Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Thơ trẻ bắc kạn qua sáng tác của các nhà thơ nông thị tô hường, hoàng chiến thắng và phùng thị hương ly (luận văn thạc sĩ ngôn ngu văn hóa việt nam)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.57 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
––––––––––––––––––––

HOÀNG THỊ HẠNH

THƠ TRẺ BẮC KẠN QUA SÁNG TÁC
CỦA CÁC NHÀ THƠ: NÔNG THỊ TƠ HƢỜNG,
HỒNG CHIẾN THẮNG VÀ PHÙNG THỊ HƢƠNG LY

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2020


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
––––––––––––––––––––

HOÀNG THỊ HẠNH

THƠ TRẺ BẮC KẠN QUA SÁNG TÁC
CỦA CÁC NHÀ THƠ: NÔNG THỊ TƠ HƢỜNG,
HỒNG CHIẾN THẮNG VÀ PHÙNG THỊ HƢƠNG LY
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. CAO THỊ HẢO

THÁI NGUYÊN - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Cơng
trình có sự hỗ trợ khoa học từ giáo viên hướng dẫn PGS.TS. Cao Thị Hảo. Các
nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực, khách quan và
chưa từng được ai cơng bố trong bất cứ cơng trình nghiên cứu nào trước đây.
Tác giả luận văn

HOÀNG THỊ HẠNH

i


LỜI CẢM ƠN
Với lịng kính trọng sâu sắc và tình cảm chân thành, tôi xin trân trọng
cảm ơn: Khoa Ngữ văn, Phòng Đào tạo - Trường Đại học Sư phạm - Đại học
Thái Nguyên, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Bắc Kạn, các nhà thơ: Nơng Thị Tơ
Hường, Hồng Chiến Thắng, Phùng Thị Hương Ly đã giúp đỡ cho tôi trong
suốt q trình học tập, nghiên cứu và hồn thành luận văn.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với
PGS.TS Cao Thị Hảo, người đã nhiệt tình trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em
nghiên cứu hoàn thành luận văn.
Mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng, nhưng luận văn khơng tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và bạn bè đồng
nghiệp quan tâm đến luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 12 năm 2020

Tác giả luận văn

HOÀNG THỊ HẠNH

ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan .................................................................................................................. i
Lời cảm ơn .....................................................................................................................ii
Mục lục ........................................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................ 1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................. 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 5
6. Đóng góp của luận văn .............................................................................................. 6
7. Cấu trúc của luận văn................................................................................................. 6
NỘI DUNG ................................................................................................................... 7
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI ................................................................................................................ 7
1.1. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài: ......................................... 7
1.1.1. Khái niệm "Thơ trẻ"............................................................................................. 7
1.1. 2. Khái niệm văn học địa phương ........................................................................... 7
1.1. 3. Vị trí và đặc trưng của văn học địa phương........................................................ 8
1.2. Khái quát văn học địa phương Bắc Kạn ............................................................... 12
1.2.1. Vài nét về điều kiện địa lý, xã hội tỉnh Bắc Kạn ............................................... 12
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của văn học Bắc Kạn .................................. 13
1.2.3. Thành tựu và hạn chế của các thể loại ............................................................... 17

1.3. Chân dung ba nhà thơ: Nông Thị Tơ Hường, Hồng Chiến Thắng, Phùng Thị
Hương Ly ..................................................................................................................... 23
1.3.1. Nơng Thị Tơ Hường .......................................................................................... 23
1.3.2. Hồng Chiến Thắng ........................................................................................... 24
1.3.3. Phùng Thị Hương Ly ......................................................................................... 26
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 28

iii


Chƣơng 2: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG THƠ NÔNG THỊ TƠ
HƢỜNG, HỒNG CHIẾN THẮNG VÀ PHÙNG THỊ HƢƠNG LY ................. 30
2.1. Hình ảnh quê hương tươi đẹp, thân thương .......................................................... 30
2.1.1. Quê hương gắn với những kí ức tuổi thơ ........................................................... 30
2.1.2. Quê hương mang vẻ đẹp bình dị thân thương đang thay đổi từng ngày ........... 33
2.1.3. Quê hương cịn nhiều khó khăn, vất vả ............................................................. 38
2.2. Hình ảnh con người mang vẻ đẹp riêng ................................................................ 40
2.2.1. Con người chăm chỉ, vươn lên trong khó khăn, đối diện với vất vả để mưu sinh .... 40
2.2.2. Con người với những cung bậc của tình yêu ..................................................... 47
2.2.3. Con người trong cuộc sống đầy biến động ........................................................ 50
2.3. Những phong tục tập quán, nếp sống của người dân vùng núi Việt Bắc ............. 54
2.3.1. Những phong tục tập quán trong lễ, tết, hội hè ................................................. 55
2.3.2. Những nếp sống, tập quán sinh hoạt hàng ngày ................................................ 58
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................ 63
Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THƠ NƠNG THỊ TƠ
HƢỜNG, HỒNG CHIẾN THẮNG VÀ PHÙNG THỊ HƢƠNG LY ................. 65
3.1. Thể thơ .................................................................................................................. 65
3.1.1. Thể thơ tự do ...................................................................................................... 66
3.1.2. Trường ca ........................................................................................................... 70
3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật............................................................................................. 74

3.2.1. Ngôn ngữ chân thực, giản dị .............................................................................. 74
3.2.2. Ngơn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu ................................................................... 76
3.2.3. Ngơn ngữ mang màu sắc văn hố Tày............................................................... 79
3.3. Một số biểu tượng tiêu biểu .................................................................................. 83
3.3.1. Biểu tượng cây lúa ............................................................................................. 83
3.3.2. Biểu tượng bếp lửa............................................................................................. 86
3.3.3. Biểu tượng núi ................................................................................................... 89
3.4. Giọng điệu............................................................................................................. 91
3.4.1. Giọng điệu tự hào, ngợi ca khi viết về quê hương............................................. 92
3.4.2. Giọng trữ tình, tha thiết, nồng nàn khi viết về tình yêu ..................................... 94
3.4.3. Giọng suy tư, triết lý khi viết về hiện thực cuộc sống ....................................... 96
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................ 98
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 102

iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học dân tộc thiểu số là một bộ phận quan trọng của văn học Việt
Nam. Những sáng tác về đề tài dân tộc thiểu số đã góp phần tạo nên những thành tựu,
giá trị và bản sắc văn hóa độc đáo của các dân tộc anh em. Điều đó khơng những làm
cho nền văn hóa Việt Nam đậm sắc màu phong phú mà cịn góp phần củng cố sự
thống nhất ý chí, tinh thần, tình cảm, tạo nên sức mạnh nội sinh bền vững của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Để làm nên diện mạo của văn học dân tộc thiểu số chính là
sự góp mặt hết sức qua trọng của văn học địa phương.
1.2. Bắc Kạn được biết đến là một vùng đất giàu truyền thống cách mạng,
đồng thời cũng là mảnh đất giàu bản sắc văn hóa. Mảnh đất ấy đã sinh ra biết bao nhà
văn, nhà thơ là người dân tộc thiểu số với những tên tuổi như: Nơng Minh Châu,

