểm sát việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn.................................................................... 18
CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN
PHÁP NGĂN CHẶN TẠI HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC .... 37
2.1. Đánh giá khái quát về tình hình Điều tra, Truy tố, Xét xử các tội phạm
trên địa bàn Tao Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc ............................................................. 37
2.2. Thực trạng công tác kiểm sát việc áp dụng các BPNC tại huyện Tam Đảo,
tỉnh Vĩnh Phúc................................................................................................. 41
CHƯƠNG 3 CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC

KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠI
HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC .................................................. 64
3.1. Dự báo về tình hình tội phạm tại huyện Tam Đảo ................................... 64
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn ................................................................................................ 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT

: Cơ quan điều tra

ĐTV

: Điều tra viên

KSV

: Kiểm sát viên

THTT


: Tiến hành tố tụng

TTHS

: Tố tụng hình sự

TAND

: Tòa án nhân dân

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Số người bị bắt giữ hình sự tại huyện Tam Đảo từ 2013 đến 2017 ... 42
Bảng 2.2. Các biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với bị can .................. 47


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Các biện pháp ngăn chặn là một trong những chế định rất quan trọng
của luật tố tụng hình sự. Đó là các biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với
bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố
(trong trường hợp giữu người trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả
tang), nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa họ
tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trờ cho việc
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
không chỉ nhằm giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có điều kiện thuận lợi để
giải quyết các vụ án hình sự mà còn góp phần phát hiện nhanh chóng, ngăn
chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với người phạm tội, không để lọt tội
phạm và không làm oan người vô tội. Áp dụng biện pháp ngăn chặn thể hiện
sự cưỡng chế mạnh mẽ của Nhà nước đối với kẻ phạm tội. Khi áp dụng biện
pháp ngăn chặn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân
được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác. Nếu việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn như giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm
giữ, tạm giam oan, sai sẽ xâm phạm đến các quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, nhất là các quyền tự do cá nhân. Ngược lại, không áp dụng các BPNC
đối với người phạm tội để những người đó vẫn tự do ngoài vòng pháp luật,
tiếp tục gây án hoặc trốn tránh sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, xử lý vụ án
cũng như làm thiệt hại đến quyền lợi của công dân, của cộng đồng, làm giảm
lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước.
Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm đến việc áp dụng các BPNC, đặc biệt
là các biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam
nhằm tránh tình trạng bắt, tạm giữ, tạm giam oan người vô tội hoặc để lọt kẻ

1


phạm tội. Các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về công tác tư pháp đều nhấn

mạnh đến công tác áp dụng các BPNC của các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc
biệt là luôn nhấn mạnh vai trò của Viện kiểm sát nhân dân - một trong các cơ
quan bảo vệ pháp luật, có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất. Tại Chỉ thị số 53/CT-TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị về
một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp xác định: “Tăng cường
trách nhiệm pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân đổi với công tác bắt, giam,
giữ. Việc bắt, giam phải được xem xét phê chuẩn đổi với từng trường hợp,
từng đổi tượng cụ thể. Đối với trường hợp bắt giam cũng được hoặc không
bắt giam cũng được thì không bắt giam. Sai sót trong việc bắt, giam, giữ ở
địa phương nào thì trước hết Viện kiểm sát nhân dân ở địa phương đó chịu
trách nhiệm ” Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới cũng nêu rõ: ‘tăng cường công
tác kiểm sát việc giữ khẩn cấp, giam, giữ bảo đảm đúng pháp luật; những
trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn
lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam' phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan,
sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai
trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của
mình.
Qua thực tiễn cho thấy, những năm gần đây Viện kiểm sát các cấp đã
không ngừng tăng cường hiệu quả công tác kiểm sát việc áp dụng các BPNC
nên việc áp dụng các BPNC của các cơ quan tiến hành tố tụng về cơ bản được
thực hiện đúng pháp luật; khắc phục một bước quan trọng trong việc lạm
dụng giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lạm dụng bắt quả tang, hình sự
hóa các quan hệ kinh tế dân sự, hạn chế đáng kể việc bắt, giam giữ, truy tố,
xét xử oan, sai và bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, những quy định của BLTTHS

