VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------
ĐỒN TRỌNG ĐÀN
CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ
THEO PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội, năm 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------
ĐỒN TRỌNG ĐÀN
CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ
THEO PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM THỊ THÚY NGA
Hà Nội, năm 2021
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống an sinh xã hội (Sau đây được viết tắt là ASXH) là sự bảo vệ của xã
hội đối với các thành viên của mình thơng qua các biện pháp cộng đồng để chống
lại những khó khăn trong cuộc sống như tai nạn nghề nghiệp, ốm đau bệnh tật, thu
nhập bị giảm sút,… qua đó góp phần bảo đảm an tồn, ổn định cho sự phát triển
kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Trong hệ thống này, Bảo hiểm xã hội ln giữ vai
trị trụ cột, bền vững nhất, tạo tiền đề để thực hiện tốt các chính sách an sinh, có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với người lao động và Nhà nước.
Đối với những người vượt quá độ tuổi lao động hoặc khơng cịn tham gia vào
quan hệ lao động, áp lực về tài chính ln là một trong các mối quan tâm hàng đầu
trong cuộc sống khi mà thu nhập của họ đã bị suy giảm. Đây luôn là các đối tượng
yếu thế được pháp luật quan tâm bảo vệ một cách đặc biệt. Chế độ hưu trí ra đời
nhằm bảo đảm ổn định đời sống cho người tham gia Bảo hiểm xã hội (Sau đây được
viết tắt là BHXH) khi hết độ tuổi lao động để họ khơng phải phụ thuộc vào gia đình,
người thân, xã hội nếu như khơng có một nguồn thu nhập nào khác và phải đi làm ở
cái tuổi đáng lẽ phải được nghỉ ngơi. Nhận thức được vấn đề này, ngay những năm
đầu thành lập, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng công tác xây dựng các văn bản
pháp lý điều chỉnh các vấn đề về BHXH, trong đó một nhóm đối tượng phải tham
gia BHXH bắt buộc sẽ được hưởng chế độ hưu trí, sự phát triển của pháp luật
BHXH luôn hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, bảo đảm phát huy tối đa quyền con người trong xã hội. Ngày nay, với bối
cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, chính sách ASXH ngày càng được
coi trọng, đây được xem là một trong những nhân tố hàng đầu bảo đảm cho sự phát
triển kinh tế - xã hội bền vững, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế,
góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Điều 34 và Điều 59 Hiến pháp năm 2013 của nước đã ghi nhận cơng dân có
quyền được bảo đảm ASXH, được Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để thụ hưởng
phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống ASXH. Do đó, sự ra đời của chế độ hưu trí theo
1
pháp luật BHXH bắt buộc ở Việt Nam là một tất yếu, đáp ứng nguyện vọng của
Người lao động (sau đây viết tắt là NLĐ) trong xã hội, thông qua đó quyền lợi của
NLĐ vẫn được bảo vệ sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ lao động với cộng đồng bằng
việc thực hiện những chính sách ưu đãi, trợ giúp NLĐ khi về hưu có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc ngày càng được chú trọng hoàn thiện, hướng tới mục tiêu bảo đảm
tốt nhất về quyền con người, xây dựng môi trường làm việc lành mạnh, tăng năng
suất lao động để tạo ra nhiều của cải vật chất, đóng góp to lớn vào quá trình vận
động và phát triển kinh tế thị trường, phù hợp với xu thế phát triển tồn cầu, qua đó
thể hiện truyền thống đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tương thân tương ái của cộng
đồng nước ta.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tuổi thọ trung bình của người dân ở
nước ngày một tăng cao, tỷ lệ sinh ngày càng giảm dẫn đến tình trạng già hóa dân
số gây ra các tác động khơng nhỏ đến ngân sách của nhà nước, kinh tế - xã hội và
an ninh quốc phòng. Việc xây dựng, sủa đổi và thực thi chế độ hưu trí theo pháp
luật BHXH bắt buộc trên địa bàn cả nước nói chung cũng như tại huyện Thái Thụy,
tỉnh Thái Bình nói riêng vẫn cịn những hạn chế, bất cập nhất định. Nhiều quy định
được ban hành nhưng chưa được hướng dẫn cụ thể, không có sự đồng nhất giữa văn
bản luật và thực tiễn thực hiện, một số quy định không phát huy tác dụng trong thực
tế v.v.. Bên cạnh đó, độ tuổi hưởng chế độ hưu trí giữa các ngành nghề, mỗi giới
tính cịn chưa đồng nhất dẫn đến có sự chênh lệch nhất định về mức hưởng, tuổi
hưởng chế độ hưu trí trong khi mức đóng là gần như nhau.
Trên cơ đó, việc hoàn thiện và thực hiện các quy định về chế độ hưu trí theo
pháp luật BHXH bắt buộc là một vấn đề cấp thiết, phù hợp với nguyện vọng của
nhiều đối tượng trong xã hội, là vấn đề cần được Nhà nước và xã hội quan tâm, có
như vậy hệ thống ASXH mới được phát triển một cách bền vững. Vì vậy, tác giả
chọn đề tài: “Chế độ hưu trí theo pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn
huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình” để làm Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế nhằm
góp phần hồn thiện quy định pháp luật về chế độ hưu trí, nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, góp phần duy trì và thực hiện tốt
chính sách ASXH của quốc gia.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua nghiên cứu về chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc được cụ thể
hóa ở các luật chuyên ngành như Luật Bảo hiểm xã hội, Bộ luật Lao động, Luật
Công an nhân dân, Luật sĩ quan Quân đội nhân dân, Luật Quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân và viên chức Quốc phịng,… có thể thấy đây khơng phải là một
đề tài mới nhưng nó đang trở thành mối quan tâm của Đảng, Nhà nước và các nhà
nghiên cứu, nhà hoạt động thực tiễn. Trong thời gian gần đây, đã có nhiều bài viết,
cơng trình nghiên cứu khoa học nhằm đóng góp ý kiến xây dựng, hồn thiện pháp
luật về hệ thống BHXH nói chung cũng như về chế độ hưu trí nói riêng, trong đó,
tác giả được biết đến một số đề án, đề tài như:
Thứ nhất, về các cơng trình nghiên cứu chung các chế độ trong lĩnh vực
BHXH bắt buộc:
- Đề án nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Thực trạng và giải pháp phòng chống
lạm dụng quỹ bảo hiểm xã hội” do Thạc sỹ Điều Bá Được, Trưởng ban thực hiện
chính sách BHXH, BHXH Việt Nam làm chủ nhiệm (năm 2012);
- Đảng Bộ cơ quan BHXH Việt Nam (2018) “Giải pháp và nâng cao chất lượng
công tác, kiểm tra, giám sát trong Đảng bộ cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam”, do
Nguyễn Thị Nga, Phó Bí thư Đảng ủy cơ quan BHXH Việt Nam làm chủ nhiệm;
- Đề án cải cách chính sách BHXH do Chính phủ giao Bộ LĐTBXH chủ trì
phối hợp với các Bộ, ngành và các chuyên gia xây dựng chương trình Hội nghị