Nơng Viết Toại, Nơng Quốc Chấn, Hồng Hóa…Và các lớp thế hệ kế tiếp: như Triệu
Kim Văn, Đinh Hữu Hoan, Phạm Viết Lãm, Hà Văn Roanh, Nguyễn Văn Lợi, Đặng
Phúc Lường, Nơng Thị Ngọc Hịa, Dương Khâu Lng … cũng đã khẳng định sự
đóng góp của mình cho văn học dân tộc. Có thể nói rằng, lớp lớp thế hệ các nhà văn,
nhà thơ Bắc Kạn đã nối tiếp nhau theo các chặng đường lịch sử của dân tộc, của quê
hương, góp phần làm nên diện mạo riêng của văn học Bắc Kạn.
1.3. Nối tiếp thế hệ đi trước, hiện nay Bắc Kạn đang hình thành một đội ngũ
các tác giả trẻ ở lứa tuổi 7X, 8X, 9X. Sự xuất hiện đội ngũ các tác giả trẻ đã mang
đến cho văn học Bắc Kạn một luồng gió mới. Các nhà văn, nhà thơ trẻ dồi dào sức
sáng tạo đã mang đến chất men say tươi mới cho văn học thiểu số. Rất có thể họ sẽ
đại diện cho cả một thế hệ những người viết trẻ làm thay đổi diện mạo của văn học
dân tộc thiểu số. Họ tỏ ra rất nhạy bén với cái mới, họ không hề tỏ ra thua kém trước
sự phát triển rầm rộ của thơ ca đương đại và những xu hướng mới du nhập với trình
độ ngoại ngữ, sự đào tạo bài bản và quan trọng hơn nữa là ý thức dẫn thân và không
ngại đổi mới.
1.4. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có đề tài nghiên cứu về các nhà thơ trẻ. Việc
nghiên cứu thơ trẻ Bắc Kạn sẽ giúp chúng ta có cái nhìn bao qt về dịng chảy của
văn học Bắc Kạn trong sự tiếp nối của các thế hệ và những cách tân đổi mới của thế

1


hệ trẻ, góp phần hữu ích đưa thơ trẻ Bắc Kạn đến nhiều hơn với độc giả. Nghiên cứu
các nhà thơ của địa phương, cũng là dịp để bản thân tơi có thêm tư liệu phục vụ cho
việc giảng dạy, đồng thời cũng là tài liệu hữu ích cho việc giảng dạy văn học địa
phương ở các trường học. Bởi vậy, tôi đã chọn đề tài: Thơ trẻ Bắc Kạn qua sáng tác
của các nhà thơ: Nông Thị Tô Hường, Hoàng Chiến Thắng, Phùng Thị Hương Ly.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu thơ Bắc Kạn:
Bắc Kạn không chỉ là mảnh đất giàu truyền thống cách mạng mà còn là nơi

sinh ra nhiều người con ưu tú. Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống
pháp, đã có những người con ưu tú vừa tham gia cách mạng, vừa dùng tài năng của
mình sáng tác văn chương phục vụ kháng chiến. Chính vì thế, thơ Bắc Kạn đã hình
thành với chặng đường lịch sử khá dài. Thơ Bắc Kạn đã có những đóng góp cho văn
học dân tộc thiểu số với những tên tuổi: Nông Minh Châu, Nơng Viết Toại, Nơng
Quốc Chấn, Hồng Hóa, Đặng Phúc Lường, Triệu Sinh, Triệu Hữu Định, Đinh Hữu
Hoan, Triệu Kim Văn, Ma Kim Ly, Nguyễn Văn Lợi, Phạm Viết Lãm, Lương Hiệu,
Dương Thuấn, Dương Khâu Lng, Hồng Thị Điềm…Sáng tác của nhiều tác giả đã
thu hút sự chú ý của giới phê bình- nghiên cứu, các bài báo khoa học, các luận án,
luận văn, khóa luận tốt nghiệp đại học. Những nghiên cứu về thơ Bắc Kạn có cả
những nghiên cứu cả q trình lịch sử thơ Bắc Kạn, có cả những nghiên cứu về các
tác giả. Những tác giả được quan tâm nghiên cứu nhiều như Nông Minh Châu, Nông
Viết Toại, Nông Quốc Chấn, Triệu Kim Văn, Dương Khâu Luông. Có thể nói rằng,
cho đến nay, thơ Bắc Kạn vẫn đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu không ngừng của
những độc giả yêu mến thơ Bắc Kạn.
2.2. Lịch sử nghiên cứu thơ trẻ Bắc Kạn:
Thơ trẻ là thơ của những nhà thơ trẻ về tuổi đời, tuổi xuất hiện trên thi đàn. Trẻ
trong cách nhìn, cách cảm, trong cách tư duy thơ. Họ mang đến cho thơ một sinh khí
mới, một cách nhìn mới trẻ trung và thu hút sự chú ý của các nhà phê bình, nghiên cứu.
Ngay khi mới xuất hiện thơ của Nông Thị Tô Hường và Hoàng Chiến Thắng
đã nhận được nhiều sự quan tâm chú ý của nhiều nhà phê bình nghiên cứu. Nơng Thị
Tơ Hường, là nhà thơ có nhiều tác phẩm nổi tiếng được công bố và nhận được nhiều
giải thưởng cao của trung ương và địa phương. Nhà thơ Triệu Kim Văn đã đánh giá

2


Nông Thị Tô Hường là “tác giả Viết thơ bác học”. Trong bài tựa tập thơ “Quả
Nhung”, nhà thơ Mai Liễu đã có những cảm nhận về sự độc đáo trong thơ của Nông
Thị Tô Hường: Nhiều bài thơ của Tô Hường thể hiện một ý tưởng, một cảm xúc chợt

đến, nhiều lúc chưa rõ ràng chưa định hình, buộc ta phải đọc lại, ngẫm nghĩ xem sau
những câu chữ bng lửng ấy tác giả muốn nói gì, gửi gắm điều gì với người đọc.
[18, tr.6].
Trong bài viết “Bản sắc dân tộc trong văn học dân tộc thiểu số”, tác giả Bình
Ngun có nhận xét: “Nơng Thị Tơ Hường, có một vốn văn hóa Tày khá phong phú
và sáng tác được cả hai thứ tiếng (Tày và Việt). Thơ chị giàu hình tượng, giàu liên
tưởng, với nhiều ví von, so sánh”.
Đối với Hoàng Chiến Thắng, chàng trai yêu nghệ thuật, hội họa từ hồi học
THPT, đã có những bài thơ ngay từ thủa cắp sách đến trường. Trước khi là sinh viên
Khoa Sáng tác, Lý luận- Phê bình văn học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội thì
Hồng Chiến Thắng đã có những bài thơ đầu tiên được in trên báo. Năm 2009, tập
thơ “Gọi ngày xuống núi” của Hoàng Chiến Thắng được xuất bản đã được nhiều
người yêu thơ quan tâm.
Trong bài tựa cho tập thơ, nhà thơ Nguyễn Hữu Q có cho rằng: Thơ Thắng
chân mà khơng cũ, thật mà không cỗi, dễ cảm nhận nhưng không sơ lược… Cái được
của thơ Thắng là kiệm lời, rất kiệm lời và ảo thực đan xen nhau trong một cấu trúc
khá vững của bài. [36, tr.7].
Trong một bài viết của mình, tác giả Thu Bình đã nhận xét về thơ của Hoàng
Chiến Thắng: Thơ Hoàng Chiến Thắng cho ta cái cảm xúc thú vị trước sự ngồn ngộn
của văn hóa miền núi. Tác giả này luôn biết cách khai thác, sử dụng cách diễn đạt đắt
về các góc độ của cuộc sống mà anh chọn để phản ánh…Tư duy, ngôn ngữ, hình
ảnh… ln sống động tươi rói như cuộc sống đang hiện hữu.
Còn cây bút trẻ Phùng Thị Hương Ly, một cơ gái trẻ mang đến một làn gió mới
cho thơ ca Bắc Kạn. Những điều gần gũi bình dị trong cuộc sống được tác giả viết
với lối viết hiện đại.
Trong bài viết “Chân dung nhà thơ trẻ Phùng Thị Hương Ly”, tác giả Bích
Phượng viết: Đọc thơ của chị, độc giả sẽ thấy rất gần gũi, những gì trong thơ gắn
liền với cuộc sống đời thường giản dị của con người vùng núi, nhưng bằng sự sáng
3