2



về các BPNC về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong kiểm sát việc áp
dụng các BPNC vẫn còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho việc thực hiện. Bên
cạnh đó còn có những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác như yếu tố
con ngưòi, yếu tố cơ sở vật chất cũng làm phát sinh các vi phạm, ảnh hưởng
phần nào đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc
kiểm sát việc áp dụng các BPNC trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Với những yêu cầu cấp bách của công cuộc cải cách tư pháp, đòi hỏi
phải có những nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống về lý luận cũng như thực
tiễn về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong kiểm sát việc áp dụng các
BPNC để đề ra những giải pháp hợp lý hoàn thiện các quy định của pháp luật
hiện hành nhằm tăng cường hiệu quả công tác kiểm sát việc áp dụng các
BPNC, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy tác giả chọn đề tài: “Kiểm
sát hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ
thực tiễn huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học
của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi Bộ luật Tố tụng Hình sự được ban hành, đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu về các nội dung liên quan đến các BPNC trong TTHS, trong
đó có đề cập đến một vài khía cạnh về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND. Có
thể nêu ra một số công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo đã xuất bản như: “
Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Mai
Bộ (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995); “về tự do cá nhân và biện pháp
cưỡng chế tố tụng hình sự" của Tiến sĩ Trần Quang Tiệp, Nxb Chính trị Quốc
gia 2005- “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong Tố tụng
hình sự Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp ” - Luận án tiến sĩ
Luật học của tác giả Nguyễn Văn Điệp (bảo vệ năm 2006); Tạm giữ, tạm
giam trong tố tụng hình sự Việt Nam Luận văn Thạc sĩ của tác giả Phạm

3



Thanh Bình (bảo vệ năm 2007);
Đặc biệt các báo, tạp chí chuyên ngành cũng đăng tải rất nhiều các bài
viết có liên quan. Đó là các bài như: “Áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm
giữ tạm giam đối với người chưa thành niên” (Tạp chí Tòa án nhân dân số
5/2006) của tác giả Mai Bộ; “Một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao chất
lượng công tác kiểm sát hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam” (Tạp chí kiểm sát
số 14/2012) của tác giả Dương Ngọc An; “Hoàn thiện các quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam ” (Tạp chí Kiểm sát số 21/2012)
của tác giả Trần Văn Độ; “Biện pháp bắt người theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 - Một số vấn đề cần trao đổi ” (Tạp chí Nghề luật số
3/2012) của tác giả Đinh Thành An - Ngô Văn Vịnh; “Căn cứ tạm giam, hạn
chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm, thu hẹp
đổi tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng tạm giam ”
(Tạp chí Kiểm sát số 19/2012) của Tiến sĩ Đỗ Văn Đương.
Các tài liệu, giáo trình giảng dạy của các trường Đại học như: Giáo
trình Luật tố tụng hình sự của các trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội, cuốn "Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự
Việt Nam năm 2003 ”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2004 cũng đề cập tới
vấn đề này.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết, tài
liệu, giáo trình nêu trên chỉ nghiên cứu các BPNC môt cách khái quát với tính
chất là những BPNC có nội dung về thẩm quyền, điều kiện, căn cứ, đối tượng
áp dụng, những hạn chế trong các quy định của pháp luật TTHS và hướng
hoàn thiện. Chưa có một công trình riêng nào nghiên cứu chuyên sâu về kiểm
sát việc áp dụng các BPNC theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ở các địa
phương nói chung và huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.

4



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam
về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong kiểm sát việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn và thực tiễn áp dụng, luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện quy định của pháp luật về các biện pháp ngăn chặn và kiểm sát việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường
hiệu quả công tác kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong TTHS

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra đối với luận văn là:

- Xác định rõ khái niệm và nội dung kiểm sát việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng những quy định của pháp
luật về kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn huyện
Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc để xác định những hạn chế, bất cập trong việc thực
hiện những quy định này.