Trung ương 7, khóa XII tháng 05/2018. Thơng qua hội nghị này, Ban chấp hành
Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW với nhiều nội dung mang
tính đột phá, trong đó có việc cải cách chính sách tiền lương, BHXH để phù hợp với
tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
- Nguyễn Quang Trường (2016)“Quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở
nước ta hiện nay”, Luận án Tiến sĩ, Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương;
- Bùi Thị Thanh Hương (2017) “Pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc ở Việt
Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội;
3
- Nguyễn Thị Hương (2018) “Pháp luật xây dựng Bảo hiểm xã hội bắt buộc
qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Trị”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường đại
học Luật – Đại học huế;
- Nguyễn Thùy Dung (2019) “Vi phạm pháp luật về Bảo hiểm xã hội và thực
tiễn giải quyết tại thành phố Thanh Hóa”, Luận văn Thạc sĩ Luật Học, Đại học Luật
Hà Nội;
Thứ hai, các cơng trình nghiên cứu trong lĩnh vực chế độ hưu trí theo pháp
luật BHXH bắt buộc có thể kể đến đó là:
- Đề án nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Chế độ hưu trí, tử tuất theo quy định
của Luật bảo hiểm xã hội – Thực trạng và kiến nghị hồn thiện” do Hồng Kim
Dung, Phó trưởng ban thực hiện chính sách BHXH, BHXH Việt Nam làm chủ
nhiệm (năm 2014);
- Hà Thị Hiền (2018) “Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội 2014 ở
Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, Học viện Khoa học xã hội;
- Nguyễn Thị Thu Thủy (2019) “Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã
hội Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học
viện Khoa học xã hội;
- Nguyễn Thị Phương Thảo (2019) “Pháp luật về bảo hiểm hưu trí và thực
tiễn tại tỉnh Ninh Bình”, Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, Đại học Luật Hà Nội;
- Đào Tiểu Ngọc (2020) “Bảo hiểm hưu trí theo pháp luật bảo hiểm xã hội
Việt Nam từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ Luật
Kinh tế, Học viện Khoa học xã hội.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những vấn đề sau:
Một là, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về BHXH và các chế độ của
BHXH như: khái niệm, đặc trưng, lịch sử hình thành, phát triển của BHXH và
những vấn đề lý luận cơ bản khác.
Hai là, nghiên cứu những quy định pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật
về BHXH, trong đó có chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH.
Ba là, đề xuất những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu
trí theo pháp luật BHXH, các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
BHXH.
4
Tuy nhiên, trong hệ thống quy định hiện hành điều chỉnh quan hệ hưu trí
bắt buộc, Bộ luật Lao động năm 2019 được ban hành với hiệu lực áp dụng từ
ngày 01/01/2021 đã có thay đổi một số nội dung liên quan đến chế độ hưu trí,
đặc biệt lộ trình điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu và các điều khoản sửa đổi Luật
BHXH năm 2014, đặt ra yêu cầu cần nghiên cứu pháp luật về chế độ hưu trí bắt
buộc ở Việt Nam hiện nay, góp phần làm rõ các quy định đã ban hành, thực tiễn
thực hiện và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật. Bên cạnh đó,
các cơng trình được đề cập ở trên chưa từng nghiên cứu đến thực tiễn thực hiện
chế độ hưu trí bắt buộc tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Chính vì vậy, Luận
văn kế thừa các nội dung nghiên cứu trên, đồng thời làm rõ các vấn đề cịn bỏ
ngỏ về chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc và đánh giá thực tiễn áp
dụng những quy định này từ thực tiễn tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về
chế độ hưu trí theo chính sách BHXH bắt buộc trên cơ sở phân tích, đánh giá tồn
diện thực trạng quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện tại huyện Thái
Thụy, tỉnh Thái Bình. Từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về chế độ hưu trí theo
pháp luật BHXH bắt buộc tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đảm bảo mục đích trên, đề tài tập trung thực hiện và hoàn thành các nhiệm
vụ nghiên cứu sau:
- Kế thừa, tiếp nối các lý thuyết về BHXH bắt buộc, chế độ hưu trí theo pháp
luật BHXH bắt buộc để làm rõ khái niệm pháp luật BHHT bắt buộc, nguyên tắc của
chế độ hưu trí bắt buộc, nội dung cơ bản của chế độ hưu trí bắt buộc.
- Phân tích các quy định hiện hành điều chỉnh chế độ hưu trí theo BHXH bắt
buộc ở Việt Nam để xác định được các đối tượng tham gia, chế độ hưởng, thủ tục
hưởng chế độ hưu trí bắt buộc và quỹ bảo hiểm hưu trí.
5
- Nghiên cứu pháp luật về BHXH của một số nước như Đức, Nhật Bản và
Trung Quốc từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Thông qua phương pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh để khảo sát thực
tiễn và nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chế độ hưu trí ở huyện
Thái Thụy, tỉnh Thái Bình để làm rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của
hạn chế còn tồn đọng.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hồn thiện pháp luật về chế độ hưu trí
theo pháp luật BHXH bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ hưu trí bắt
buộc từ kinh nghiệm của huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quy định hiện hành của pháp luật
Việt Nam về chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc.
Luận văn đánh giá thực tiễn thực hiện chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt
buộc tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2020.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật Việt Nam về chế
độ hưu tí theo pháp luật BHXH bắt buộc. Do điều kiện nghiên cứu hạn chế, Luận
văn không nghiên cứu về các nội dung sau: lịch sử hình thành và quá trình phát
triển của pháp luật về BHHT bắt buộc ở nước ta, vai trò chế độ hưu trí bắt buộc, xử
lý vi phạm, giải quyết tranh chấp về BHHT, cũng như giải quyết chế độ hưu trí cho
NLĐ nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu đề tài một cách hiệu quả, tác giả đã sử dụng phương
pháp duy vật biện chứng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước, pháp luật, các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước trong từng thời kỳ để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra.
Tác giả đã sử dụng đồng bộ một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích các quy phạm của luật thực định có liên quan đến tên
đề tài của Luận văn.
6
- Phương pháp tổng hợp các quan điểm khác nhau về nhận thức khoa học xung
quanh các khái niệm, quy phạm pháp luật liên quan đến pháp luật về BHXH bắt
buộc.