tạo, sử dụng lối viết hiện đại đã miêu tả những hình ảnh quen thuộc đó ở một khía
cạnh khác.
Nói về thơ của Hương Ly- nhà thơ trẻ Hoàng Chiến Thắng- Hội viên hội
VHNT tỉnh Bắc Kạn chia sẻ: Phùng Thị hương Ly là một cây bút trẻ theo đuổi một
lối viết khá lạ đối với nhiều tác giả trong tỉnh. Ở thơ của Ly tập trung nhiều về tứ, đặc
biệt là cách làm mới câu từ hết sức cân nhất, đây là một tác giả có khả năng lập ngơn
tốt. Có thể nói, hiếm có nhà thơ trẻ nào lại có khả năng đưa nhiều vấn đề lớn vào
trong thơ hết sức tự nhiên như Ly, nhưng nếu đọc kĩ bạn đọc sẽ thấy trong đó cũng có
tính triết luận rất cao.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là những lời nhận xét, đánh giá lẻ tẻ của các nhà văn,
nhà thơ, nhà phê bình, các bài báo về cá nhân các nhà thơ trẻ Bắc Kạn. Hiện tại, vẫn
chưa có một nghiên cứu nào nghiên cứu một cách hệ thống về thơ trẻ Bắc Kạn thơng
qua một nhóm tác giả tiêu biểu.
Vì thế chúng tơi chọn đề tài thơ trẻ bắc Kạn qua các sáng tác của tác giả Nông Thị
Tơ Hường, Hồng Chiến Thắng, Phùng Thị Hương Ly nhằm khẳng định vị trí của các
nhà thơ trẻ dân tộc miền núi trong việc đóng góp vào dịng thơ VH DTTS nói riêng và
VHHĐ Việt Nam nói chung những thành tựu vơ cùng đáng trân trọng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về thơ trẻ Bắc Kạn qua sáng tác của ba tác giả tiêu biểu để tìm hiểu
đặc điểm nội dung và nghệ thuật trong thơ của họ, tìm ra được những điểm mới, sự
cách tân trên cả hai phương diện nội dung cũng như nghệ thuật trong sáng tác thơ của
các nhà thơ trẻ DTTS Bắc Kạn. Trên cơ sở đó tìm hiểu sự kế thừa, tiếp nối của thơ trẻ
so với thơ của các thế hệ đi trước, từ đó có cái nhìn đầy đủ và tồn diện hơn về những
đóng góp của các nhà thơ trẻ cho văn học địa phương Bắc Kạn và văn học các DTTS
VN hiện đại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn hướng đến giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau:
Chỉ ra được những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác

thơ của các nhà thơ Nơng Thị Tơ Hường, Hồng Chiến Thắng, Phùng Thị Hương Ly;
Từ đó tìm ra những điểm tương đồng khác biệt trong sáng tác của họ.

4


Khẳng định những đóng góp quan trọng của ba nhà thơ trong quá trình phát
triển thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đai nói chung và thơ ca các dân tộc
thiểu số Bắc Kạn nói riêng.
Qua việc nghiên cứu góp phần quảng bá rộng rãi hơn về văn học dân tộc thiểu số
nói chung và nét đẹp trong đời sống tâm hồn, tình cảm của con người miền núi nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thơ của các nhà thơ Nông Thị Tơ Hường, Hồng Chiến Thắng, Phùng Thị
Hương Ly với những nét tiêu biểu cả về nội dung và nghệ thuật.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Các sáng tác của ba nhà thơ Nông Thị Tơ
Hường, Hồng Chiến Thắng, Phùng Thị Hương Ly, bao gồm các tập thơ:
Quả Nhung, Tềnh pù (Trên núi) -Thơ song ngữ Tày- Việt, Vạt sáng trăng rằm
(thơ), Hằn sâu trên đá (trường ca), Phía chân trời (thơ) của Nơng Thị Tô Hường; Đi
qua tôi thật chậm (thơ) của Phùng Thị Hương Ly; Gọi ngày xuống núi (thơ), Mỉnh
hai (Vía trăng) của Hồng Chiến Thắng.
Ngồi ra chúng tơi cũng tham khảo thơ của một số nhà thơ dân tộc thiểu số thế
hệ đi trước của Bắc Kạn để đối chiếu so sánh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại để tập hợp những sáng tác của các
nhà thơ theo những nội dung khác nhau, đồng thời để thống kê những vấn đề liên qua
đến nghệ thuật như: thể thơ, các biểu tượng...
Phương pháp phân tích tổng hợp để làm sáng tỏ các đặc điểm về nội dung cũng

như nghệ thuật thể hiện của ba nhà thơ.
Phương pháp so sánh đối chiếu để thấy những nét tương đồng và những điểm
khác biệt trong sáng tác của ba nhà thơ trẻ và giữa các nhà thơ trẻ Bắc Kạn với các
nhà thơ Bắc Kạn thuộc các thế hệ trước.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn hóa học, dân tộc học….) cùng với các
phương pháp khác để thấy được những nét đặc sắc trong văn hóa, văn học của các
dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.

5


6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu về ba tác giả thơ đại diện cho các tác giả trẻ
dân tộc thiểu số hiện đại Bắc Kạn. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần khẳng định những
đóng góp của ba thi sĩ cho văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại,bổ sung những
tài liệu tham khảo về văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại vốn chưa được
nghiên cứu sâu rộng và quan tâm đúng mức. Đồng thời là nguồn tài liệu quý cho giáo
viên Bắc Kạn muốn đưa thơ trẻ vào giảng dạy trong chương trình văn học địa
phương, cũng như muốn giáo dục văn hóa dân tộc, phong tục tập quán của dân tộc
thông qua thơ ca.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội
dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài.
Chương 2: Một số phương diện nội dung thơ Nông Thị Tô Hường, Hoàng
Chiến Thắng, Phùng Thị Hương Ly.
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật thơ Nơng Thị Tơ Hường, Hồng
Chiến Thắng, Phùng Thị Hương Ly

6



NỘI DUNG
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm thơ trẻ
Thơ trẻ có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tuỳ theo tiêu chí chúng ta
có thể có những cách hiểu khác nhau về thơ trẻ. Trong phạm vi đề tài này chúng tôi
dùng khái niệm thơ trẻ để chỉ những tác giả có tuổi đời trẻ (chủ yếu trên dưới ba
mươi khi công bố các tập thơ của mình) và đặc biệt có cách nhìn, cách cảm, cách tư
duy mới mẻ, hiện đại và trẻ trung. Điều này được thể hiện trong những tập thơ đã
xuất bản của họ trên thi đàn. Ba nhà thơ chúng tơi nghiên cứu là: Nơng Thị Tơ
Hường, Hồng Chiến Thắng và Phùng Thị Hương Ly đều là những nhà thơ trẻ khi tác
phẩm của họ được xuất bản khi họ ở độ tuổi trên dưới ba mươi. Các tập thơ mà chúng
tôi sử dụng làm đối tượng nghiên cứu của ba tác giả này đều xuất bản khi họ còn rất
trẻ. Đó là: Quả Nhung - 2006, Tềnh pù (Trên núi) - 2007 -Thơ song ngữ Tày- Việt,
Vạt sáng trăng rằm (thơ), Hằn sâu trên đá (trường ca) - 2011, của Nông Thị Tô
Hường; Đi qua tôi thật chậm (thơ) - 2013 của Phùng Thị Hương Ly; Gọi ngày xuống
núi (thơ) - 2008, Mỉnh hai (Vía trăng) - 2019 của Hồng Chiến Thắng.
Họ đã đóng góp cho dịng chảy thơ dân tộc thiểu số hiện đại một tiếng nói trẻ
trung, sơi nổi, đầy nhiệt huyết và một góc nhìn trẻ trung, hiện đại. Những nhà thơ dân
tộc thiểu số này đã có cách nhìn, cách cảm đời sống bằng con mắt trẻ trung của
những tri thức trẻ miền núi. Chính vì vậy, thơ của họ có nét mới mẻ, thể hiện một góc
nhìn riêng của lớp thi sĩ thuộc thế hệ thứ ba trong dòng chảy văn học dân tộc thiểu số
Việt Nam hiện đại. Không chỉ vậy, thơ họ cịn tiêu biểu cho tiếng nói của các tác giả
trẻ trong văn học địa phương Bắc Kạn. Văn học địa phương Bắc Kạn đã có một bề
dầy truyền thống từ những thế hệ đi tiên phong như: Nông Quốc Chấn, Nông Viết
Toại, tiếp đến là thế hệ thứ hai như: Dương Thuấn, Dương Khâu Lng và thế hệ thứ

