Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Những vấn đề về liên văn hóa ứng xử trong giao tiếp qua tác phẩm “The five love languages” (Gary Chapman) và Năm ngôn ngữ tình yêu (Việt Hà dịch)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.74 KB, 10 trang )

Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LIÊN VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG GIAO TIẾP
QUA TÁC PHẨM “THE FIVE LOVE LANGUAGES” (GARY
CHAPMAN) VÀ “NĂM NGƠN NGỮ TÌNH U” (VIỆT HÀ DỊCH)
Trần Thị Kim Tuyến
Trƣờng Đại học Sài Gịn
Tóm tắt
Đề tài ―Những vấn đề về liên văn hóa ứng xử trong giao tiếp qua tác phẩm The five love
languages (Gary Chapman) và Năm ngơn ngữ tình u (Việt Hà dịch)‖ là đề tài cần thiết,
có nhiều ý nghĩa và đặc biệt là có giá trị quan trọng cuộc sống, đặc biệt là cách thể hiện
tình yêu của giới trẻ ở Việt Nam cũng nhƣ giới trẻ trên thế giới hiện nay. Để thực hiện
đƣợc đề tài này, chúng tôi đã sử dụng phƣơng pháp khảo sát, thống kê, phân loại,…
Trong bối cảnh, hoàn cảnh ra đời tác phẩm, tiểu sử tác giả và trên cơ sở những thơng điệp
về tình u đƣợc thu thập, chúng tôi tiến hành liệt kê, miêu tả, phân tích và tổng hợp
những đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa của chúng cũng nhƣ những điểm giống nhau, khác
nhau về cách sử dụng, về đặc trƣng văn hóa ứng xử thể hiện trong tình u giữa hai ngơn
ngữ (Anh-Việt). Từ đó, chúng tơi đƣa ra những ứng dụng trong hoạt động chuyển dịch,
hoạt động dạy và học tiếng thông qua những nét văn hóa và liên văn hóa giữa các ngơn
ngữ.
Từ khóa
liên văn hóa ứng xử, liên văn hóa ứng xử trong giao tiếp, năm ngơn ngữ tình u

1. Mở đầu
Trong từng ―lời ăn tiếng nói‖ của các nhân vật khi giao tiếp đều có thể hiện những nét văn
hóa ứng xử riêng biệt của từng ngôn ngữ ở mỗi dân tộc. Đề tài của chúng tôi ―Những vấn đề
về liên văn hóa ứng xử trong giao tiếp qua tác phẩm The five love languages và Năm ngơn
ngữ tình u‖ là đề tài có nhiều ý nghĩa và giá trị quan trọng trong cuộc sống, đặc biệt là cách
thể hiện tình yêu của giới trẻ ở Việt Nam cũng nhƣ giới trẻ trên thế giới hiện nay. Để thực
hiện đƣợc đề tài này, chúng tôi đã sử dụng phƣơng pháp khảo sát, thống kê, phân loại,…


Nghiên cứu bối cảnh, hoàn cảnh ra đời tác phẩm, tiểu sử tác giả và trên cơ sở những thơng
điệp về tình u đƣợc thu thập, chúng tôi tiến hành liệt kê, miêu tả, phân tích và tổng hợp
những đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa của chúng. Bên cạnh đó, chúng tơi cũng đƣa ra những
điểm giống nhau, khác nhau về cách sử dụng, về đặc trƣng văn hóa ứng xử thể hiện trong tình
u, mà cụ thể trong bài viết này là liên văn hóa ứng xử xƣng hơ và thái độ của nhân vật tham
gia giao tiếp ở hai ngôn ngữ (Anh-Việt). Từ đó, chúng tơi đƣa ra những ứng dụng trong hoạt
động chuyển dịch, hoạt động dạy và học tiếng thông qua những nét văn hóa và liên văn hóa
giữa các ngơn ngữ.
2. Cơ sở lý luận
2.1. Vài nét về khái niệm “văn hóa”

168


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

Văn hóa là một khái niệm đƣợc hiểu theo nhiều ý nghĩa khác nhau dựa trên những góc độ
khác nhau, nó thể hiện đƣợc q trình và trình độ nhận thức của con ngƣời trong một giai
đoạn phát triển lịch sử nào đó.
Theo tác giả Margaret Mead cho rằng ―Văn hóa là tồn thể những hình thức ứng xử mà một
nhóm cá nhân đƣợc hợp nhất bởi truyền thống chung, truyền lại cho con cháu họ ...‖ (dẫn theo
tác giả Hữu Đạt, tr. 17). Tác giả Hoàng Phê trong Từ điển tiếng Việt (tr. 1135) đã khẳng định
văn hóa có những ý nghĩa nhƣ sau:
a. Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con ngƣời sáng tạo ra trong quá
trình lịch sử: Kho tàng văn hóa dân tộc, văn hóa phƣơng đơng, nền văn hóa cổ.
b. Những hoạt động của con ngƣời nhằm thỏa mãn đời sống tinh thần (nói tổng quát): Phát
triển kinh tế và văn hóa, cơng tác văn hóa quần chúng.
c.Tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát): Học văn hóa, trình độ văn hóa.
d. Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh: Sống có văn hóa, ăn nói thiếu