- Phương pháp lịch sử khảo cứu các nguồn tư liệu, đặc biệt là các tư liệu về
chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc; các báo cáo tổng kết của cơ quan
BHXH huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, Ủy ban nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh
Thái Bình…
- Dùng những lập luận, cơ sở pháp lý, số liệu cụ thể để chứng minh thực trạng
quy định pháp luật về chế độ hưu trí bắt buộc ở nước ta và thực trạng áp dụng ở địa
bàn huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình nói riêng.
- Phương pháp so sánh luật học nhằm đối chiếu các quy định pháp luật về chế
độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc qua các giai đoạn thay đổi và phát triển
kinh tế - xã hội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Thứ nhất, Luận văn đã phân tích, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về BHXH
nói chung cũng như về chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc nói riêng.
Thứ hai, đánh giá đúng thực trạng pháp luật về pháp luật BHXH bắt buộc; chế
độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc và thực tiễn thực hiện tại huyện Thái
Thụy, tỉnh Thái Bình.
Thứ ba, chỉ ra được những bất cập, hạn chế và nguyên nhân của từng hạn chế
trong thực tiễn thực hiện chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc tại huyện
Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Thứ tư, đề ra những giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật về chế độ hưu trí bắt buộc, đồng thời nâng cao hiệu quả việc thực hiện chế độ
hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Thứ năm, đề tài có thể được dùng làm tài liệu nghiên cứu, học tập của các sinh
viên chuyên ngành luật và các chuyên ngành khác có liên quan. Đề tài cũng có thể
dùng tham khảo trong q trình xây dựng chính sách về chế độ hưu trí và nâng cao
hiệu quả thực hiện chế độ hưu trí trên địa bàn huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
7. Kết cấu của Luận văn
7
Luận văn được thiết kế gồm 3 phần lớn: Phần mở đầu, phần nội dung và phần
kết luận. Ngoài ra cịn có các nội dung khác như: Danh mục từ viết tắt, mục lục,
danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng biểu,…
Trong đó, phần nội dung được thiết kế thành 03 chương, cụ thể:
Chương 1: Khái quát chung về chế độ hưu trí và quy định pháp luật bảo hiểm
xã hội bắt buộc về chế độ hưu trí ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện chế độ hưu trí theo pháp luật bảo hiểm xã hội
bắt buộc tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Chương 3: Định hướng, giải pháp hồn thiện chế độ hưu trí bắt buộc và nâng
cao hiệu quả thực hiện từ kinh nghiệm của huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
8
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
1.1. Khái quát chung về pháp luật bảo hiểm hưu trí bắt buộc và chế độ
hưu trí bắt buộc
1.1.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm hưu trí bắt buộc, chế độ hưu trí bắt buộc
BHXH là biện pháp Nhà nước sử dụng để đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập cho người tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những rủi ro, biến cố
làm suy giảm sức khỏe, mất khả năng lao động, mất việc làm, hết tuổi lao động,
chết gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH. BHXH được lập ra là sự
bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần cho NLĐ. BHXH thực chất có thể hiểu
chính là q trình tổ chức sử dụng quỹ tiền tệ tập trung được tích dồn do sự đóng
góp của NLĐ và người sử dụng lao động dưới sự quản lý điều tiết của Nhà nước.
NLĐ được bảo hiểm với những mất mát do rủi ro gây ra sau khi nhận được một
khoản phí bảo hiểm, các sự kiện được xác định thuộc phạm vi rủi ro đều xảy ra một
cách bất ngờ và bất lợi, tác động trực tiếp đến lợi ích của người tham gia. NLĐ là
một nhân tố quan trọng trong lực lượng sản xuất để cấu thành phương thức sản
xuất, do đó khi thu nhập của NLĐ bị mất hoặc giảm sút bởi các rủi ro ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết sẽ được bảo
đảm thay thế hay bù đắp một phần trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH.
Ở nước ta, do ảnh hưởng của chế độ phong kiến kéo dài và những cuộc kháng
chiến giải phóng dân tộc đã làm chậm sự ra đời của chế độ hưu trí bắt buộc, tuy
nhiên Đảng và Nhà nước luôn dành cho các đối tượng vượt quá độ tuổi lao động sự
quan tâm và bảo vệ một cách sâu sắc mặc dù hoàn cảnh đấu tranh gian khổ dẫn đến
điều kiện thực hiện pháp luật BHXH bắt buộc còn rất hạn chế. Sau khi nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, những chính sách về ASXH bắt đầu từng bước được
định hình, củng cố và phát triển. Đối với chế độ hưu trí, Sắc lệnh số 54 năm 1945 là
chính sách đầu tiên về việc ấn định những điều kiện cho công chức về hưu, bên
9
cạnh đó, Điều 14 Hiến pháp năm 1946 của nước ta đã ghi nhận: “Những người công
dân già cả hoặc tàn tật khơng được làm việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc
về mặt giáo dưỡng.” Đây là tiền đề cho sự ra đời của pháp luật về BHHT của
những năm sau này. Trên cơ sở kế thừa và phát huy dựa trên nền tảng có sẵn, các
Sắc lệnh số 76 và số 77 năm 1950 quy định thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động, hưu trí cho cán bộ cơng nhân viên chức và Nghị định số 218 – CP
ban hành ngày 27/12/1961 về Bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức nhà
nước đã bước đầu đánh dấu sự ra đời của chế độ hưu trí ở Việt Nam, trong đó
những đối tượng đầu tiên được pháp luật quy định bắt buộc phải tham gia là cán bộ,
công nhân viên chức, bởi lẽ đây là những ưu ái dành cho các lao động tuyến đầu
cống hiến sức mình trong quá trình vận hành, xây dựng đất nước, có nguồn thu
nhập ổn định và do Nhà nước trực tiếp quản lý, tạo điều kiện thuận lợi mang lại
hiệu quả cao trong công tác triển khai các hoạt động BHXH, là tiền đề thu hút được
sự quan tâm của nhiều đối tượng khác trong xã hội.