ba chính là những tác giả trẻ: Nơng Thị Tơ Hường, Hồng Chiến Thắng và Phùng Thị

7


Hương Ly. Họ đã tiếp nối và phát triển thơ Bắc Kạn đạt được những thành tựu mới
đáng ghi nhận.
1.1.2. Khái niệm văn học địa phương
Khái niệm văn học địa phương cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất trong giới
nghiên cứu. Theo tác giả Bùi Thanh Truyền: Văn học địa phương là các sáng tác ngôn từ
mang dấu ấn riêng của từng vùng miền trên đất nước Việt Nam.[52, tr.144]. Trong định
nghĩa của mình, tác giả Ngọc Trân lại nhấn mạnh người sáng tác gắn với nơi sinh
sống và nội dung phản ánh: “Văn học địa phương được hiểu là những sáng tác văn
học của các tác giả trong một khu vực địa lý cụ thể. Nó phản ánh đời sống văn hóa
tinh thần của cộng đồng dân cư ở một địa bàn cư trú nhất định và mang bản sắc
riêng, độc đáo, có tính chất đặc thù của vùng, miền, địa phương đó” [47]. Với PGS.
TS Đỗ Việt Hùng- Đại học sư Phạm Hà Nội, khái niệm địa phương cần được hiểu
một cách rộng rãi.“Địa phương là thơn xã cụ thể, nhưng cũng có thể là huyện thị,
tỉnh, thành phố thậm chí là các vùng miền lớn hơn”.[16].Trong bài báo cáo tại Hội
thảo khoa học quốc tế Teacher Traning Curriculum Development - Opprtunities and
Challenges,PGS.TS. Cao Thị Hảo - Đại học sư phạm Thái Nguyên định nghĩa: Văn
học địa phương là những sáng tác văn học của các tác giả trong một khu vực địa lý
cụ thể. Nó phản ánh đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng dân cư ở một địa bàn
cư trú nhất định và mang bản sắc riêng, độc đáo có tính chất đặc thù của vùng, miền,
địa phương đó [10].
Từ những khái niệm trên có thể khẳng định: Văn học địa phương là những sáng
tác văn học cá nhân của các tác giả trong một địa phương, vùng, miền cụ thể. Những
sáng tác đó phản ánh đời sống văn hóa tinh thần và mang bản sắc riêng, độc đáo có
tính chất đặc thù của vùng dân cư đó.
1.1.3. Vị trí và đặc trưng của văn học địa phương

Văn học địa phương có vai trị vơ cùng quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát
triển văn hóa- xã hội ở mỗi địa phương. Các tác phẩm văn học địa phương phản ánh
đời sống tinh thần, tình cảm của người dân miền núi, góp phần bảo vệ bản sắc văn
hóa, phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số, đặc biệt trong xu thế tồn cầu hóa
hiện nay. Mỗi tác phẩm sẽ mang theo những tên đất, tên làng, những hình ảnh thiên
nhiên vùng miền rất đỗi thân quen đối với bạn đọc tại địa phương. Mỗi nhà văn, nhà

8


thơ bao giờ cũng thuộc về một dân tộc, một nền văn hố nhất định.Vì thế, họ sẽ
truyền tải trong tác phẩm của mình những truyền thống văn hóa của dân tộc. Thông
qua ngôn ngữ của văn chương, các lễ hội, phong tục tập quán, đời sống của con người
với những nét đặc trưng riêng sẽ được hiện lên một cách đầy đủ và sống động trong
tâm hồn bạn đọc. Do đó, văn học địa phương có vai trị vơ cùng quan trọng trong đời
sống tinh thần của người dân địa phương, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bởi vậy, văn học địa
phương càng có vị trí quan trọng trong nhà trường. Đó là nguồn cấp vốn tri thức văn
học địa phương cho học sinh, qua đó khơi gợi trong các em niềm yêu mến, trân trọng
và đam mê, hứng thú, tìm hiểu, khám phá vốn văn học của quê hương, cũng là việc
làm cần kíp nhằm hình thành ở các em lịng u nước, q trọng truyền thống văn
hóa, lịng tự hào dân tộc. Bằng ngơn ngữ giàu cảm xúc và hình ảnh, ngữ liệu văn học
địa phương dễ đi vào thế giới tâm hồn của người học, nhen lên trong đối tượng này
những tình cảm trong sáng, nhân hậu, làm cho các em thêm tin yêu cuộc đời, ước mơ
đi đến những miền đất thanh bình, giàu đẹp, từ đó hình thành ý thức phấn đấu học
tập để trở thành chủ nhân tương lai của đất nước. Việc khám phá những địa danh
thông qua các bài thơ mang đến cho các em những tri thức mới, không khô khan mà
nhẹ nhàng, thú vị nhờ được chuyển tải bằng những hình ảnh thấm đẫm chất thơ.
Thơng qua những tác phẩm văn học địa phương, những truyền thống văn hóa của dân
tộc dễ đi vào tâm hồn tình cảm của học sinh, góp phần hồn thiện nhân cách.
Trong Đề án Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thơng của

chính phủ (tháng 10/2014) đã chỉ ra những bài học kinh nghiệm, những hạn chế của
chương trình giáo dục hiện hành là: “Một trong những hạn chế cơ bản của chương
trình hiện hành là chưa giải quyết hài hịa giữa yêu cầu và điều kiện chung của toàn
quốc với yêu cầu và điều kiện riêng của mỗi địa phương, nhà trường”…Điều này dẫn
đến “chưa khuyến khích được sự tự chủ, tính năng động, sáng tạo của các địa
phương, cơ sở giáo dục; chưa phát huy được sở trường của mỗi học sinh”. [10]. Ý
thức được điều đó, trong định hướng đổi mới giáo dục hiện nay, chương trình giáo
dục đã có tính mở và chú trọng đến tính vùng, miền và đặc thù của địa phương. Cụ
thể, đề án cũng chỉ rõ: một trong những vấn đề cơ bản trong nội dung đổi mới chương
trình sách giáo khoa của chính phủ là: “Quản lý q trình xây dựng và thực hiện
chương trình đảm bảo tính khả thi, linh hoạt, phù hợp địa phương và đối tượng học
sinh”. [10].