văn hóa.
e. Nhóm di vật từ xƣa để lại (từ thời kì lịch sử cổ xƣa), có những đặc điểm giống nhau: Văn
hóa rìu hai vai, văn hóa gốm màu.
Hồ Chí Minh thì cho rằng, ―văn hoá là tổng hợp của mọi phƣơng thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà lồi ngƣời đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn‖ (tr. 431).
Tác giả Phan Ngọc cũng nói rằng: ―Khơng có cái vật gì gọi là văn hóa cả và ngƣợc lại, bất kì
vật gì cũng có cái mặt văn hóa. Văn hóa là một quan hệ, nó là quan hệ giữa thế giới biểu
tƣợng với thế giới thực tại. Quan hệ ấy biến thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc ngƣời,
một cá nhân so với một tộc ngƣời khác, một cá nhân khác. Nét khu biệt các kiểu lựa chọn làm
cho chúng khác nhau, đó là độ khúc xạ‖.
Cịn tác giả Hữu Đạt ―Văn hóa là một hiện tƣợng thuộc xã hội loài ngƣời, đối lập với những
hiện tƣợng thuộc hiện tƣợng thiên nhiên nhƣ gió, mƣa, sấm, chớp, sơng, biển... Văn hóa bao
giờ cũng mang một đặc trƣng rất quan trọng: cải biến tự nhiên thơng qua hoạt động có ý thức
của con ngƣời‖ (tr. 16).
Ngoài ra, khái niệm về văn hóa đã đƣợc các tác giả khác đề cập đến nhiều nhƣ Trần Ngọc
Thêm, Nguyễn Thị Kim Ngọc, Nguyễn Đức Tồn...
Tóm lại, văn hóa là một q trình hình thành và phát triển lâu dài, trong từng giai đoạn lịch sử
về những kết quả, thành tựu về vật chất và tinh thần của con ngƣời và xã hội.
2.2. Khái niệm về xƣng hô
Xƣng hô không chỉ đơn giản là hệ thống các từ xƣng gọi trong ngơn ngữ, mà cịn là vấn đề
giao tiếp thể hiện khả năng ứng xử, tính lịch sự, văn hóa… của cá nhân và cộng đồng dân tộc.
Bên cạnh cái chung, mỗi ngôn ngữ, mỗi dân tộc thƣờng có hệ thống từ ngữ xƣng hơ (TNXH)
riêng, thể hiện văn hóa ứng xử và quan hệ xã hội của dân tộc đó.

169


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI


Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 1994) ―Xƣng hơ là tự xƣng mình và gọi ngƣời
khác là gì đó khi nói với nhau để biểu thị tính chất của mối quan hệ với nhau‖ (tr.1124). Nhƣ
vậy, khi tham gia giao tiếp, các nhân vật phải dùng TNXH. Ngồi ra, khái niệm từ xƣng hơ đã
đƣợc các tác giả khác nhƣ: Đỗ Hữu Châu, Đỗ Thị Kim Liên, Nguyễn Văn Chiến, Bùi Minh
Yến, Trƣơng Thị Diễm... đề cập đến nhiều.
TNXH có chỉ ngơi: ngơi thứ nhất chỉ ngƣời nói, ngơi thứ hai chỉ ngƣời nghe, ngơi thứ ba chỉ
ngƣời hay vật đƣợc nhắc đến, với chức năng định vị và chức năng thể hiện quan hệ liên nhân.
Nhƣ vậy, đơn vị TNXH là một lớp từ đặc biệt đƣợc sử dụng khi thực hiện hành vi giao tiếp
trong các ngôn ngữ. Chúng đƣợc các nhân vật sử dụng với nhiều chức năng nhƣ định vị, thiết
lập quan hệ liên nhân và biểu lộ thái độ tình cảm, tâm lý, nhận thức khi tham gia giao tiếp
trong gia đình và ngồi xã hội.
2.3. Mối quan hệ giữa từ ngữ xƣng hơ và văn hóa
Các từ ngữ xƣng hơ trong giao tiếp thƣờng phản ánh những nét rất đặc trƣng trong văn hóa
ngƣời Việt. Cách xƣng hơ của ngƣời Việt mang đậm tính trọng tình, thể hiện rõ mối quan hệ
của các nhân vật trong giao tiếp (quan hệ huyết thống với các từ ngữ xƣng hô là danh từ thân
tộc). Nhƣ trong lời tâm sự của nhà văn Nguyễn Cơng Hoan qua đoạn trích "... và nhất là khi
nghe thấy Bác gọi tôi bằng chú và xƣng bằng mình thì rõ ràng tơi thấy nhƣ khơng phải tơi
đang ngồi trƣớc một nhà chính trị lớn, một bậc khai quốc. Có cái gì thật là dễ dãi, là quen
thuộc, là hấp dẫn, là thân mật của tình cha con". (Tuyển tập, Nhà xuất bản Văn học HN, 1984)
(dẫn theo Phạm Ngọc Thƣởng).
Tác giả Nguyễn Văn Nở có nhận định, ―Ngồi cách sử dụng những cặp từ xƣng hơ thƣờng
thấy trong ca dao nói chung, chúng ta cịn thấy những cách nói riêng mang đậm tính địa
phƣơng và phản ánh lời ăn, cách nói, nếp nghĩ của cƣ dân vùng cực Nam của Tổ quốc‖ (tr.
317-320).
Bên cạnh đó, từ ngữ xƣng hơ cũng thể hiện rõ những nét văn hóa đặc trƣng của dân tộc
những câu ca dao tỏ tình của chàng trai dành cho cô gái thật tế nhị, đằm thắm thông qua cách
sử dụng từ ngữ xƣng hô trong ca dao. Mận, đào là hai loài cây ra hoa vào mùa xn, biểu
tƣợng cho tình u đơi lứa nam nữ trẻ trung, tràn đầy sức sống, ở đây, mận là chàng trai, đào
là cô gái:

(a) - Bây giờ Mận mới hỏi Đào
Vƣờn hồng có lối ai vào hay chƣa?‖
(b) - Mận hỏi thì Đào xin thƣa,
Vƣờn hồng có lối nhƣng chƣa ai vào.
Các thành tố văn hóa định hình trong ý nghĩa lời đối đáp tỏ tình của chàng trai và cô gái qua
các từ ngữ ―Mận, Đào…‖. Trong (a), Mận là chàng trai tự xƣng ở ngôi thứ nhất, Đào là cô gái
đƣợc gọi đến ở ngôi thứ hai. Cịn trong (b), Mận ở ngơi thứ hai cịn Đào ở ngơi thứ nhất. Từ
xƣng hơ ở (a) và (b), có sự hốn đổi vị trí ngơi thứ một cách khéo léo và tinh tế, cho thấy từ

170


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

ngữ xƣng hơ cũng đóng góp một phần quan trọng vào văn hóa, mà đặc trƣng nhất của văn hóa
Việt Nam là văn hóa giao tiếp.
Tóm lại, khi tìm hiểu về cách ứng xử xƣng hô qua cách sử dụng từ ngữ xƣng hô của các nhân
vật tham gia hoạt động giao tiếp, chúng tôi cho rằng, cần phải luôn đặt chúng trong những
mối quan hệ với các nhân tố cần thiết nhất định.
3. Vài nét giới thiệu về tác giả, tác phẩm The five love languages (Năm ngôn ngữ tình yêu)
3.1. Tác giả Gary Chapman
Gary Chapman sinh ngày 10 tháng 1 năm 1938 ở Hoa Kỳ. Gary Chapman tốt nghiệp Trung
học phổ thông ở Học viện Kinh Thánh Moody (Moody Bible Institute), rồi sau đó học lên đại
học lấy bằng cử nhân Đại học Wheaton và bằng thạc sĩ ngành nhân loại học tại Đại học Wake
Forest. Ngoài ra, ơng cịn nhận bằng thạc sĩ ngành Giáo dục Tôn giáo (M.R.E) và tiếp theo là
học nghiên cứu sinh lấy bằng tiến sĩ triết học (Ph.D) tại Southwestern Baptist Theological
Seminary.
Ơng khơng chỉ là chun gia tâm lý, tƣ vấn hơn nhân và gia đình với kinh nghiệm hơn 30 năm
trong sự nghiệp gắn bó của mình, Giám đốc Tập đồn Tƣ vấn Hơn nhân và Đời sống Gia đình

(Marriage and Family Life Consultants, Inc), một diễn giả nổi tiếng thế giới mà còn là một tác
giả của nhiều cuốn sách hay, đạt doanh thu trong top những quyển sách bán chạy nhất và
đƣợc dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau... Trong ngành xuất bản Gary Chapman đƣợc xem là
một tác giả của những quyển bán chạy nhất (best seller). Ông đã từng nhiều lần thuyết trình ở
các cuộc hội thảo quốc tế cũng nhƣ đƣợc mời trò chuyện trực tuyến trên các chƣơng trình của
hơn 100 đài phát thanh.
Tính đến nay thì Gary Chapman đã viết đƣợc rất nhiều sách, có hơn 20 quyển đều đạt giá trị
cao khơng những ở lĩnh vực tƣ vấn tình u, hơn nhân gia đình, tƣ vấn tâm lý cho mọi lứa
tuổi mà cịn có 5 loạt phim video hƣớng dẫn về hơn nhân và gia đình nhƣ cẩm nang hƣớng
dẫn dễ thực hiện nhất thế giới về các mối quan hệ gia đình (The World‘s Easiest Guide to
Family Relationships), mặt khác của Tình yêu (The Other Side of Love), năm dấu hiệu của
một gia đình yêu thƣơng (Five Signs of a Loving Family), hƣớng đến cuộc hôn nhân phát
triển bền vững (Toward a Growing Marriage), hy vọng cho những ngƣời ly thân (Hope for the
Separated) và đặc biệt nhất nổi tiếng nhất là The Five Love Languages (Năm ngơn ngữ tình
u), When Sorry isn‘t Enough (Khi lời xin lỗi là chƣa đủ) và Things I Wish I‘d Known Before
We Got Married (Để hôn nhân không phải là toilet)… Đặc biệt quyển ―Năm ngơn ngữ tình
u: Bí quyết để tình u bền lâu‖ xuất bản lần đầu vào năm 1992. Quyển này đã bán đƣợc
doanh thu hơn sáu triệu bản trong tiếng Anh và đƣợc dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau,
các ấn bản 1996 luôn đứng trong 100 ngƣời bán hàng hàng đầu trên Amazon.com, đứng top
50 trong tháng 2 năm 2007.
3.2. Tác phẩm The five love languages (Năm ngơn ngữ tình yêu)
Sau hơn 30 năm đút kết kinh nghiệm, tác giả Gary Chapman đã cho xuất bản quyển The five
love languages vào những năm 1992. Đây là một tác phẩm nổi tiếng trên tồn thế giới về tình
u mà tác giả Gary Chapman đã tâm huyết cả đời mình để tìm hiểu, khai bút. Tác phẩm đƣợc