Trong nhiều thập kỷ liền kề, các sắc lệnh, văn bản pháp luật điều chỉnh các
chế độ trong hệ thống an sinh liên tiếp được ban hành, những quy định về Bảo hiểm
hưu trí (sau đây viết tắt là BHHT) bắt buộc cũng dần được hình thành và củng cố
hoàn thiện nhằm đảm bảo nhu cầu thiết yếu của người dân khi khơng cịn tham gia
vào quan hệ lao động. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 ra đời đánh dấu sự phát triển
của khung pháp lý điều chỉnh quan hệ BHXH nói chung và chế độ hưu trí nói riêng,
tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả thực thi chế độ ASXH và quá trình chuyển
đổi của nền kinh tế cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế sâu rộng. Ngày 20/11/2014, trên cơ sở sửa đổi, bổ sung những quy định cũ
nhằm đáp ứng những biến chuyển trong cơ cấu kinh tế - xã hội, phù hợp với sự
chuyển dịch của tháp dân số, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã từng bước hoàn
thiện các bất cập và ngày càng bảo vệ tối ưu quyền lợi của NLĐ trong mọi thành
phần kinh tế khi họ đối diện trước các khó khăn của tuổi già.
Hiện nay, với tư cách là một loại hình BHXH, mang những đặc trưng chung
về vai trị tài chính và an sinh, BHHT là cách thức NLĐ sẽ tự trả lương cho chính
mình khi hết độ tuổi lao động bằng những tích lũy, đóng góp theo quy định pháp
10
luật vào quỹ BHXH ngay từ khi tham gia quan hệ lao động, được nhà nước hỗ trợ
tùy theo đối tượng tham gia và cơ sở đóng phí mà thực hiện một trong hai hình
thức: BHHT bắt buộc và BHHT tự nguyện. Như vậy, có thể định nghĩa: BHHT bắt
buộc là một loại hình BHXH do Nhà nước thực hiện nhằm bảo đảm bù đắp một phần
thu nhập bị mất hoặc giảm sút của NLĐ do hết tuổi lao động hoặc khơng cịn tham gia
vào quan hệ lao động trên cơ sở NLĐ và NSDLĐ đóng góp hàng tháng vào quỹ
BHXH. Từ đó, pháp luật về BHHT bắt buộc được xác định: là tổng thể các quy định
pháp luật điều chỉnh các hoạt động phát sinh trong quan hệ BHHT bắt buộc như đối
tượng tham gia, mức đóng góp, thời gian đóng góp, cơ sở đóng góp,… mang tính chất
bắt buộc, nhằm mục đích chia sẻ, bảo vệ những lao động yếu thế trong cộng.
Để thực hiện hiệu quả các chính sách BHHT bắt buộc, những quy định về chế
độ hưu trí dần được củng cố, hình thành và phát triển. Nói một cách khác, chế độ hưu
trí theo pháp luật BHXH bắt buộc là một phương thức triển khai BHHT bắt buộc, do
đó quy định pháp luật về chế độ hưu bắt buộc là một phần quy định thuộc BHHT bắt
buộc, nhằm khắc phục khó khăn cho NLĐ khi bị giảm sút thu nhập khi hết tuổi lao
động, củng cố, hoàn thiện pháp luật, phù hợp với nền kinh tế thị trường, góp phần đưa
chính sách BHXH phát huy đúng vai trò trụ cột trong hệ thống ASXH.
Bàn về chế độ hưu trí, theo Tổ chức Lao động Quốc tế thì chế độ hưu trí cịn
được gọi là bảo hiểm tuổi già, là một trong các nhánh quan trọng của an tồn xã hội,
do đó hầu hết các quốc gia trên thế giới trong các hoạt động xây dựng phát triển
kinh tế xã hội và quy định chính sách BHXH bắt buộc đều phải có chế độ hưu trí, ở
Việt Nam chế độ hưu trí cũng được chú trọng củng cố và hoàn thiện với các chế
định của pháp luật. Hưu trí là cách gọi chung cho những người đã về hưu, họ
thường là người già và có thâm niên công tác trong một số lĩnh vực nhất định.
Trên những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về chế độ hưu trí bắt buộc:
là những ưu đãi xã hội dành cho NLĐ có đủ các điều kiện về thời gian đóng BHXH
bắt buộc và tuổi đời được nghỉ việc hoặc khơng cịn tham gia vào quan hệ lao động
được ghi nhận bởi hệ thống các quy định pháp luật, yêu cầu các đối tượng tham gia
phải tuân thủ chấp hành. Suy rộng ra, pháp luật về chế độ hưu trí theo BHXH bắt
buộc được định nghĩa: là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan
11
hệ phát sinh giữa các chủ thể phải tham gia quan hệ chế độ hưu trí theo quy định
của pháp luật, quy định cụ thể về điều kiện hưởng chế độ hưu trí, mức trợ cấp
lương hưu và các thủ tục cần triển khai liên quan đến việc thực hiện chế độ hưu trí
khi NLĐ hết tuổi lao động hoặc khơng cịn tham gia vào quan hệ lao động.
1.1.2. Ngun tắc của chế độ hưu trí bắt buộc
Với tư cách là một chế độ trong chính sách BHXH, nên quá trình triển khai
BHHT phải đáp ứng các nguyên tắc chung của BHXH, đó là: Mức đóng BHXH bắt
buộc được tính trên cơ sở tiền lương tháng của NLĐ; Mức hưởng BHXH được tính
trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham
gia BHXH; NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng
BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian
đã đóng BHXH; Quỹ BHXH được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh
bạch; được sử dụng đúng mục đích và được hạch tốn độc lập theo các quỹ thành
phần, các nhóm đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định và chế
độ tiền lương do NSDLĐ quyết định; Việc thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng,
thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH. Bên
cạnh đó, chế độ hưu trí bắt buộc hướng đến bảo vệ người tham gia BHXH bắt buộc
đã hết tuổi lao động hoặc khơng cịn tham gia vào quan hệ lao động, đây là những
đối tượng có nét riêng biệt trong lĩnh vực BHXH, vì vậy chế độ này cịn được thực
hiện dựa trên một số nguyên tắc đặc thù sau:
Thứ nhất, chế độ hưu trí bắt buộc được xây dựng trên cơ sở cân bằng xã hội,
cơ cấu nhân lực và đảm bảo mức sống của NLĐ.
Theo Thông cáo báo chí kết quả nghiên cứu chuyên sâu tổng điều tra dân số
và nhà ở năm 2019 của Tổng cục thống kê thì dự báo giai đoạn từ năm 2026-2039,
tỷ trọng dân số từ 65 tuổi sẽ đạt mức 10% vào năm 2026 và vào năm 2039 sẽ vượt
mức 15% tổng dân số, năm 2026 dự đoán nước ta sẽ bước vào thời kỳ dân số già,
thời kỳ cơ cấu dân số vàng ở Việt Nam sẽ chính thức chấm dứt vào năm 2039. Qua
đó, sự thay đổi về cơ cấu dân số đã phản ánh thực trạng của hệ thống ASXH ở nước
ta hiện nay và diễn biến phức tạp có thể đối mặt trong các thập niên sắp tới, đây
không chỉ là những thách thức cho những nhà lãnh đạo, người làm luật mà cịn khó
12
khăn cho cả cộng đồng nếu khơng có một biện pháp hữu hiệu kịp thời ngăn chặn và
giải quyết các hệ quả trong tương lai.