9


Theo định hướng của Bộ GD-ĐT, giáo dục địa phương đang dần được khẳng
định vị thế khi một số môn KHXH đã gắn liền với văn chương, lịch sử, địa lý tại nơi
người học sinh sống và cư trú. Theo dịng chảy của tri thức, giáo dục địa phương
đang tìm về cội nguồn phát tích những tinh hoa quý báu mà một vùng đất đã lưu giữ
từ mấy trăm năm về trước.
Ngày 26 tháng 12 năm 2018, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành
Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT, kèm theo đó là chương trình Giáo dục phổ thơngchương trình tổng thể. Trong chương trình giáo dục ban hành, trong kế hoạch giáo
dục của cấp THCS, THPT có nội dung giáo dục địa phương là 35 tiết, và Tiếng dân
tộc thiểu số( tự chọn) là 105 tiết ở tất cả các lớp từ lớp 6 đến lớp 12.
Chương trình giáo dục phổ thơng thực hiện mục tiêu giáo dục hình thành, phát
triển phẩm chất và năng lực cho học sinh thông qua các nội dung giáo dục ngôn ngữ
và văn học, giáo dục toán học, giáo dục khoa học xã hội, giáo dục khoa học tự nhiên,
giáo dục công nghệ, giáo dục tin học, giáo dục công dân, giáo dục quốc phòng và an
ninh, giáo dục nghệ thuật, giáo dục thể chất, giáo dục hướng nghiệp. Trong giáo dục

ngơn ngữ và văn học thì giáo dục ngơn ngữ được thực hiện ở tất cả các mơn học,
trong đó môn Ngữ văn, ngoại ngữ và tiếng dân tộc thiểu số giữ vai trò chủ đao. Còn
giáo dục văn học thì chủ yếu thơng qua mơn Ngữ văn, trong đó có các tác phẩm văn
học trong chương trình giáo dục địa phương.
Như vậy là, trong chương trình đổi mới tới đây, vai trị của văn học địa phương
là vơ cùng quan trọng. Các tác phẩm văn học sẽ là một phần không thể thiếu trong
nội dung giáo dục địa phương, đồng thời, các tác phẩm song ngữ hoặc được viết bằng
tiếng dân tộc sẽ là những ngữ liệu quan trọng để dạy tiếng dân tộc cho học sinh.
Văn học địa phương có những đặc trưng riêng. Bởi vây, việc dạy học văn học
địa phương cần chú đến đến các đặc trưng đó.
Văn học địa phương gắn với một “vùng văn hóa” cụ thể, mang đặc điểm tự
nhiên, xã hội đặc trưng mang tính vùng miền. Thơng qua các tác phẩm văn học, cần
cho học sinh thấy được nét riêng, độc đáo của vùng đất mình, quê hương mình. Đến
với vùng đất phương Nam là đến với thiên nhiên hoang vu, khắc nghiệt. Đó là vùng
đất mà trước đây cha ơng ta đã dày công khai phá, để ngày nay trở thành vùng văn

10


hóa sơng nước đậm tình người, với rất nhiều sản vật. Đây cũng là vùng đất của nhiều
câu dân ca, điệu hị mang đậm tính bản địa. Con người phương Nam bộc trực nghĩa
khí, sống phóng khống, cởi mở, tình nghĩa, thủy chung. Đến với các tỉnh miền núi
phía Bắc là đến với vùng đất có địa hình đồi núi, giao thơng khó khăn, dân cư thưa
thớt. Trước đây, các dân tộc nơi đây sống thành làng, bản, nhà ở là nhà sàn. Đây là
vùng đất có tài nguyên thiên nhiên đa dạng, có văn hóa rất độc đáo, đa dạng của
nhiều dân tộc khác nhau. Con người miền núi mộc mạc, giản dị, cuộc sống vật chất
nhiều khó khăn, vất vả, nhưng đời sống tinh thần phong phú với những lễ hội, phong
tục, làn dân ca mang đậm màu sắc văn hóa... Dạy văn học địa phương, giáo viên phải
giúp học sinh thấy được nét riêng, đặc trưng của mỗi vùng đất, mỗi miền quê.
Văn học địa phương mang đậm yếu tố văn hóa mang tính bản địa. Đặc trưng

này chính là yếu tố để phân biệt văn học địa phương này với văn học địa phương
khác. Bởi vậy, khi giảng dạy, cũng cần chú ý yếu tố bản địa như yếu tố lịch sử, văn
hóa bản địa. Cùng trong vùng văn hóa Việt Bắc, nhưng mỗi tỉnh sẽ có lịch sử hình
thành khác nhau, đời sống văn hóa, vật chất tinh thần cũng không giống nhau. Cùng
là dân tộc Tày, nhưng ngôn ngữ Tày, nếp sống sinh hoạt, đời sống tâm linh của người
Tày định cư ở mỗi địa phương có những điểm khác biệt. Việc giảng dạy văn học địa
phương gắn với yếu tố bản địa sẽ giúp học sinh thấy được nét đặc trưng của văn học
dân tộc văn hóa dân tộc, góp phần hình thành lịng tự hào dân tộc, tình u đối với
q hương làng bản. Hơn nữa để các yếu tố văn hóa thấm vào tâm hồn thế hệ trẻ, dạy
học văn học địa phương cần chú ý đến hoạt động trải nghiệm. Chỉ khi được trực tiếp
được trải nghiệm được tham gia vào các lễ hội, được cất lên các làn điệu sli, lượn,
trong khơng khí của mùa xn mới cảm nhận được đầy đủ ý nghĩa của lễ hội, của
từng lời hát; Chỉ khi được nghe “pả me” cất lên lời dặn dị cơ dâu trong các đám cưới,
thì chúng ta mới hiểu được tấm lòng bao la của cha mẹ như thế nào? Và hiểu rằng khi
đã lấy chồng phải sống sao cho đúng đạo dâu con. Chỉ khi được quan sát một lễ giải
hạn thì mới có thể hiểu tại sao phải “Vượt biển” (Khảm hải). Khi được sống trong
khơng gian văn hóa, thì văn hóa sẽ đi vào tâm hồn một cách tự nhiên. Khi đó, khơng
cần một lời giáo huấn nào cả những truyền thống tốt đẹp, những đạo lí con người dễ
dàng khi đã đi vào trong tâm thức của con người.

11


1.2. Khái quát văn học địa phƣơng Bắc Kạn
1.2.1. Vài nét về điều kiện địa lý, xã hội tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi nằm ở phía Đơng Bắc Việt Nam với diện tích
4.859,41km2. Là trung tâm của vùng Việt Bắc, Bắc Kạn là nơi trung chuyển và giao
lưu kinh tế giữa các tỉnh đồng bằng và miền núi phía Đơng Bắc.
Với địa hình là miền núi cao, Bắc Kạn nằm hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới
khu vực gió mùa Đơng Nam Á. Đây là nơi có mạng lưới sơng, suối dày đặc, nơi khởi

nguồn của câu ca: “Bắc Kạn có suối đãi vàng/ Có hồ Ba Bể có nàng áo xanh”. Dù là
tỉnh miền núi còn nghèo, nhưng Bắc Kạn là một vùng được thiên nhiên ưu đãi với
nhiều tài nguyên khoáng sản, tài nguyên sinh vật.
Bắc Kạn có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống từ lâu đời: Tày, Nùng, Dao,
Mông, Hoa, Cao Lan, Sán Chí… trong đó dân tộc Tày chiếm số đông. Đồng bào Tày,
Nùng, Kinh, Hoa thường sống tập trung thành làng, bản ở những vùng đồi thấp, ven
trục đường chính và các huyện lỵ, tỉnh lỵ. Các dân tộc Dao, Mơng, Cao Lan, Sán
Chí… thường sống phân tán ở vùng núi cao. Nhiều giá trị văn hóa vật chất trong các
cộng đồng Bắc Kạn vẫn còn được bảo lưu: như nếp nhà sàn truyền thống, trang phục
các dân tộc. Đặc biệt là kho tàng văn hóa dân gian của đồng bào các dân tộc Bắc Kạn
rất phong phú từ các câu thành ngữ, tục ngữ, truyện cổ tích, phuối rọi đến các loại
hình dân ca. Lễ hội “lồng tơng” vào mùa xuân với ý nghĩa cầu mùa là hình thức sinh
hoạt văn hóa dân gian độc đáo. Hội xuống đồng ở hồ Ba Bể, Đông Viên( Chợ Đồn),
Đào Lâm(Bạch Thông)… nổi tiếng khắp cả vùng Việt Bắc. Lễ hội là để cúng thần
nông và các vị thần linh cầu cho mưa thuận gió hịa, mùa màng tươi tốt, đây cịn là
nơi sinh hoạt văn hóa cộng đồng với nhiều trò chơi dân gian như tung còn, kéo co,
đấu vật, múa lân…Trong kho tàng văn hóa dân gian của đồng bào các dân tộc Bắc
Kạn không thể không nhắc đến hát Páo dung của người Dao, múa khèn của người
Mông; hát sli, hát lượn của người Tày- Nùng. Nổi bật nhất của văn hóa Bắc Kạn
chính là nghệ thuật hát then- đàn tính một loại hình văn hóa mang nét đặc trưng của
dân tộc Tày miền núi phía Bắc.
Trải qua quá trình lịch sử cùng sinh sống trên mảnh đất Bắc Kạn, nhân dân nơi
đây đã tạo nên những giá trị văn hóa mang đặc trưng dân tộc, làm phong phú thêm