171


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI


dịch giả Việt Hà dịch sang tiếng Việt vào những năm liền sau đó, hiện nay thì đã tái bản nhiều
lần. Trong mỗi con ngƣời chúng ta ai cũng đều có những ƣớc muốn, niềm tin và hi vọng về
tình yêu, về cuộc sống, nhƣng trong tất cả những cái đó đều có những cách hiểu, cách thể hiện
hồn tồn khác nhau, một bí mật. Làm sao để khai phá đƣợc bí mật này, Ngơn ngữ tình u có
thể giúp chúng ta cởi mở đƣợc gì chăng? Và bảo đảm rằng, khi mình đã hiểu đƣợc sự tƣơng
quan trong ngơn ngữ của tình u và biết cách sử dụng chúng vào đúng những thời điểm,
hồn cảnh thì có thể mình xây dựng đƣợc một nền tảng vững chắc cho một tình u, một ngơi
nhà, một gia đình hạnh phúc, nơi mà tất cả mọi ngƣời đều thấy đƣợc sự quan tâm, sự yêu
thƣơng, chia sẻ, thông cảm và thấu hiểu lẫn nhau với tình yêu thƣơng bất tận, ấm áp vơ bờ,
một tình u với niềm hạnh phúc viên mãn, thăng hoa. Con đƣờng ngắn nhất cho chúng ta đạt
đƣợc hạnh phúc thật sự, một tình yêu mà chúng luôn hằng mong đợi là mở cửa trái tim, hiểu
và cảm nhận đƣợc những thông điệp của từng ngôn từ trong Ngơn ngữ tình u. Năm ngơn
ngữ tình u là gì? Những điều cơ bản này chỉ gói gọn trong là năm cách biểu đạt và thấu hiểu
cảm xúc trong tình u của ngƣời bạn đời mình bằng một ngơn ngữ vơ hạn chứ khơng phải
hữu hạn từ chính bản thân mình. Ngay từ những ngày đầu mới xuất bản đến nay thì The five
love languages khơng làm ai thất vọng cả, từ hình thức, nội dung đến doanh thu đều luôn nằm
trong danh sách những quyển sách bán chạy nhất thế giới, trên 5 triệu bản đã đƣợc phát hành
và luôn nằm trong top 100 của những quyển sách bán chạy nhất trang Amazon.com. The five
love languages đã đƣợc dịch ra hơn 38 ngôn ngữ khác nhau. Bản dịch tiếng Việt Năm ngơn
ngữ tình u là ngơn ngữ thứ 39 và cũng luôn nằm trong top 100 những quyển sách bán chạy
nhất ở Việt Nam.
4. Văn hóa ứng xử và thái độ của các nhân vật trong giao tiếp qua tác phẩm The five love
languages và Năm ngôn ngữ tình u
Trong tiếng Anh và tiếng Việt, chúng tơi thấy các nhân vật tham gia giao tiếp đều có thể hiện
thái độ ứng xử cũng nhƣ những nét văn hóa qua từng tình huống, ngữ cảnh cụ thể. Điều này
đƣợc chúng tơi trình bày qua những ví dụ mẫu theo thứ tự tăng dần đƣợc trích từ bản gốc (1-n)
và bản dịch (1‘-n‘) ở các mục nhƣ sau.
4.1. Những biểu hiện về ứng xử xƣng hô qua cách sử dụng đại từ nhân xƣng của các
nhân vật trong giao tiếp

Trong tiếng Anh, đại từ nhân xƣng đƣợc sử dụng phổ biến trong hầu hết các cuộc hội thoại
giao tiếp giữa các nhân vật, nhƣng khi chuyển dịch sang tiếng Việt có các nhóm từ ngữ xƣng
hơ nhƣ sau:
Trong ngữ cảnh của một chuyến bay từ Buffalo đến Dallas, Gary Chapman gặp một ngƣời
đàn ông và đƣa ra những lời hỏi thăm tƣ vấn sau khi ngƣời đàn ông lịch sự hỏi thăm và biết
đƣợc Gary Chapman là chuyên gia tƣ vấn hôn nhân và tổ chức các buổi hội thảo giúp hạnh
phúc gia đình bền vững. Ngƣời đàn ơng hỏi Gary:
(1)
Man: I‘ve been wanting to ask someone this for a long time. What happens to the love
after you get married? [I, tr.13].