Chế độ hưu trí trong chính sách BHXH bắt buộc được thực hiện trên cơ sở
dùng phần đóng góp ở thời điểm hiện tại chi trả cho người được hưởng lợi ích. Bởi
vậy, theo tốc độ già hóa dân số đang diễn ra, tỷ lệ người già vượt quá độ tuổi lao
động ngày càng tăng lên trong khi tỷ lệ sinh giảm. Tuổi thọ ngày càng tăng, đồng
nghĩa với việc số người được hưởng càng nhiều và gia tăng các khoản chi cho chế
độ hưu trí, chăm sóc ý tế,… nhưng ngược lại số đối tượng đóng góp trong tương lai
có nguy cơ sụt giảm, gây mất cân bằng giữa các lực lượng xã hội. Vậy nên, thực
hiện chế độ hưu trí ngồi việc triển khai kịp thời và đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho
NLĐ khi về hưu còn phải thực hiện quy tắc cân bằng và ổn định xã hội, đảm bảo
các chế độ phù hợp với tuổi thọ của dân số và mức sống của NLĐ, góp phần cân đối
tỷ lệ người đóng và người hưởng, tạo ra sự tăng trưởng bền vững của quỹ hưu trí.
Thứ hai, có điều chỉnh tuổi nghỉ hưu trong một số ngành, nghề nhất định.
Với sự đa dạng ngành, nghề của nền kinh tế, không phải tất cả NLĐ đều tiến
hành làm việc trong một môi trường nghề giống nhau. Những công việc nặng nhọc,
độc hại, ở những nơi xa xôi hẻo lánh, lĩnh vực an ninh quốc phịng địi hỏi NLĐ
phải kiên trì đối mặt với nhiều vất vả, công sức bỏ ra nhiều hơn so với các lao động
trong điều kiện làm việc bình thường. Việc giảm tuổi nghỉ hưu mà không giảm trừ
mức hưởng nhằm bù đắp lại những thiệt thịi, khó khăn họ đã đối mặt và vượt qua
để thực hiện tốt công việc đảm nhận, khuyến khích, thu hút nhiều NLĐ tích cực
tham gia vào các ngành nghề, lĩnh vực này, tạo ra sự công bằng về giá trị sức lao
động và thời gian làm việc của tất cả NLĐ, cân đối phân bổ lao động ở các vùng,
các ngành nghề kinh tế với nhau.
Thứ ba, thực hiện điều chỉnh hợp lý giữa lao động nam và lao động nữ.
Trong cuộc sống hiện đại, sự bình đẳng giữa nam, nữ trước pháp luật được ghi
nhận và luôn thực thi trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Tuy nhiên, ở phương diện
khác, ngồi tư cách là NLĐ, phụ nữ cịn phải thực hiện tốt vai trò một người mẹ,
một người vợ, một người con với nhiệm vụ chăm lo cho gia đình mà khơng có thời
gian để bản thân nghỉ ngơi. Dưới góc độ sinh học, tốc độ lão hóa của phụ nữ diễn ra
13
nhanh hơn nam giới đã dẫn đến sự khác biệt to lớn về thể lực, sức khỏe và tâm lý.
Nên để đảm bảo tính nhân văn, cơng bằng của pháp luật, không thể xác định và áp
dụng chung một độ tuổi nghỉ hưu cho cùng lao động giữa nam và nữ.
Bên cạnh đó, NLĐ khi làm việc phải đáp ứng sức khỏe tốt để mang lại hiệu
quả cao trong công việc, hoàn thành các nhiệm vụ được giao, tạo ra các giá trị nhất
định về mặt vật chất lẫn tinh thần. Nên pháp luật đã có sự ưu tiên cho lao động nữ
trong chính sách BHXH bắt buộc, khơng chỉ được hưởng chế độ thai sản, các căn
cứ để xác định áp dụng BHHT về độ tuổi được nghỉ hưu và thời gian tham gia đóng
BHXH của nữ giới đều được điều chỉnh và có sự khác biệt đối với nam giới. Theo
quy định của pháp luật lao động hiện hành, trong điều kiện làm việc bình thường, từ
năm 2021 trở đi độ tuổi nghỉ hưu đã được điều chỉnh là 60 tuổi đủ 03 tháng đối với
lao động nam và 55 tuổi đủ 04 tháng đối với lao động nữ sau đó tuổi nghỉ hưu này
được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam và đủ 60
tuổi đối với lao động nữ. Khoảng cách này đã được thu hẹp so với quy định cũ
trong BLLĐ năm 2012 và Luật BHXH năm 2014, cụ thể theo các văn bản này với
điều kiện làm việc như trên thì độ tuổi nghỉ hưu là 60 tuổi đối với lao động nam và
55 tuổi đối với lao động nữ. Có thể thấy sự thu hẹp khoảng cách về độ tuổi nghỉ hưu
theo giới tính cần được thực hiện qua một lộ trình nhiều năm, tuy nhiên việc rút
ngắn khác biệt là 3 năm đã phần nào giúp xã hội đối diện với tình trạng già hóa
bằng việc tận dụng các nguồn lực có sẵn, có bề dày kinh nghiệm và tay nghề làm
việc cao, tạo ra nhiều của cải, vật chất có giá trị đóng góp cao hơn, đáp ứng nhu cầu
sử dụng lao động của các tổ chức kinh tế, đảm bảo cho sự phát phát triển bền vững
của thị trường theo từng thời kỳ.
1.1.3. Nội dung của chế độ bảo hiểm hưu trí bắt buộc
Các chính sách về BHHT bắt buộc được triển khai với sự phối hợp của nhiều
chủ thể tham gia, thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp
luật BHXH bắt buộc nói chung và BHHT bắt buộc nói riêng với một số nội dung cơ
bản như sau:
Thứ nhất, đối tượng tham gia BHHT bắt buộc.