12


văn hóa của cộng đồng dân cư. Đó chính là cơ sở hình thành, tạo dựng truyền thống
đồn kết, kiên cường, bất khuất của nhân dân.
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của văn học Bắc Kạn

Văn học Bắc Kạn được manh nha từ trước Cách mạng tháng Tám. Đó là những
sáng tác được tồn tại dưới loại hình dân gian do các tri thức làm nghề thầy mo, thầy
tao, then, pụt sáng tác. Những sáng tác trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu là thơ
lượn Tày 7 chữ, những bài thơ đó phổ biến trong dân gian.
Văn học Bắc Kạn thực sự được hình thành từ Cách mạng tháng Tám năm 1945,
sau đó phát triển và trở thành một bộ phận không thể thiếu của văn học thiểu số Việt
Nam. Quá trình hình thành văn học Bắc Kạn có thể chia làm 4 giai đoạn:
1.2.2.1. Giai đoạn 1945- 1964
Đây là giai đoạn mà cách mạng Việt Nam thực hiện nhiệm vụ kháng chiến
chống thực dân Pháp, sau đó miền Bắc đi vào thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội,
miền Nam tiếp tục đấu tranh thống nhất đất nước. Là mảnh đất giàu truyền thống
cách mạng, trong kháng chiến chống Pháp, Bắc Kạn được chọn là khu an toàn, là căn
cứ địa cách mạng, là hậu phương vững chắc trong 2 cuộc kháng chiến, là mảnh đất
ghi dấu nhiều chiến công lịch sử.
Để thực hiện nhiệm vụ lịch sử đó có sự đóng góp khơng nhỏ của các nhà văn
nhà thơ. Trong giai đoạn này, các nhà văn, nhà thơ đã gắn ngịi bút của mình vào
cách mạng và cuộc đấu tranh của nhân dân. Chủ đề nổi bật trong các sáng tác thơ văn
lúc bấy giờ tập trung vào công cuộc chiến đấu bảo vệ làng bản, bảo vệ quê hương đất
nước và cuộc sống lao động sản xuất để bảo đảm đời sống, làm hậu phương vững
mạnh cho tiền tuyến. Tuy nhiên, lực lượng sáng tác của ta thời kì này cịn ít, chủ yếu
là sáng tác thơ với các cây bút tiêu biểu: Nông Quốc Chấn với các tập thơ: Việt Bắc
đánh giặc(Trường ca tiếng Tày 1948), Pây Bá Linh mà (Đi Berlin về- Thơ ký sự
tiếng Tày 1951), Tiếng ca người Việt Bắc(1959), Tiểng lượn cần Việt Bắc- Thơ
tiếng Tày 1960, Cần phja Bjoóc - truyện thơ tiếng Tày 1961; Nông Minh Châu với
tập thơ “Tung còn và suối đàn” 1963(in chung với Triều Ân), Nơng Viết Toại với
tập “Hại lóa vứt pây”(1956). Những tác giả này có thể nói là những người đặt nền
móng cho văn học Bắc Kạn. Đặc biệt đáng chú ý năm 1958, Nơng Minh Châu đã có
sáng tác bằng văn xuôi đầu tiên với truyện ngắn “Ché Mèn được đi họp”. Sau đó là

13



các truyện ngắn: Chiếc thắt lưng vải chàm, Chuyện nhà anh Thượng, tiểu thuyết
“Muối lên rừng”(1964).
Thơ ca thời kì đầu của các tác giả Bắc Kạn giai đoạn này chủ yếu phản ánh
những hiện thực của cuộc sống, kháng chiến bằng cách cảm, cách nghĩ của người dân
tộc và chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn học dân gian và văn hóa Tày, đặc biệt là lượn
phong slư. Nhiều bài mang tính chất “diễn ca tuyên tuyền cách mạng”, hướng về
cơng tác tun truyền, cổ động chưa đề cao tính nghệ thuật.
1.2.2.2. Giai đoạn 1964- 1986
Đây là giai đoạn nhân dân ta tiếp tục công cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nước. Cách mạng Việt Nam thực hiện 2 nhiệm vụ: đấu tranh giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước và tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm hậu
phương vững chắc cho tiền tuyến miền Nam. Tại địa phương, cũng có một sự kiện
lịch sử qua trọng: năm 1965 Bắc Kạn sát nhập với tỉnh Thái Nguyên thành Bắc Thái.
Đây là cơ hội để các tác giả của Bắc Kạn có điều kiện được cọ sát, học hỏi.
Văn học Bắc Kạn giai đoạn này đã thực hiện tốt nhiệm vụ lao động sản xuất,
chống lại chính sách chia rẽ dân tộc của đế quốc Mỹ, bảo vệ những giá trị văn hóa
của dân tộc, ca ngợi đời sống mới, làm hậu phương miền núi vững mạnh.
Giai đoạn này đội ngũ sáng tác của văn học Bắc Kạn được bổ sung đông đảo
hơn. Các cây bút của giai đoạn trước vẫn tiếp tục sáng tác và bước vào thời kì sung
sức và chín muồi với rất nhiều tác phẩm có giá trị.
Nơng Quốc Chấn vẫn khẳng định sức sáng tạo mạnh mẽ của mình qua những
tác phẩm thơ như: Đèo gió (1968), Dám kha Pác Bó- Bước chân Pác Bó (1971),
Dịng thác (1977), Bài thơ Pác Bó(1982), Suối và biển (1984); Bên cạnh đó, Nơng
Quốc Chấn cịn có các tập tiểu luận- phê bình: Đường ta đi (1970), Một vườn hoa
nhiều hương sắc (1977), Chặng đường mới (1985), Dân tộc và văn hóa (1985).
Vẫn tiếp tục là những lời ca hòa nhịp với thiên nhiên, cổ vũ công cuộc chiến
đấu chống Mỹ của nhân dân miền Nam, Nông Minh Châu đã đề lại những vần thơ cổ
vũ chiến đấu: “Anh bạn Tây Nguyên ơi/ Thơ tôi đến giữa lúc vai anh nặng đạn/ hay

đang phá ấp, nhổ rao làng/ Hay công đồn diệt lũ ác ôn/ Hay đang băng xe trên
đường mười bốn”; đồng thời cũng khẳng định nhiệm vụ của hậu phương Việt Bắc:
“Bà con Việt Bắc mấy hôm nay/ Không nghỉ búa đe, không nghỉ cuốc cày”[6,tr.126].