- Từ việc đánh giá thực trạng áp dụng, tìm ra nguyên nhân của những
hạn chế, bất cập để làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả công tác kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn
đề chủ yếu sau:


- Khái niệm, nội dung của công tác kiểm sát việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

- Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kiểm sát việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn

- Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện
5


hành về kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn huyện
Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam hiện hành liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND trong việc kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và thực
tiễn áp dụng những quy định này từ năm 2013 đến năm 2017 trên địa bàn
huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Luận văn không nghiên cứu nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát quân sự cũng như một số vấn đề khác có liên
quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 . Phương pháp luận:
Để nghiên cứu đề tài, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước và pháp luật.
5.2 . Phương pháp nghiên cứu:
Quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp nghiên cứu chuyên ngành Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự,

phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh, thống kê dựa trên các quy phạm pháp
luật hiện hành, các tài liệu, sách báo, bài viết, công trình nghiên cứu khoa học
của các tác giả đã nghiên cứu trước đó, kết hợp đánh giá thực tiễn áp dụng
pháp luật tố tụng hình sự để hoàn thành luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị trong luận văn có ý nghĩa quan
trọng đối với hoạt động kiểm sát việc áp dụng các BPNC tại huyện Tam Đảo,
tỉnh Vĩnh Phúc. Đồng thời góp phần cung cấp luận cứ hoàn thiện cơ sở lý
luận và chỉ đạo thực tiễn đối với các chủ thể áp dụng BPNC nhằm thực hiện

6


đúng đắn pháp luật tố tụng hình sự.
Thông qua việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm
sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, tác giả mong muốn góp phần hoàn
thiện các quy định của pháp luật về kiểm sát việc áp dụng các BPNC trong
tình hình mới. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn có thể được sử dụng làm
tài liệu tham khảo cho cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật, đặc biệt là tại
huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung chính của luận văn bao gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về kiểm sát
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn;
Chương 2: Thực tiễn kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại
huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc;
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn tại huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.


7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN

1.1. Những vấn đề lý luận về kiểm sát việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

1.1.1. Khái niệm
* Khái niệm các biện pháp ngăn chặn
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, để kịp thời ngăn chặn tội
phạm, ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án hoặc ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, Cơ quan điều tra và
các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (gọi
chung là CQĐT),Viện kiểm sát (VKS) và Tòa án (TA) trong phạm vi thẩm
quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật
Tố tụng Hình sự (BLTTHS) có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn ( BPNC)
bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú. bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản
có giá trị để bảo đảm (Điều 109 BLTTHS 2015)[15]
Theo từ điển Tiếng Việt, ngăn chặn là “chặn lại ngay từ đầu, không để
cho gây tác hại”. Theo cách hiểu chung nhất, BPNC là các biện pháp cưỡng
chế trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc
đối với người chưa bị khởi tố (trong trường hợp giữ người trong trường hợp
khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm
cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc
có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án
hình sự.
Có thể khẳng định rằng, BPNC trong TTHS là một nhóm các biện pháp

cưỡng chế TTHS chứ không phải là biện pháp chấp hành hình phạt tù. Tuy

8


vậy việc áp dụng BPNC mà đặc biệt là bắt, tạm giữ, tạm giam có ảnh hưởng
rất lớn đến quyền của cá nhân người bị áp dụng, nhất là quyền nhân thân và
quyền tự do cá nhân. Do đó, áp dụng BPNC trong TTHS không chỉ phải tuân
theo trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ mà còn phải dựa trên những căn cứ nhất
định để xem xét tính cần thiết của việc áp dụng. Vậy các BPNC được hiểu
như thế nào?