Thơng qua q trình làm việc, đóng góp sức lao động để tạo ra của cải vật chất
cho xã hội, chính sách BHXH bắt buộc được pháp luật áp dụng nhằm đảm bảo thu
14
nhập của NLĐ khi họ rơi vào các khó khăn của cuộc sống, trong đó, chế độ hưu trí
là một trong các cách thức để xã hội bảo vệ các thành viên của mình khi họ đối diện
với tuổi già. Bởi vậy, NLĐ là chủ thể đầu tiên, cần thiết phải tham gia BHHT bắt
buộc, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thiết yếu và hưởng những đãi ngộ, quyền lợi
chính đáng được pháp luật cơng nhận, bảo vệ. Bên cạnh đó, để duy trì và tạo lập
nên mối quan hệ về BHHT, cũng như thực hiện trách nhiệm quản lý, sử dụng lao
động làm việc cho mình, điều tiết các hoạt động xã hội, NSDLĐ và cơ quan quản lý
nhà nước cũng là các chủ thể được pháp luật quy định phải tham gia chế độ hưu trí
bắt buộc.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ cá nhân, tổ chức nào trong quan hệ lao động
cũng được được phép tham gia chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc, Luật
BHXH năm 2014 chỉ giới hạn một nhóm đối tượng cụ thể có trách nhiệm phải tham
gia theo quy định tại Điều 2 của Luật này, đây đều là các mối quan hệ lao động phổ
biến có tính ổn định, góp phần tạo ra các giá trị thặng dư cho xã hội.
Thứ hai, điều kiện được hưởng chế độ hưu trí bắt buộc.
Để được hưởng chế độ hưu trí, NLĐ phải đáp ứng được các điều kiện về độ
tuổi nghỉ hưu và thời gian tham gia BHXH bắt buộc.
- Về độ tuổi nghỉ hưu. Theo lý luận pháp luật lao động, độ tuổi của một người
được chia ra làm ba giai đoạn: chưa đến tuổi lao động, độ tuổi lao động và tuổi
nghỉ hưu. Do đó, để được hưởng chế độ hưu trí, độ tuổi là một trong các điều kiện
quan trọng xác định quyền được nghỉ hưu của một người. Độ tuổi nghỉ hưu được
pháp luật xác định, đánh giá trên nhiều khía cạnh khác nhau về sức khỏe pháp lý, về
đời sống xã hội, trong đó, tuổi thọ bình quân và cơ cấu dân số là hai yếu tố then
chốt quyết định đến độ tuổi nghỉ hưu của một NLĐ.
Việc quyết định độ tuổi lao động không chỉ nhằm đảm bảo cân bằng nguồn
thu chi của xã hội mà cịn nhằm góp phần tạo ra sự bình đẳng, công bằng của các
thành viên tham gia quan hệ lao động sản xuất, đây cũng là cơ sở để xác định mốc
thời gian một cá nhân thực hiện nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH để tính mức
lương hưu và các ưu đãi khác cho người được thụ hưởng. Do đó, đối với một số
ngành nghề, điều kiện làm việc đặc biệt hoặc do sự suy giảm về khả năng lao động,
15
độ tuổi nghỉ hưu sẽ được điều chỉnh áp dụng phù hợp để sự cống hiến của NLĐ
được xã hội, Nhà nước ghi nhận một cách thỏa đáng và bù đắp bằng quãng thời gian
được nghỉ ngơi, chăm sóc bản thân và bình yên bên người thân.
- Về thời gian tham gia BHXH bắt buộc. Bản chất của bảo hiểm là sự tham gia
của cộng đồng, do đó NLĐ với tư cách là một trong các thành viên cần phải có sự
đóng góp vào q trình phát triển của cộng đồng, xã hội. Sự đóng góp này được thể
hiện cụ thể qua “thước đo” thời gian tham gia đóng BHXH bắt buộc. Đây là khoảng
thời gian được tính từ khi NLĐ bắt đầu đóng BHXH cho đến khi ngừng đóng, trong
trường hợp việc có sự gián đoạn về q trình tham gia BHXH thì thời gian tham gia
đóng BHXH bắt buộc được xác định là tổng thời gian đã đóng BHXH. Hoạt động
đóng BHXH được thực hiện trong q trình một người làm việc, do đó đây là điều
kiện gắn liền với độ tuổi lao động và chịu sự tác động trực tiếp của tuổi thọ, môi
trường làm việc của NLĐ. Thông qua điều kiện về thời gian tham gia BHXH bắt
buộc, người về hưu có thể xác định được các hình thức trợ cấp của chế độ hưu trí
bắt buộc mà mình được hưởng để bảo vệ lợi ích chính đáng theo pháp luật và quyền
được bảo đảm về ASXH nói chung.
Thứ ba, thời gian được hưởng chế độ hưu trí.
Đây là khoảng thời gian vơ định, được xác định thời điểm bắt đầu là kể từ khi
NLĐ được hưởng lương hưu nhưng khơng thể nói trước được thời điểm kết thúc,
bởi lẽ lương hưu sẽ được chi trả hàng tháng cho NLĐ đủ điều kiện hưởng chế độ
hưu trí, quyền lợi này được kéo dài trong suốt quãng thời gian từ khi họ bắt đầu về
hưu cho đến khi chết. Như vậy, đây là khoảng thời gian mang tính tương đối liên
tục và phụ thuộc vào tuổi thọ của người thụ hưởng. Bên cạnh đó, thời gian hưởng
lương hưu của NLĐ cũng góp phần thể hiện tuổi thọ trung bình của dân số ở một
quốc gia, đây là cơ sở để giúp cơ quan quản lý nhà nước tính tốn các khoản chi trả
trợ cấp hưu trí bắt buộc, cân đối thu chi của hoạt động quản lý quỹ hưu trí, tạo ra sự
phát triển ổn định trong hệ thống ASXH của nước ta.
Thứ tư, mức hưởng chế độ hưu trí bắt buộc.
Mức hưởng là vấn đề thu hút đa số sự quan tâm của mọi người tham gia
BHHT bắt buộc, bởi lẽ đây chính là mục tiêu mà NLĐ mong muốn đạt được khi hết
16
tuổi lao động hoặc khơng cịn tham gia vào quan hệ lao động. Bên cạnh đó, tùy
thuộc vào độ tuổi và thời gian tham gia BHXH mà NLĐ khi nghỉ hưu sẽ được nhận
các mức hưởng khác nhau, ngoài khoản tiền lương hưu hàng tháng họ cịn có thể
được nhận thêm khoản trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, ngược lại nếu như không đủ
điều kiện được hưởng lương hưu, NLĐ sẽ được nhận mức BHXH một lần tương
ứng từng trường hợp cụ thể. Ngoài ra, mức hưởng trong chế độ hưu trí bắt buộc
khơng chỉ dừng lại ở các khoản tiền hưu trí mà cịn được thể hiện ở các chính sách
khác như: hỗ trợ tham gia BHYT, chế độ tử tuất khi người hưởng hưu trí chết. Như
vậy, mức hưởng của chế độ hưu trí đã phần nào phản ánh sự quan tâm của Nhà
nước và cộng đồng đối với NLĐ khi về hưu để họ có thể có được một cuộc sống
đầy đủ, an bình trong tháng ngày cịn lại.