14


Cùng với thơ ca, Nông Minh Châu tiếp tục khẳng định sở trường sáng tác của
mình trong thể loại văn xuôi.Năm 1979, tập truyện và ký “tiếng chim gô” của ông
được xuất bản. Văn xuôi của ông đã phản ánh cuộc sống cơ cực của nhân dân, những
âm mưu thâm độc của kẻ thù, tình cảm của người dân đối với Bác. Các tác phẩm tiêu
biểu: Chuyện nhà ông Phúc, Mẹ con chị Nải, Chiếc ảnh treo nhà, Nhắn về bản…Năm
1967 ơng cịn có truyện thơ “Cưa khửn đơng” được viết bằng tiếng Tày.
Nơng Viết Toại sử dụng ngịi bút của mình để tuyên truyền phục vụ kháng
chiến, cổ vũ tinh thần chiến đấu của nhân dân. Đặc biệt là hình ảnh người lính cụ HồNhững con người đã sống, đã cống hiến và hi sinh thầm lặng.
Với tình yêu quê hương đất nước và tiếng mẹ đẻ nên nhà văn Nơng Viết Toại
đã hướng sâu ngịi bút của mình vào việc sáng tác những tác phẩm có giá trị về cuộc
sống, con người miền núi qua những phong tục tập quán và những nếp sinh hoạt văn
hóa tinh thần của đồng bào dân tộc Tày bằng chính tiếng mẹ đẻ, đồng thời cũng là để
lưu giữ những giá trị bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Giai đoạn này ơng có tập thơ
“Đét chang nâư” (Nắng ban trưa, thơ, tiếng Tày, 1976), và tập truyện “Đoạn đường
ngoặt” (truyện ngắn, dịch từ tiếng Tày, tập Boỏng tàng tập éo, 1982). “Boỏng tàng
tập éo”, nói theo cách của người Tày nghĩa là Khúc đường cong, đoạn đường khúc
khuỷu, đoạn đường ngoặt. Ơng nói rằng: “Nếu khơng có cái khác thường, cái ngoặt
đó, cuộc đời ơng đã khơng có ngày hơm nay”. Đó là câu chuyện nói về chính cuộc
đời của tác giả, con đường, quyết định, sự lựa chọn con đường đi của chính Chàng
trai trẻ Nơng Đình Hân.
Cùng với các tác giả thời kì trước, thời kì này xuất hiện thêm nhiều cây bút trẻ
nhưng cũng đầy nhiệt huyết như: Triệu Kim Văn, Triệu Sinh, Văn Lợi, Bế Sĩ
Uông, Triệu Đức Xuân, Hoằng Hóa, Quách Đặng Thơ, Lương Hiệu, Ngọc Hân, Đinh

Hữu Hoan, Ma Kim Ly…
Triệu Kim Văn là gương mặt thơ dân tộc Dao tiêu biểu. Ông sáng tác văn
chương từ rất sớm, khi ông bắt đầu đi học chữ. Ông say mê văn chương từ những câu
chuyện kể dân gian của mẹ, của chị về làng Dao. Năm 1970, ơng có thơ đăng trên báo
“Việt Nam độc lập” với bài “Nhớ Bác ta trồng nhiều cây”. Từ đó, ơng say mê sáng
tác và cho ra đời rất nhiều đứa con tinh thần của mình. Tuy nhiên, trong giai đoạn
này, ơng chưa có tập thơ nào được xuất bản.

15


Nhà thơ Triệu Sinh- người con của núi rừng Ba Bể đã dành những tình cảm của
người con với quê hương Ba Bể của mình. Ơng đã được giải Ba cuộc thi thơ do Hội
văn nghệ Khu tự trị Việt Bắc tổ chức. Mặc dù sáng tác nhiều nhưng giai đoạn
này ông cũng chỉ xuất bản tập truyện thơ tiếng Tày “Bác Hồ slương dân cháu
nước”. Ngoài ra, giao đoạn này, tác giả Văn Lợi cịn có tập truyện và ký “ hạt
giống đỏ” (1970).
1.2.2.3. Giai đoạn 1986 - 1997
Đất nước ta bước vào thời kì đổi mới, chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị
trường, văn hóa cũng có điều kiện được tiếp xúc rộng rãi với nhiều nước trên thế giới,
văn học cũng phải đổi mới cho phù hợp với quy luật phát triển khách quan.
Công cuộc đổi mới đã tác động đến văn học các dân tộc thiểu số, khiến cho các
nhà văn, nhà thơ dân tộc núi chung, văn học Bắc Kạn nói riêng như được thổi luồng
gió mới.
Các nhà văn của giai đoạn văn học trước vẫn đang ở thời kì sung sức sáng tác
và sáng tác họ có cả đề tài cũ nhưng họ đã khám phá, có cách thể hiện mới, đồng thời
hướng tới khai thác con người cá nhân, đặc biệt là đề tài tình u. Bên cạnh đó, xuất
hiện thêm những tác giả mới. Các tác giả tiêu biểu thời kì này có thể kể đến: Đặng
Phúc Lường, Nguyễn Văn Lợi, Triệu Sinh, Hoàng Thị Điềm, Lường Văn Thắng, Hạ
Văn Hử, Vũ Cẩm Linh…

Giai đoạn này, người con của dân tộc Dao Triệu Kim Văn đã cho xuất bản 2 tập
thơ Hoa núi(1989), Mùa sa nhân(1994). Những sáng tác của ông đã góp phần làm
phong đời sống thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam. Đặc biệt, thơ ơng góp phần
quan trọng trong việc bảo tồn, phát huy tinh hoa bản sắc văn hóa Dao.
Tác phẩm của ơng miêu tả sinh động phong tục tập quán và cuộc sống đời
thường của người Dao như cảnh mùa xuân trên bản dao, phong tục người Dao trong
Tết Nguyên Đán, tết Thanh minh, Lễ hội mừng cơm mới …, phản ánh chân thực đời
sống tâm linh của người Dao: thờ cúng, tin vào cõi linh thiêng…, phê phán tệ nạn mê
tín dị đoan, tệ nạn lợi dụng tôn giáo để kết bè phái làm việc xấu, …Thơ ơng cịn thể
hiện những suy tư về con người và cuộc sống, tiếng nói tha thiết với quê hương,
nguồn cội.

16


Sự xuất hiện của người con đến từ bản Hon Dương Thuấn trong giai đoạn này
đã đóng góp thêm cho văn học tỉnh nhà một cây bút giàu sức sáng tạo. Trong 7 năm,
ông đã xuất bản 6 tập thơ văn: Cưỡi ngựa đi săn (1991), Đi tìm bóng núi (1993), Đi
ngược mặt trời (1995), Lục pjạ hết lùa (Con côi làm dâu - Tập thơ bằng tiếng Tày 1995), Bài học mùa hè (tập truyện, 1996), Bà lão và chích chịe (1997).
1.2.2.4. Giai đoạn từ 1997 đến nay
Năm 1997, Bắc Kạn tái thành lập tỉnh. Ngay trong năm đó, Hội VHNT tỉnh
được thành lập. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, in ấn sự
giao lưu văn hóa trở nên dễ dàng hơn rất nhiều đã tạo điều kiện cho nhiều nhà văn,
nhà thơ trẻ Bắc Kạn có cơ hội thử sức mình trong sáng tạo nghệ thuật. Quả thật, giai
đoạn này văn học Bắc Kạn có sự tham gia các các cây bút ở nhiều lứa tuổi khác nhau.
Có thể kể đến các cây bút của thế hệ đi trước Hoằng Hóa, Nơng Viết Toại, Triệu Hữu
Định, Triệu Sinh, Triệu Kim Văn, Bàn Văn Vình, Nơng Văn Kim, Triệu Đức Xn,
Ma Kim Ly,…tiếp đến là các cây bút trẻ hơn như Dương Thuấn, Ma Phương Tân,
Lương Văn Hiệu, Hà Văn Roanh, Dương Khau Luông, Hoàng Thị Điềm…Hiện nay,
một loạt các tác giả tuổi đời còn rất trẻ đã tham gia vào đời sống văn học và nhiều tác

giả được bạn đọc đón nhận. Có thể kể đến các cây bút trẻ như: Nông Thị Tơ Hường,
Nhật Lam, Hồng Chiến Thắng, Hà Sương Thu, Muồng Thị Hoàng Yến, Phùng Thị
Hương Ly…
Sự tham gia của nhiều cây bút ở nhiều lứa tuổi khác nhau đã khiến cho văn học
Bắc Kạn hiện nay có nội dung vơ cùng phong phú ở nhiều thể loại khác nhau, làm
cho bức tranh văn học Bắc Kạn đa màu, có sự kết hợp cái xưa- cái nay, truyền thống
và hiện đại.
1.2.3. Thành tựu và hạn chế của các thể loại
1.2.3.1 Thể loại thơ
Với ưu thế của một thể loại có thể sáng tác bất cứ lúc nào và trong không gian
nào, dễ đến với độc giả, nhanh chóng phục vụ cho nhiệm vụ tuyên truyền, như một
điều tất yếu thơ là thể loại ưu tiên hơn cả.
Trước 1957, thơ là thể loại duy nhất, sau đó dù có sự xuất hiện của các thể loại
khác nhưng thơ vẫn đứng đầu về số lượng tác phẩm và tác giả. Thế hệ thứ nhất phải
kể đến 3 anh em họ Nông và tác giả Hồng Hóa. Nơng Quốc Chấn có đến 7 tập thơ, 1