- Biện pháp ngăn giữ người trong trường hợp khẩn cấp: Giữ người
trong trường hợp khẩn cấp là một trong những BPNC có tính cưỡng chế
nghiêm khắc, mang tính đặc thù thường được áp dụng liền trước các BPNC
như tạm giữ, tạm giam. BPNC giữ người trong trường hợp khẩn cấp làm hạn
chế một số quyền tự do của cá nhân người bị bắt, buộc họ phải có mặt tại địa
điểm quy định để làm việc với Cơ quan tố tụng.
Nhằm mục đích đấu tranh có hiệu quả với tội phạm, tăng cường pháp
chế XHCN, thực hiện mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật cũng như
đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công dân, BLTTHS quy định ba trường
hợp bắt, đó là: Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; bắt bị can, bị cáo
để tạm giam; Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
Các trường hợp nêu trên là quy định chung để khi có căn cứ thuộc
trường hợp nào thì cơ quan, người có thẩm quyền do luật định có thể áp dụng.
Việc bắt nhất thiết phải tuân thủ các căn cứ, trình tự, thủ tục theo pháp luật
quy định. Song có một số trường hợp cá biệt khi chủ thể là người nước ngoài,
người có chức sắc trong các tôn giáo, nhân sỹ, trí thức có tiếng... phạm tội thì
ngoài áp dụng các quy định trọng BLTTHS còn vận dụng thêm các quy định
mang tính chất cá biệt để áp dụng các BPNC. Việc áp dụng các biện pháp bắt

người cũng phải quán triệt các nguyên tắc chung, các chủ trương, đường lối
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn xây dựng và phát triển nền
kinh tế - xã hội của đất nước ta.

9


- Biện pháp ngăn chặn tạm giữ: Điều 117 BLTTHS 2015 quy định về
đối tượng, căn cứ và thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giữ. Theo quy định của
điều luật này thì tạm giữ là việc cơ quan và người có thẩm quyền ra quyết
định tạm thời hạn chế tự do trong thời hạn ngắn đối với người bị bắt trong
trường hợp phạm tội quả tang hoặc trong trường hợp giữ người trong trường
hợp khẩn cấp. Mục đích của BPNC tạm giữ là nhằm ngăn chặn hành vi phạm
tội hoặc hành vi cản trở việc điều tra khám phá tội phạm của những người bị
nghi là thực hiện hành vi phạm tội, tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền
có thời gian để xác định tính chất, mức độ của hành vi; nhân thân của người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội để từ đó có thể quyết định khởi tố
hoặc không khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc các quyết định pháp lý
càn thiết khác như: tạm giam, áp dụng các BPNC khác hay trả tự do cho
người đã bị bắt.

- Biện pháp ngăn chặn tạm giam: Căn cứ Điều 119 BLTTHS 2015 có
thể hiểu:
Tạm giam là BPNC nghiêm khắc nhất trong tố tụng hình sự do những
người có thẩm quyền của CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo
phạm tội mà BLHS quy định hình phạt tù để ngăn chặn người phạm tội có thể
trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Các biện pháp bắt người, tạm giữ cũng là BPNC nghiêm khắc, nó cũng hạn
chế quyền tự do của công dân, nhưng thời gian hạn chế quyền tự do trong bắt
và tạm giữ ngắn hơn nhiều so với tạm giam. Trong vòng 24 giờ sau khi bắt,

CQĐT phải lấy lời khai, ra quyết định tạm giữ hoặc trả lại tự do cho người bị
bắt. Thời gian tạm giữ là 03 ngày đêm và tối đa là 09 ngày đêm đối với
trường hợp có gia hạn tạm giữ. Trong khi đó thời hạn tạm giam để điều tra có
thể lên đến 12 tháng hoặc 16 tháng. Các BPNC cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm chỉ ảnh hưởng đến quyền tự do

10


đi lại hoặc quyền và lợi ích về tài sản mà không ảnh hưởng đến các quyền tự
do khác của công dân như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do
giao tiếp, quyền hội họp.v.v.

- Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú: Căn cứ Điều 123
BLTTHS 2015 thì Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể được
áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nhằm đảm bảo sự có mặt
của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Người
ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này
cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú và giao bị can,
bị cáo cho chính quyền xã, phường thị trấn để quản lý, theo dõi họ. Trong
trường hợp bị can, bị cáo có lý do chính đáng phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú
thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư
trú và phải có giấy phép của cơ quan đã áp dụng biện pháp ngăn chặn đó. Bị
can bị cáo vi phạm lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn
chặn khác.

- Biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh: Bảo lĩnh là BPNC để thay thế biện
pháp tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ
chức làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và đảm bảo
sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc

Tòa án ( Điều 121 BLTTHS 2015). Người bị áp dụng BPNC này không bị các
ly ra khỏi xã hội và được ở nơi cư trú của mình. Đây là BPNC ít nghiêm khắc
hơn để thay thế BPNC tạm giam khi có những căn cứ theo luật định

- Biện pháp ngăn chặn đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 122 BLTTHS 2015 thì đặt tiền hoặc tài sản
có giá trị để bảo đảm là BPNC để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và
tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án

11


có thể quyết định cho họ đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm sự có mặt
của họ theo giấy triệu tập.

- Biện pháp tạm hoãn xuất cảnh: Theo quy định tại khoản 1 Điều 124
BLTTHS 2015 thì biện pháp tạm hoãn xuất cảnh là BPNC để ngăn chặn bị
can, bị cáo. Người tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua điều tra, xác
minh có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy
cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án có thể quyết định tạm hoãn xuất cảnh.

* Khái niệm kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự
Trong hoạt động tố tụng hình sự VKSND có vị trí, vai trò rất quan
trọng. Cùng với CQĐT, Tòa án, VKS là cơ quan tiến hành tố tụng, được pháp
luật quy định là cơ quan duy nhất thay mặt Nhà nước thực hành quyền công
tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự
nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, bảo đảm

việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội. Hiến pháp 1959 đánh dấu sự ra đời của VKSND với việc lần đầu tiên quy
định trong cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước “có một hệ thống cơ quan Nhà
nước mới, thực hiện một chức năng mới của Nhà nước - chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất trong phạm vi cả nước - đó là Viện kiểm sát nhân dân”. Thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và Hiến pháp 1959, ngày
26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh công bố Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân, khai sinh hệ thống cơ quan VKSND ở Việt Nam. Từ đó đến nay
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đã qua nhiều lần sửa đổi năm 1981,
1992, 2002, và mới đây nhất là Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 (có

12


hiệu lực từ 01/06/2015). Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan Nhà
nước có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Nghị quyết số 49-NQ/TW của
Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ “…thực hiện
cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra, đổi mới công tác bắt, tạm giữ tạm
giam theo hướng đề cao vấn đề bảo vệ quyền con người trong hoạt động tố
tụng”[4] . Trong việc áp dụng các BPNC, VKS có nhiệm vụ đảm bảo mọi
trường hợp bị áp dụng các BPNC đều phải có căn cứ, đúng pháp luật, không
oan, sai, bỏ lọt, nhằm phục vụ có hiệu quả cho xử lý tội phạm và người phạm
tội; bảo đảm quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người
bị áp dụng các BPNC không bị luật hạn chế được tôn trọng, bảo vệ.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, VKSND được Đảng, Nhà nước giao các

quyền hạn pháp lý để thực hiện. VKSND có quyền áp dụng mọi biện pháp do
pháp luật quy định để đảm bảo việc áp dụng BPNC có căn cứ và cần thiết
đồng thời phát hiện, loại trừ vi phạm pháp luật trong việc áp dụng các BPNC.
Khoản 4, khoản 5 điều 165 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định khi thực hành
quyền công tố trong việc áp dụng các BPNC, VKS có nhiệm vụ và quyền :
Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các
biện pháp ngăn chặn khác, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của
Cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS; hủy bỏ các quyết định
không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT. Khi kiểm sát hoạt động tư pháp
trong áp dụng BPNC, VKS có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực
hiện việc áp dụng BPNC theo đúng quy định của pháp luật, tự kiểm tra việc
thực hiện việc áp dụng BPNC thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả cho
Viện kiểm sát. Cung cấp hồ sơ, tài liệu để VKS kiểm tra tính hợp pháp của