172


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

→ (1‘) Man: Tôi vốn thắc mắc mãi điều này mà không biết hỏi ai. Theo anh, sau ngày cƣới,
tình u sẽ đi về đâu? [II, tr.205].
Ở ví dụ (1), ngƣời đàn ông đã sử dụng đại từ nhân xƣng I ở ngơi thứ nhất số ít với sắc thái
trung hòa khi nêu thắc mắc của bản thân trong một mối quan hệ liên cá nhân của ngƣời nói
với ngƣời nghe ở một quan hệ bạn bè quen biết xã giao bình thƣờng và đƣợc chuyển dịch
sang ví dụ (1‘) là ĐTNX tơi ở ngơi thứ nhất số ít với sắc thái trung hòa, thể hiện một mối
quan hệ liên cá nhân theo quan hệ bạn bè quen biết xã giao bình thƣờng.
Ngồi ra, ở ví dụ (1), ngƣời đàn ơng cịn có sử dụng ĐTNX you để gọi ngƣời đang nghe câu
hỏi của mình với sắc thái trung hòa, cũng thể hiện mối quan hệ bạn bè giao tiếp xã giao bình
thƣờng. Nhƣng ĐTNX you đƣợc chuyển sang tiếng Việt ở (1‘) là danh từ thân tộc anh với sắc
thái lịch sự và có thể hiện mối quan hệ huyết thống gia đình nhƣng vì theo truyền thống văn
hóa ngƣời Việt, các từ ngữ xƣng hơ theo danh từ thân tộc không chỉ đƣợc sử dụng trong giao
tiếp gia đình mà cịn cả ở ngồi xã hội.

4.2. Những biểu hiện về văn hóa ứng xử và thái độ của nhân vật qua cách sử dụng từ,
ngữ trong giao tiếp
Do giới hạn bài viết nên chúng tôi chỉ nêu những nét văn hóa ứng xử và thái độ của vợ chồng
trƣớc và sau khi cƣới trong cách sử dụng từ, ngữ khi giao tiếp nhƣ sau:
4.2.1. Văn hóa ứng xử vợ chồng trước khi cưới trong giao tiếp
Trong ngữ cảnh ngƣời đàn ông kể cho Gary biết là anh ta và ngƣời yêu của mình đã bị cuốn
vào tình yêu nhƣ một cơn lốc và họ đã quyết định cƣới nhau sau sáu tháng quen biết:
(2) Man: We only dated six months. It1 was a whirlwind romance. It2 was really exciting!
[I, tr.12].
→ (2‘) Man: Chúng tôi bị cuốn vào nhau tựa một cơn lốc và chỉ sau sáu tháng quen biết,
cả hai quyết định kết hơn. Một tình u cuồng nhiệt! [II, tr.14].
Ở ví dụ (2), ngƣời đàn ơng đã có thái độ rất hào hứng, rất cuồng nhiệt cho biết tình u của họ
đã đến nhanh chóng bằng các từ ngữ đƣợc sử dụng đều diễn tả ở mức độ trung hòa nhƣ only
dated (chỉ hẹn hò), a whirlwind romance (một cơn lốc lãng mạn), really exciting (thật sự thú
vị) qua 3 câu đơn Chủ -Vị (C-V), có sử dụng chủ từ giả là đại từ nhân xƣng it1,2 (nó) để diễn
tả nội dung là tình u của hai ngƣời họ đã đến rất nhanh. Nhƣng khi chuyển sang tiếng Việt
ở ví dụ (2‘), thái độ của ngƣời đàn ông đƣợc bộc lộ hết cảm xúc thăng hoa của mình bằng các
từ ngữ nhƣ bị cuốn vào nhau tựa như một cơn lốc, cuồng nhiệt… qua một câu cảm thán và
một câu ghép với liên từ ―và‖: C-V và C-V.
Ngồi ra, trong câu ghép có sử dụng biện pháp so sánh ―tựa‖ để so sánh lực hút vào nhau,
cuốn vào nhau nhƣ 1 cơn lốc mãnh liệt nào đó hay tiếng sét ái tình của cặp vợ chồng này ở
tiếng Việt.
Bên cạnh đó, ở ví dụ (2‘) cịn có hiện tƣợng thêm từ, thêm nội dung vào câu cho phù hợp dễ
hiểu hơn trong các sử dụng câu, từ tiếng Việt cả hai quyết định kết hôn. Điều này thể hiện đặc
điểm văn hóa của ngƣời Việt trong cách sử dụng câu từ rõ ràng dễ hiểu.