17


truyện thơ, 1 tập ký sự bằng thơ, 1 trường ca. Nông Minh Châu sáng tác rất nhiều thơ,
tuy nhiên chỉ tập hợp được một số ít bài in chung với Triều Ân trong “Tung còn và
suối hoa”và 1 tập truyện thơ tiếng Tày “Cưa khửn đông”. Nông Viết Toại có 4 tập
thơ Tày. Những nhà thơ kế tiếp thế hệ 3 anh em họ Nông thuộc thế hệ thứ 2 gồm
Triệu Sinh với 2 tập thơ song ngữ Tày: Nặm mường Ba Bể, Chập căn tềnh kéo điếp,
1 truyện thơ Tày Bác Hồ slương dân cháu nước, Triệu Kim Văn với 9 tập thơ,
Nguyễn Văn Lợi với tập Khúc ca áo chàm, Hát trên đất cằn, Nơi ấy lời ru, Đặng
Phúc Lường với tập Nhớ rừng(tập thơ song ngữ), Triệu Đức Xuân với Hai bờ dòng
chảy, Tre và măng, rồi các nhà Hạ Đông, Nguyễn Ngọc Hân, Ma Kim Ly, Hà Hữu
Nghị, Bàn Văn Vình… đều có những giải thưởng về thơ.
Thế hệ thứ 3 có các nhà thơ Đinh Hữu Hoan với các tập: Sắc chàm, Khảm thu

(Thơ song ngữ), Dương Khau Lng có 5 tập thơ cả tiếng Tày và tiếng Việt, Ma
Phương Tân với Tiểng roọng tềnh nhọt pù, Quách Đặng Thơ với Thương nhớ
người ơi, Thoảng giữa đại ngàn, và một loạt các nhà thơ để lại dấu ấn như Hoàng
Thị Điềm, Hoàng Đức Hoan, Lương Văn Hiệu, Hà Văn Roanh… Đặc biệt, nhà thơ
Dương Thuấn- nhà thơ của bản Hon đã có một sức sạo tạo vơ mãnh liệt. Ơng có gần
20 tập thơ bao gồm thơ Tày, song ngữ Tày- Việt, Thơ bằng tiếng Việt.“Với Tuyển tập
thơ Dương Thuấn ông đã xác lập hai kỉ lục Guinness là sáng tác song ngữ Tày- Kinh
(Việt) đầu tiên và là bộ tuyển tập thơ dày nhất Việt Nam” (Dương Thuấn- sứ giả
truyền bá văn hóa Tày- Phan Diệu Hương).
Lớp thế hệ các nhà thơ trẻ hiện nay cũng là lực lượng kế cận, nối tiếp và phát
triển văn học các dân tộc thiểu số Bắc Kạn. Họ công tác ở những lĩnh vực khác nhau
nhưng có tâm hồn yêu văn chương. Có thể kể đến những tác giả: Nơng Thị Tơ
Hường, Hồng Chiến Thắng, Hồng Yến, Sương Thu, Phùng Thị Hương Ly… Có
những tác giả đã định hình phong cách và cho xuất bản khá nhiều tập thơ như Nơng
Thị Tơ Hường, Hồng Chiến Thắng, nhưng cũng còn những tác giả đang trên đường
khẳng định phong cách thơ của mình.
Thành tựu lớn nhất của thơ ca Bắc Kạn là đã thực hiện được sứ mệnh phục vụ
nhiệm vụ chính trị, bám sát thời cuộc với những thay đổi mới mẻ của sự vận động
cách mạng. Đặc biệt nhất là nhiệm vụ đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược. Trong 2 cuộc kháng chiến, tất cả mọi nhiệm vụ kháng chiến, cung bậc tình

18


cảm con người đã được các nhà thơ đề cập. Ở đó có cả niềm vui sướng, hân hoan khi
đón bộ đội cụ Hồ: “Bộ đội đến kìa!/ A lúi! Những người là người/ Đeo súng ngắn,
súng dài, súng dóp/ Hoan hô! Hoan hô”[3,tr.35]. Rồi cả nỗi đau khi các đồng chí,
đồng đội hi sinh: Bỗng đâu như sét đánh ngang tai/ Đồng chí của ta đã mất rồi!/
Giặc cắt lấy đầu bêu các chợ, đồng bào đau xót hận trào sôi”[3,tr.14]. Viết về sự
kiện lịch sử mà không hề khơ khan, có những vần thơ thật cảm động rơi nước mắt khi

nhắn gửi mẹ sau đình chiến 1954: “Mẹ ơi cầm vạt áo/ Lau hết nước mắt trên mi/
Nghĩ lại tám năm qua/ Mi lại trào ra nước mắt” [7,tr.370]. Trong những năm kháng
chiến chống Mỹ, những vần thơ đánh Mỹ lại vang lên: Anh dân quân ngồi mài dao bê
suối/ Dao, dá mịn mà lịng đánh Mỹ khơng mòn/ Anh nghe tin Tây Nguyên và miền
Nam/ Quân dân tổng tấn công Mỹ - Ngụy [7,tr.454].
Một thành tựu nữa không thể không nhắc tới là Thơ Bắc Kạn đã góp phần quan
trọng trong việc bảo tồn phát huy tinh hoa, bản sắc văn hóa dân tộc. Hình ảnh thiên
nhiên, con người miền núi với cuộc sống lao động, chiến đấu, với đời sống văn hóa
tinh thần phong phú, với các phong tục, tập quán lâu đời vẫn được giữ gìn.
Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên thật nên thơ, có phong cảnh hữu tình, giàu tài
ngun khống sản, chỉ nghe thơi mà say đắm lịng người: Em ơi Việt Bắc đẹp giàu/
Núi rừng trùng điệp muôn màu cỏ hoa/ Trên Phja Dạ mây mù buông chướng/ Dưới
đất kia: sắt/ quặng, bạc, vàng/ Đi thuyền Ba Bể dọc ngang/ Xem người đánh cá, xem
nàng hái ngơ” [6,tr.45].
Cịn con người Việt Bắc bình dị dân dã, chịu thương chịu khó, ln gắn lao
động sản xuất với nhiệm vụ chiến đấu và không quên nhiệm vụ của một hậu phương
với tiền tuyến: “Bà con Việt Bắc hôm nay/ Không nghỉ búa đe, không nghỉ luống cày/
Đạn vẫn lên nòng sung vẫn tỳ bệ bắn/ Quyết cùng Tây Nguyên dàn thành mặt trận/
Để quân thù biết được nghĩa anh em” [6,tr.126].
Đến với dân tộc Tày có biết bao phong tục tập quán tốt đẹp, một trong những
phong tục đẹp đó là thăm mẹ vợ mà tiếng Tày gọi là “Chầư tái”. Phong tục này cho
nay vẫn được gìn giữ như một lời nhắc nhở những người con rể hãy nhớ công lao
sinh thành nuôi dưỡng vợ của những người mẹ: “Đã làm con rể trẻ hay già/ Dù ở
gần hay ở xa/ Đến tháng giêng nhớ về thăm mẹ vợ/ Người đã sinh thành nuôi lớn vợ
ta” [42,tr.241]. Đến với Bắc Kạn là đến với vùng đất giàu bản sắc văn hóa. Trong đó

19



×