13


các hành vi, quyết định áp dụng BPNC. Yêu cầu CQĐT khắc phục các vi
phạm pháp luật, cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra
viên và yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi
phạm pháp luật trong việc áp dụng các BPNC này; trực tiếp kiểm sát tại nhà
tạm giữ, trại tạm giam; kiểm tra hồ sơ, tài liệu của trại tạm giam, nhà tạm giữgặp, hỏi người bị tạm giữ, tạm giam; tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo
về việc tạm giữ, tạm giam; yêu cầu trại tạm giam, nhà tạm giữ thông báo tình
hình tạm giữ, tạm giam, trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi
phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam; kháng nghị yêu cầu đình chỉ
việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc
tạm giữ, tạm giam, chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý
người vi phạm pháp luật. Kiến nghị với cơ quan, tổ chức áp dụng các biện
pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. [15]
Như vậy có thể hiểu “kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn

theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là việc Viện kiểm sát nhân dân sử
dụng tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý do Nhà nước trao cho Viện kiểm
sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn nhằm đảm bảo việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn có căn cứ, đúng pháp luật, đồng thời đảm bảo các quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị áp dụng các BPNC không bị pháp luật tước bỏ được
tôn trọng và bảo vệ”

1.1.2. Nội dung kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong
tố tụng hình sự Việt Nam

- Kiểm sát việc áp dụng biện pháp bắt:
Hoạt động bắt người luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị,
xã hội vì bắt người đúng hay không đúng các quy định của pháp luật có liên
quan và ảnh hưởng đến các quyền cơ bản của công dân: quyền bất khả xâm

14


phạm về thân thể, quyền được bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự, nhân
phẩm...của công dân, liên quan đến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước. Kiểm sát việc áp dụng BPNC bắt người là kiểm sát việc áp
dụng BPNC đó cả về nội dung và hình thức.

- Kiểm sát về nội dung đó là kiểm sát tính có căn cứ và tính hợp pháp
của việc bắt người. Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, làm rõ các
căn cứ pháp luật và căn cứ thực tế của việc bắt người. Xem xét tính chất của
hành vi khách quan, khách thể bị xâm hại kết hợp với xem xét ý thức chủ
quan và nhân thân (độ tuổi, năng lực pháp luật, tiền án tiền sự...) của người
thực hiện hành vi phạm tội, đánh giá chứng cứ xem có hành vi phạm tội xảy

ra hay không, vi phạm điều nào, khoản nào của BLHS, có đủ căn cứ để bắt
người hay không từ đó để đề xuất lãnh đạo VKS phê chuẩn hay không phê
chuẩn lệnh bắt người (trong trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp hoặc bắt bị can để tạm giam) của Cơ quan điều tra. Nếu thấy việc bắt, giữ
người không đủ căn cứ VKS yêu cầu CQĐT trả tự do ngay cho người bị bắt, giữ
[31].

- Kiểm sát về hình thức phải kiểm sát việc bắt người đã đúng quy định
của luật tố tụng hình sự về trình tự thủ tục, về căn cứ bắt, thẩm quyền bắt, trường
hợp bắt (quả tang, truy nã, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt tạm
giam) có đúng hay không.

- Kiểm sát việc tạm giữ, gia hạn tạm giữ.
Viện kiểm sát không trực tiếp ra quyết định tạm giữ nhưng có trách
nhiệm kiểm sát việc tạm giữ. Mục đích của hoạt động kiểm sát việc tạm giữ là
nhằm bảo đảm việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ có căn cứ và
đúng pháp luật, kịp thời khắc phục các vi phạm trong quá trình áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ của những người có thẩm quyền. Nếu thấy cần gia
hạn tạm giữ để làm rõ hành vi cũng như nhân thân người bị tạm giữ thì VKS phê
chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ của Cơ quan điều tra hoặc trong trường hợp
15