1.2. Quy định chế độ hưu trí theo quy định pháp luật bảo hiểm xã hội bắt
buộc ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Đối tượng tham gia
Sự hỗ trợ từ chế độ hưu trí bắt buộc dành cho NLĐ khi nghỉ hưu chính là kết
quả của q trình đóng góp vào BHXH bắt buộc của các chủ thể theo quy định tại
Điều 2 Luật BHXH, trong đó NLĐ và Người sử dụng lao động ( sau đây viết tắc là
NSDLĐ) là hai đối tượng chính bắt buộc phải tham gia đóng góp vào quỹ BHXH.
Thứ nhất, NLĐ tham gia BHXH bắt buộc bao gồm:
- Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng
lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một cơng
việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao
động được ký kết giữa NSDLĐ với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15
tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;
- Người làm việc theo hợp đồng lao động từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng;
- Cán bộ, công nhân, viên chức;
- Cơng nhân quốc phịng, cơng nhân cơng an, người làm công tác khác trong
các tổ chức cơ yếu;
- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ nghiệp
vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác
cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;
17
- Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân
phục vụ có thời hạn; học viên qn đội, cơng an, cơ yếu đang theo học được hưởng
sinh hoạt phí;
- Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật Người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động;
- Người quản lý doanh ngiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng
tiền lương;
- Người hoạt động khơng chun trách ở xã, phường, thị trấn;
- NLĐ là cơng dân nước ngồi vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao
động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền của Việt Nam cấp và làm việc theo hợp đồng lao động không xác định
thời hạn hoặc hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 01 năm trở lên với
NSDLĐ tại Việt Nam.
Thứ hai, NSDLĐ thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: cơ
quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã
hội khác; cơ quan nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam;
doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân
có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động.
Như vậy, chủ thể chính tham gia quan hệ chế độ hưu trí bắt buộc là NSDLĐ
và NLĐ, trong đó khơng chỉ cơng dân Việt Nam mà những lao động nước ngoài
làm việc hợp pháp ở nước ta đều được hưởng sự ưu đãi của các chính sách ASXH
sau q trình cống hiến tại Việt Nam. Sự mở rộng các nhóm đối tượng tham gia chế
độ hưu trí bắt buộc trên cơ sở xóa bỏ sự phân biệt địa vị, cơng việc, giới tính, quốc
tịch đã thu hẹp khoảng cách phân biệt các tầng lớp, đảm bảo sự cân bằng lợi ích và
tạo điều kiện phát huy quyền con người cho tất cả thành viên trong xã hội.
1.2.2. Chế độ hưởng
Chế độ hưu trí bắt buộc nhằm bảo vệ quyền lợi cho các đối tượng là NLĐ đã
hết tuổi lao động hoặc khơng cịn tham gia vào quan hệ lao động với từng điều kiện
áp dụng và mức hưởng khác nhau. Căn cứ theo pháp luật BHXH hiện hành, chế độ
hưởng trong chính sách hưu trí bắt buộc được xác định như sau:
18
1.2.2.1. Chế độ hưu trí hàng tháng đầy đủ
NLĐ khi nghỉ việc sẽ được hưởng một khoản lương hưu hàng tháng phải đảm
bảo đủ thời gian tham gia BHXH bắt buộc và đủ độ tuổi nghỉ hưu theo quy định của
pháp luật, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về điều kiện hưởng.
- NLĐ không công tác trực tiếp trong lực lượng vũ trang nhân dân, công tác cơ
yếu được hưởng chế độ hưu trí bắt buộc khi thuộc các trường hợp sau:
Một là, NLĐ trong điều kiện làm việc bình thường và khi nghỉ việc có đủ 20
năm đóng BHXH trở lên và đủ tuổi nghỉ hưu thì được hưởng lương hưu. Căn cứ
Điều 169 của BLLĐ năm 2019, kể từ năm 2021 trở đi độ tuổi nghỉ hưu đối với lao
động nam 60 tuổi đủ 03 tháng, sau đó cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng cho đến khi
đủ 62 tuổi và đối với lao động nữ có độ tuổi nghỉ hưu là 55 tuổi đủ 04 tháng, sau đó
mỗi năm tăng thêm 04 tháng cho đến khi đủ 60 tuổi. Như vậy, tuổi nghỉ hưu của
NLĐ theo quy định pháp luật hiện hành được điều chỉnh qua một lộ trình thực hiện
cụ thể trong từng giai đoạn, được minh họa bởi các bảng sau:
Bảng 1.1. Độ tuổi nghỉ hưu đối với lao động nam từ năm 2021
Năm
2021
2022
2023
2024
Lao động nam
60 tuổi 3 tháng
60 tuổi 6 tháng
60 tuổi 9 tháng
61 tuổi
Năm
2025
2026
2027
Từ 2028 trở đi
Lao động nam
61 tuổi 3 tháng
61 tuổi 6 tháng
61 tuổi 9 tháng
62 tuổi
Nguồn: Bộ luật Lao động năm 2019.
Bảng 1.2. Độ tuổi nghỉ hưu đối với lao động nữ từ năm 2021
Năm
2021
2022
2023
2024
2025
2026
2027
2028
Lao động nữ
55 tuổi 4 tháng
55 tuổi 8 tháng
56 tuổi
56 tuổi 4 tháng
56 tuổi 8 tháng
57 tuổi
57 tuổi 4 tháng
57 tuổi 8 tháng
Năm
2029
2030
2031
2032
2033
2034
Từ 2035 trở đi
Lao động nữ
58 tuổi
58 tuổi 4 tháng
58 tuổi 8 tháng
59 tuổi
59 tuổi 4 tháng
59 tuổi 8 tháng
60 tuổi
Nguồn: Bộ luật Lao động năm 2019.