173


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy

ngôn ngữ lần thứ VI

Và hiện tƣợng tỉnh lƣợc từ nhƣ đại từ nhân xƣng it1 ở ví dụ (2) đƣợc lƣợc bỏ đi khi chuyển
sang tiếng Việt ở ví dụ (2‘) với mục đích là làm cho câu đƣợc gọn gàng hơn. Cịn đại từ nhân
xƣng it2 thì đƣợc chuyển sang tiếng Việt là một cụm danh từ (số từ + danh từ): một tình u
nhƣ ở ví dụ (2‘) với mục đích là làm cho câu đƣợc rõ ràng dễ hiểu hơn.
4.2.2. Văn hóa ứng xử vợ chồng sau khi cưới trong giao tiếp
Trong ngữ cảnh ngƣời đàn ông tiếp tục kể với Gary Chapman về kết cục cuộc tình chóng
vánh của mình sau khi kết hơn là:
(3) Man: But after the marriage, it was a battle from the beginning [I, tr.177].
→ (3‘) Man: Những ngày sau đám cƣới, tình yêu đó đã nhanh chóng biến thành một cuộc
chiến [II, tr.264].
Ở ví dụ (3), ngƣời đàn ơng sử dụng đại từ nhân xƣng It (nó) ở ngơi thứ ba số ít, để nói về tình
cảm của hai vợ chồng với sắc thái trung hịa nhƣng khi đƣợc chuyển dịch sang ví dụ (3‘), cụm
danh từ (tình yêu + đại từ chỉ định đó): tình u đó với sắc thái thờ ơ, hờ hững, có khoảng
cách xa chứ khơng gần để xác định nội dung là cuộc tình của hai vợ chồng ngƣời đàn ơng này.
Cũng trong ví dụ (3), cụm biểu thức từ (mạo từ + danh từ + giới từ + mạo từ + V-ing): a
battle from the beginning đƣợc sử dụng với sắc thái trung hòa để thể hiện nội dung là cuộc
chiến đã bắt đầu. Chúng đƣợc chuyển sang ví dụ (3‘) cũng là cụm biểu thức từ (cụm tính từ +
cụm động từ + số từ + danh từ): nhanh chóng biến thành một cuộc chiến với sắc thái giận hờn,
đáng sợ, nhằm chuyển tải nội dung là chiến tranh của hai vợ chồng này đã nổ ra một cách
nhanh chóng sau thời gian họ cƣới nhau không bao lâu.
Trong ngữ cảnh ngƣời đàn ông tiếp tục kể với Gary Chapman về nguyên nhân xảy ra sự rạn
nứt tình cảm của hai vợ chồng sau khi kết hôn là:
(4) Man: …It was as if her one goal in life was to have a baby, and after the baby, she no
longer needed me.
Gary: Did you tell her that?
Man: Yes, I told her. She said I was crazy. She said I did not understand the stress of
being a twenty-four-hour nurse [I, tr.12].
→ (4‘) Man: … Cứ nhƣ thể mục tiêu duy nhất trên đời của cơ ấy là có một đứa con, và chấm

hết. Cơ ấy chẳng cịn tha thiết gì đến tơi nữa.
Gary: Thế anh có nói cho cơ ấy biết điều đó khơng?
Man: Ồ, có chứ. Nhƣng cơ ấy bảo tơi khùng. Cơ ấy cịn cho rằng, tôi chẳng hề
thông cảm đến nỗi khổ của ngƣời vú nuôi 24/24 nhƣ cô ấy [II, tr.15].
Về đại từ nhân xưng được sử dụng trong hai ví dụ (4) và (4‘):
Ở ví dụ (4), ngƣời đàn ơng sử dụng đại từ nhân xƣng I (me: biến thể của I = tơi) ở ngơi thứ
nhất số ít với sắc thái trung hịa và khi đƣợc chuyển sang ví dụ (4‘) cũng là đại từ nhân xƣng
tôi ở ngôi thứ nhất số ít với sắc thái trung hòa. Nhƣng khi nhắc đến vợ mình thì sử dụng đại từ