cần thiết nếu Cơ quan điều tra không gia hạn tạm giữ thì VKS yêu cầu cơ quan
điều tra gia hạn tạm giữ. Nếu thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần
thiết, VKS ra quyết định hủy bỏ việc tạm giữ. Các trường hợp phải hủy bỏ quyết
định tạm giữ là các trường hợp như người bị tạm giữ không thực hiện hành vi
phạm tội, người bị tạm giữ chỉ vi phạm hành chính hoặc hành vi của họ tuy có
dấu hiệu của tội phạm nhưng mức độ nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, chưa
đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Các trường hợp không cần thiết phải

tạm giữ như hành vi phạm tội ít nghiêm trọng, lai lịch người phạm tội rõ ràng,
nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, khai báo thành khẩn, không bỏ trốn hoặc gây
trở ngại cho công tác điều tra, truy tố, xét xử.
- Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam
Theo quy định của BLTTHS 2015 thì việc tạm giam bị can, bị cáo phải
có lệnh tạm giam. Lệnh này phải do những người có thẩm quyền kí. Lệnh tạm
giam phải ghi rõ ngày, tháng, năm; họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên,
địa chỉ của người bị tạm giam; lí do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho
người bị tạm giam một bản. Theo quy định tại khoản 5 Điều 119 BLTTHS
lệnh tạm giam của CQĐT phải được Viện trưởng VKS cùng cấp phê chuẩn
trước khi thi hành. Khi thực hiện kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam
của CQĐT, Tòa án thì VKS phải kiểm sát tính có căn cứ và hợp pháp trong
lệnh tạm giam của CQĐT, TAND. Kiểm sát căn cứ tạm giam, đối tượng bị
tạm giam, thẩm quyền ra lệnh tạm giam, thời hạn tạm giam và thủ tục tạm
giam theo đúng quy định của BLTTHS cần phải kiểm sát việc sau khi ra lệnh
tạm giam cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải thông báo ngay cho gia đình
người bị tạm giam và cho cơ quan chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú, làm việc biết [37].
+ VKS quyết định phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh tạm giam của cơ
quan điều tra: khi CQĐT ra lệnh tạm giam bị can để điều tra, CQĐT phải gửi

16


lệnh tạm giam cùng toàn bộ hồ sơ để VKS phê chuẩn. KSV phải nghiên cứu
kỹ hồ sơ báo cáo lãnh đạo VKS. Nếu thấy đủ căn cứ thì VKS phê chuẩn lệnh
tạm giam của CQĐT, nếu thấy không đủ căn cứ hoặc không cần thiết phải áp
dụng BPNC tạm giam thì VKS ra quyết định không phê chuẩn lệnh tạm giam
và yêu cầu CQĐT trả tự do hoặc áp dụng BPNC khác đối với bị can.
+ VKS quyết định việc thay thế hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam ở giai

đoạn điều tra: Tại Khoản 2 Điều 125 BLTTHS năm 2015 quy định: cơ quan
điều tra, VKS, Tòa án hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần
thiết hoặc có thể thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn khác. Đối với những
biện pháp ngăn chặn do VKS phê chuẩn thì việc hủy bỏ hoặc thay thế do VKS
quyết định. Vì vậy trong giai đoạn điều tra nếu thấy không cần thiết phải tiếp
tục tạm giam bị can thì căn cứ vào đề nghị của CQĐT, VKS ra quyết định hủy
bỏ hoặc thay thế BPNC tạm giam.
+ VKS kiểm sát việc gia hạn tạm giam để điều tra: Nhiều vụ án hình sự
do tính chất phức tạp, nhiều bị can, phạm nhiều tội... cần thiết phải gia hạn
tạm giam để điều tra thì CQĐT có công văn đề nghị VKS gia hạn tạm giam.
VKS phải kiểm tra kỹ hồ sơ đảm bảo việc gia hạn tạm giam là có căn cứ,
tránh kéo dài thời hạn tạm giam không cần thiết.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam
Khi các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định áp dụng biện pháp tạm
giữ, tạm giam đối với người thực hiện hành vi phạm tội, bị can, bị cáo thể
hiện bằng lệnh tạm giữ, lệnh tạm giam hoặc quyết định tạm giam. Lệnh tạm
giữ, lệnh tạm giam và quyết định tạm giam đó chỉ được thực hiện trên thực
tiễn và đạt được mọc đích ngăn chặn khi người bị tạm giữ, tạm giam phải
được quản lý ở những nơi thực hiện việc giam giữ với một chế độ quản lý
nghiêm ngặt, chặt chẽ. Cơ quan được giao trách nhiệm quản lý họ là Trại tạm
giam hoặc Nhà tạm giữ. Vì vậy đối tượng của công tác kiểm sát việc tạm giữ,