Có thể thấy, như bất cứ quốc gia nào, Việt Nam khi điều chỉnh tăng tuổi nghỉ
hưu cũng phải xem xét, đánh giá toàn diện các yếu tố về kinh tế, chính trị, xã hội để
đảm bảo tính khả thi của quy phạm trong thực tiễn áp dụng. Trên thực tế, tuổi thọ
19
bình quân của người Việt Nam gần đây đã tăng nhiều so với giai đoạn trước đây,
dân số nước ta đang chuyển từ thời kỳ dân số vàng sang giai đoạn già hóa dân số,
trong tương lai, lực lượng lao động trẻ sẽ thiếu hụt, dẫn đến tình trạng tỷ lệ người
trong độ tuổi lao động ngày càng thấp trong khi tỷ lệ người phụ thuộc ngày càng
cao, vì vậy các nguy cơ về mất cân đối quỹ hưu trí cũng ngày càng gia tăng, đây là
các thách thức lớn khơng chỉ cho nhà lãnh đạo mà là bài tốn nan giải cho tồn xã
hội. Chính vì thế, việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu của NLĐ đã được điều chỉnh từ 60
tuổi đối với lao động nam và 55 tuổi đối với lao động nữ (căn cứ BLLĐ năm 2012)
sang 62 tuổi đối với nam vào năm 2028 và 60 tuổi đối với nữ từ năm 2035 trở đi đã
thu hẹp khoảng cách tuổi nghỉ hưu theo giới tính nhằm đảm bảo cân bằng sự đóng
góp của các thành phần lao động trong xã hội, tạo điều kiện cho mọi người được
làm việc như nhau. Bên cạnh đó, sự điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu bằng một lộ trình
nhiều năm đã tạo ra một khoảng thời gian thích ứng cho NLĐ đối với các thay đổi
của quy định pháp luật, đồng thời góp phần giảm bớt áp lực về cơ cấu dân số khi
Việt Nam phải đối diện với tình trạng chấm dứt thời kỳ cơ cấu dân số vàng vào năm
2039 và bước sang một giai đoạn đầy thử thách khi tốc độ già hóa dân số ngày càng
tăng nhanh. Mặt khác, việc cải cách độ tuổi nghỉ hưu đã phần nào tạo cơ hội tận
dụng các nguồn lực lao động có sẵn với kinh nghiệm và tay nghề làm việc cao tạo
ra nhiều của cải, vật chất có giá trị làm động lực để phát triển kinh tế, đảm bảo cho
sự cân bằng xã hội, cơ cấu nhân lực, giữ vững hoạt động quỹ BHXH, tránh tình
trạng bội chi khi các khoản thu ngày càng ít dần và không ổn định.
Hai là, NLĐ bị suy giảm khả năng lao động; làm nghề, công việc nặng nhọc,
độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không được quá 05 tuổi so với tuổi nghỉ hưu
của NLĐ làm việc ở điều kiện bình thường nếu có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên
và đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt
nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ LĐTBXH, Bộ Y tế ban hành
hoặc có đủ 15 năm làm việc ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả
thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày
01/01/2021.
20
Ba là, NLĐ được nghỉ hưu khi có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên có tuổi thấp
hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu của NLĐ làm việc ở điều kiện bình thường
và có đủ 15 năm làm cơng việc khai thác than trong hầm lị.
Bốn là, NLĐ bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp thì được
hưởng lương hưu khi có đủ đủ 20 năm đóng BHXH trở lên tại thời điểm nghỉ việc
mà không phải xem xét yếu tố về tuổi đời nghỉ hưu.
- Đối với NLĐ là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ
quan, hạ sĩ nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;
người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân; hạ sĩ quan, chiến sĩ
quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học
viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí thì khi nghỉ
việc có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên được hưởng lương hưu khi thuộc các trường
hợp sau:
Một là, có tuổi thấp hơn tối đa 05 tuổi so với tuổi nghỉ hưu đối với NLĐ trong
điều kiện lao động bình thường.
Hai là, thấp hơn tối đa 05 tuổi so với tuổi hưởng chế độ hưu trí trong điều kiện
làm việc bình thường khi bị suy giảm khả năng lao động; làm nghề, công việc nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn theo quy định của BLLĐ và có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ
LĐTBXH ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số
0,7 trở lên trước ngày 01/01/2021.
Ba là, NLĐ là người bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp trong khi
thực hiện nhiệm vụ được giao. Trường hợp này người được nghỉ hưu không xem
xét yếu tố về tuổi.
Bốn là, NLĐ có 20 năm tham gia BHXH bắt buộc, chưa đủ tuổi nghỉ hưu theo
quy định nhưng tại đơn vị lực lượng vũ trang, cơng tác cơ yếu khơng cịn nhu cầu
bố trí sĩ quan, qn nhân chun nghiệp, cơng chức quốc phịng, sĩ quan cơng an,
người làm cơng tác cơ yếu hoặc khơng chuyển ngành được thì lao động nam phải có
21
đủ 25 năm và lao động nữ có đủ 20 năm phục vụ trong quân đội trở lên được nghỉ
hưu trước hạn tuổi mà không giới hạn độ tuổi khi nghỉ việc.
- Đối với NLĐ là những nữ cán bộ, nữ công chức cấp xã hoặc là người hoạt
động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn tham gia BHXH khi nghỉ việc có từ
đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng BHXH và đủ tuổi nghỉ hưu đối với NLĐ làm việc
ở điều kiện bình thường thì được hưởng chế độ hưu trí.
Thứ hai, mức hưởng lương hưu hàng tháng.
Trong chế độ hưu trí theo BHXH bắt buộc, mức hưởng hàng tháng của NLĐ
được tính bằng tỷ lệ hưởng lương hưu hàng tháng và bình qn tiền lương tháng
đóng BHXH. Đồng thời, tùy theo điều kiện làm việc, thời gian nghỉ hưu, giới tính,
thời gian tham gia BHXH mà mức lương hưu hằng tháng được tính khác nhau:
- Từ ngày 01/01/2016 cho đến trước ngày 01/01/2018, mức lương hưu hằng
tháng của NLĐ đủ điều kiện quy định hưởng lương hưu của Luật BHXH được tính
bằng 45% mức bình qn tiền lương tháng đóng BHXH tương ứng với 15 năm
đóng BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm thì tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với
nữ, mức tối đa bằng 75%. Do đó để được hưởng lương hưu tối đa bằng 75% mức
bình qn tiền lương tháng đóng BHXH, NLĐ nghỉ hưu trong khoảng thời gian này
phải đóng BHXH đủ ít nhất 25 năm đối với lao động nữ và đủ ít nhất 30 năm đối
với lao động nam.
- Từ ngày 01/01/2018, mức lương hưu hằng tháng của NLĐ đủ điều kiện
hưởng chế độ hưu trí bắt buộc được quy định như sau:
Lao động nam: khi nghỉ hưu vào năm 2018 là 16 năm, năm 2019 là 17 năm,
năm 2020 là 18 năm, năm 2021 là 19 năm, năm 2020 trở đi là 20 năm tính bằng
45% mức bình qn tiền lương tháng đóng BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm người
lao động được tính thêm 2%, mức tối đa bằng 75%.
Ví dụ: Năm 2019, ơng A nghỉ hưu, ơng có 26 năm tham gia BHXH, như vậy
mức lương hưu của ơng A được tính như sau:
• Nghỉ hưu vào năm 2019 do đó:17 năm đầu đóng BHXH tính bằng 45%.
• 9 năm đóng BHXH cịn lại tương ứng 9 x 2% = 18%.
22