174


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

nhân xƣng she (her: biến thể của she = cơ ấy) ở ngơi thứ ba số ít với sắc thái trung hịa và khi
đƣợc chuyển sang ví dụ (4‘), biểu thức (danh từ thân tộc + đại từ chỉ định): cơ ấy ở ngơi thứ
ba số ít với sắc thái lịch sự đƣợc sử dụng. Cịn Gary thì sử dụng đại từ nhân xƣng you ở ngôi
thứ hai với sắc thái trung hịa và khi đƣợc chuyển sang ví dụ (4‘), danh từ thân tộc anh để gọi
ngƣời đàn ông với sắc thái lịch sự.
Về câu, từ được sử dụng trong hai ví dụ (4) và (4‘):
Ở ví dụ (4), ngƣời đàn ơng sử dụng tính từ crazy (điên khùng) với thái độ giận dữ, để diễn tả
nội dung về thể trạng của mình và khi chuyển sang tiếng Việt ở ví dụ (4‘ cũng là tính từ
khùng với thái độ giận dữ, để diễn tả nội dung về thể trạng của mình.
Ở ví dụ (4), ngƣời đàn ơng sử dụng cụm biểu thức từ (mạo từ + danh từ + giới từ + mạo từ +
V-ing): no longer needed me với sắc thái trung hòa để thể hiện nội dung là ngƣời vợ đã không
cần đến ngƣời đàn ông này nữa. Chúng đƣợc chuyển sang ví dụ (4‘) cũng là cụm biểu thức từ:
chẳng cịn tha thiết gì đến tôi nữa với sắc thái giận hờn, buồn khổ. Chính những điều này cho
thấy thái độ ứng xử của hai vợ chồng này sau khi kết hơn có em bé đã trở nên tồi tệ, không
quan tâm thông cảm và thấu hiểu hay giúp đỡ nhau trong cuộc sống.

Ngoài ra, ở ví dụ (4), ngƣời đàn ơng có sử dụng cấu trúc ngữ pháp so sánh ở điều không có
(nhƣ thể) It was + as if + clause (mệnh đề): It was as if her one goal in life was to have a
baby đƣợc sử dụng với sắc thái trung hòa để thể hiện nội dung là nhƣ thể mục đích chính của
cơ vợ chỉ là có đƣợc đứa con rồi thơi. Chúng đƣợc chuyển sang ví dụ (4‘) cũng là cụm biểu
thức từ cứ như thể mục tiêu duy nhất trên đời của cơ ấy là có một đứa con với sắc thái giận
hờn. Và cấu trúc câu tƣờng thuật, câu kể S + said (đã nói) + S + V2 + O… She said I did not
understand the stress of being a twenty-four-hour nurse cũng với sắc thái giận hờn. Cấu trúc
câu này đƣợc chuyển sang ví dụ (4‘) là cơ ấy cịn cho rằng tơi chẳng hề thông cảm đến nỗi
khổ của người vú nuôi 24/24 như cô ấy với sắc thái giận hờn. Điều này cho thấy thái độ của
ngƣời vợ rất thẳng thắng khi ngƣời chồng không biết thƣơng vợ con vợ, không quan tâm
thông cảm và đặc biệt là không giúp đỡ mà bỏ mặc cho những vất vả, cực khổ của ngƣời mẹ
chăm con nhỏ nhƣ ngƣời vợ trong ngữ cảnh này thì cái cảnh ―cơm khơng lành - canh khơng
ngọt‖ trong ứng xử là điều tất yếu sẽ xảy ra trong đời sống vợ chồng sau khi kết hơn, có em
bé.
5. Ứng dụng trong hoạt động chuyển dịch và dạy-học tiếng
Từ những miêu tả, phân tích trên, cho thấy trong cách ứng xử về từ ngữ xƣng hô, về câu, từ
đƣợc sử dụng ở hai ngôn ngữ không chỉ là nội dung chỉ ngơi mà cịn thể hiện thái độ tình cảm,
tâm lý, nhận thức, thói quen, văn hố… của nhân vật tham gia giao tiếp. Trong tiếng Anh,
những đơn vị từ ngữ xƣng hơ, câu, từ thƣờng ít bị chi phối bởi những quy định về tuổi tác,
tình cảm, mối quan hệ liên cá nhân của ngƣời tham gia giao tiếp nhƣ trong tiếng Việt, nhƣng
có sự khác biệt rất rõ trong thói quen sử dụng.
Ngƣời Việt rất trọng tình, yếu tố quan hệ gia đình ln chi phối giao tiếp, đề cao tập thể, cộng
đồng với quan điểm ―xƣng khiêm - hô tôn‖, nên khi phải sử dụng cả DTXH và BTXH một
cách linh hoạt, uyển chuyển theo tình huống giao tiếp cụ thể. Tùy theo đối tƣợng giao tiếp,