17


tạm giam là việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều tra, Tòa án, nhà tạm giữ,
trại tạm giam trong việc tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật. Tại
Điều 26 Luật tổ chức VKSND năm 2014 nêu rõ mục đích của kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam là: nhằm đảm bảo việc tạm giữ, tạm giam
theo đúng quy định của pháp luật; chế độ tạm giữ, tạm giam được chấp hành

nghiêm chỉnh; tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm
giam và các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng;
quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi, quyết định trái pháp luật trong tạm giữ,
tạm giam được thực hiện theo pháp luật [33].

- Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn
khác Đối với các BPNC khác gồm: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm,VKS phải kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng,
thay đổi hoặc huỷ bỏ BPNC của Cơ quan điều tra, nhằm đảm bảo việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn này đúng quy định của pháp luật. VKS phải
kiểm sát tính có căn cứ, tính hợp pháp, đối tượng bị áp dụng và điều kiện để
áp dụng những BPNC đó có đúng quy định của BLTTHS hay không [37].
1.2 . Những quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về
kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Theo quy định của pháp luật, VKSND có chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp [14]. Trong tố tụng hình sự,
VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng, VKS kiểm sát việc áp dụng các BPNC
nhằm đảm bảo việc áp dụng các BPNC đối với người phạm tội có căn cứ,
đúng pháp luật, không để xảy ra tình trạng bắt, tạm giữ, tạm giam oan, sai
hoặc không cần thiết nhằm phục vụ có hiệu quả cho việc điều tra, truy tố, xét
xử người phạm tội ra trước Tòa án. VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc áp dụng các BPNC này nhằm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật
của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, áp dụng những biện

18


pháp do BLTTHS quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ
quan và cá nhân này. Ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKSND có trách
nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

việc áp dụng BPNC của CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra thể hiện qua việc VKS là cơ quan có nhiệm vụ
quyền hạn mang tính chất quyết định như quyết định việc phê chuẩn, không
phê chuẩn các lệnh, quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam của CQĐT; quyết định
áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC trong giai đoạn điều tra, truy tố vụ án
hình sự. Trong giai đoạn xét xử,-VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc bắt, tạm giam của Tòa án tuân thủ đúng quy định về
trình tự, thủ tục, nội dung, hình thức và tính có căn cứ; kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện quyết định áp dụng các
BPNC nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người áp dụng các
BPNC được tôn trọng và bảo vệ. Việc nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS trong việc kiểm sát việc áp dụng các BPNC được tiến hành trên cơ sở các
quy định của BLTTHS về kiểm sát việc áp dụng các BPNC.

1.2.1. Kiểm sát việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc, chỉ
áp dụng đối với bị can, bị cáo. VKS chỉ phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm
giam của CQĐT khi hồ sơ đề nghị phê chuẩn phải đảm bảo một trong các căn
cứ quy định tại khoản 1 Điều 119 BLTTHS (bị can phạm tội rất nghiêm trọng
đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS
quy định hình phạt tù trên hai năm mà có căn cứ cho rằng người đó có thể
trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội). Trong
giai đoạn truy tố, xét xử, VKS và Tòa án có quyền độc lập ra lệnh bắt bị can, bị
cáo để tạm giam khi xét thấy có đủ căn cứ và cần thiết. Đối với bị can, bị cáo
đang bị tạm giam, VKS, Tòa án không ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam

19



×