175


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI


từng nhân vật, mối quan hệ gia đình, xã hội, sắc thái tình cảm để sử dụng câu, từ trong chuyển
đổi tƣơng đƣơng cho phù hợp, rõ ràng, dễ hiểu trong từng ngữ cảnh cụ thể. Ngoài, trong
chuyển dịch và dạy-học tiếng, chúng ta cịn có thể thêm câu, từ hoặc tỉnh lƣợc bớt đi cho câu
gọn gàng, dễ hiểu, phù hợp văn hóa ngƣời Việt hơn.
Trong q trình chuyển dịch, dạy-học tiếng, ngƣời dịch, ngƣời dạy-học cần lƣu ý về bản sắc
văn hóa thể hiện về tính lịch sự, sắc thái, thái độ ứng xử của các nhân vật tham gia giao tiếp ở
bất kì một ngơn ngữ nào đó qua cách sử dụng các đơn vị từ ngữ xƣng hơ hay câu, từ phù hợp.
6. Kết luận
Tóm lại, tác giả Gary Chapman cùng với tác phẩm The five love languages (Năm ngơn ngữ
tình u) đã để lại ấn tƣợng sâu sắc trong lòng ngƣời đọc. Gary Chapman đã làm thức tỉnh
hàng vạn ngƣời trên toàn thế giới về cách ứng xử với giữa vợ chồng, ngƣời thân, bạn bè qua
những thông điệp yêu thƣơng, quan tâm, thông cảm, thấu hiểu và cùng nhau hành động, cùng
nhau xây dựng hạnh phúc qua những câu chuyện tình huống thực tế trong cuộc sống.
Trong chuyển dịch câu, từ từ tiếng Anh sang tiếng Việt thì có thể chuyển giữ ngun từ loại
hoặc chuyển đổi từ loại cho phù hợp với văn hóa từng ngơn ngữ của mỗi dân tộc. Tuy nhiên,
xét ở góc độ văn hóa, văn hóa ứng xử của các nhân vật tham gia giao tiếp là vấn đề vô cùng
quan trọng của các dân tộc, đặc biệt là văn hóa ứng xử lịch sự, chuẩn mực trong cách lựa chọn
câu, từ gọn gàng, rõ ràng dễ hiểu của ngƣời Việt nhằm góp phần phát huy và giữ gìn nét văn
hóa và bản sắc dân tộc, cũng nhƣ ―giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt‖.
Do sự khác biệt ít nhiều về ngơn ngữ và văn hố giữa tiếng Anh và tiếng Việt thể hiện qua
cách lựa chọn sử dụng đơn vị từ ngữ xƣng hô, cũng nhƣ cách sử dụng câu, từ nhƣ đã nêu trên,
khi dạy và học tiếng ở thời kỳ hội nhập, chúng ta phải luôn chú ý tới vấn đề tƣơng ứng, tƣơng
đồng và sự khác biệt về ngơn ngữ và văn hố, phong tục, tập quán... giữa hai hay nhiều thứ
tiếng trong giao tiếp ngôn ngữ ở thời kỳ hội nhập của nƣớc ta nhƣ hiện nay.

Tƣ liệu nghiên cứu
Gary Chapman (1 international best seller-1992), The five love languages. The Moody Bible
Institute of Chicago dba Moody Publishers and Northfield Publishing.
Việt Hà (2020). Năm ngơn ngữ tình u. Nxb. Tổng hợp Tp.HCM.

Tài liệu tham khảo
Sách:
Hữu Đạt (2007). Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa giao tiếp tiếng Việt. Nxb. GD.
Hồ Chí Minh (1995). Hồ Chí Minh Tồn tập,3, .431. Nxb. Hà nội: Chính trị Quốc gia.
Phan Ngọc (1994). Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới. Nxb. Văn hóa - Thơng tin.
Nguyễn Thị Kim Ngọc (1999), Ngơn ngữ và văn hóa: Tri thức nền và giảng dạy tiếng nước
ngoài. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.

176


Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy
ngôn ngữ lần thứ VI

Hoàng Phê (chủ biên) (1998). Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Hà Nội: Khoa học xã hội.
Trần Ngọc Thêm (1995). Cơ sở văn hóa Việt Nam. Nxb. GD.
Trần Ngọc Thêm (1997). Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb. Tp. HCM.
Nguyễn Đức Tồn (2008). Đặc trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy.Hà Nội: Nxb.
Khoa học Xã hội.
Tạp chí:
Nguyễn Văn Nở (2000). Cách xƣng hơ trong ca dao trữ tình Đồng bằng sơng Cửu Long. Ngữ
học Trẻ, 317-320.
Phạm Ngọc Thƣởng (2000). Từ thân tộc trong xƣng hơ của ngƣời Nùng (Tiếp cận dƣới góc
độ ngơn ngữ và văn hóa. Ngơn ngữ, 3, 55-58.
Mạng, trang web:
Phan Ngọc. Tiếp xúc văn hóa Việt Nam và Pháp, />
SOME COMMUNICATION ISSUES OF INTERCULTURAL
BEHAVIOR IN “THE FIVE LOVE LANGUAGES” AND “NAM NGON
NGU TINH YEU”
Abstract

―Some communication issues of intercultural behavior in ‗The five love languages‘ and
‗Nam ngon ngu tinh yeu‘‖ is a necessary and valuable topic for life research, especially
the way young people express love in Vietnam and in the world nowadays. To
accomplish this topic, we have used survey, statistical methods, classification, etc. In the
context and circumstances of the book publicatiom, the author‘s biography, works and
based on love messages collected, we described, analyzed and synthesized their structural
and semantic characteristics as well as their similarities and differences about the use, the
intercultural behavior of love, the secret of love, lasting love which were expressed
between the two languages (English-Vietnamese). Accordingly, we offered applications
in translation, teaching and learning linguistic activities through cultural and intercultural
traits between languages.
Keywords
intercultural behavior, intercultural behavior in communication, the five love language

177



×