Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (944.83 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ ÁNH

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ
CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN TỊA ÁN NHÂN DÂN
CẤP HUYỆN, TỈNH THANH HĨA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2021


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ ÁNH

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ
CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN TỊA ÁN NHÂN DÂN
CẤP HUYỆN, TỈNH THANH HĨA

Ngành: Luật Hiến pháp và luật hành chính.
Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


TS. NGUYỄN VĂN CƯỜNG

HÀ NỘI, NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng kết quả nghiên cứu trong luận văn là cơng trình
nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm
tính chính xác, trung thực và khơng trùng lặp với các đề tài nghiên cứu
khách trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thị Ánh


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................... 4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.................................... 4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ............................................. 5
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................. 6
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH
CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC ............................ 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm của ma túy, người nghiện ma túy và biện pháp

xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ........................................ 7
1.2. Sự hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật về áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ..................... 13
1.3. Mục đích, vai trị của áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc ................................................................................ 17
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ........................................................ 18
1.5. Các quy định pháp luật về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ......................................................................... 19
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ....................................................................... 36
Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH
CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN CẤP HUYỆN, TỈNH THANH HÓA .................................... 37
2.1. Đặc điểm tình hình tỉnh Thanh Hóa nói chung và Tịa án nhân dân
cấp huyện trên địa bàn tỉnh nói riêng .............................................................. 37
2.2. Thực trạng người nghiện ma túy, công tác cai nghiện ma túy trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa ......................................................................................... 40
2.3. Thực trạng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa .................. 44
2.4. Đánh giá chung về thực hiện biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc ..................................................................................... 51
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ....................................................................... 65
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN
BẮT BUỘC TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN, TỈNH THANH
HÓA ................................................................................................................ 66


3.1. Quan điểm áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc từ thực tiễn Tịa án nhân dân cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa ... 66

3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ......................................................................... 67
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân
dân cấp huyện trong áp dụng về biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc ............................................................................................... 73
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ....................................................................... 78
KẾT LUẬN ............................................................................................ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................. 85


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

LĐ-TB&XH: Lao động – Thương binh và xã hội
UBND: Ủy ban Nhân dân
UBMTTQ: Ủy ban mặt trận Tổ quốc
UBTVQH: Ủy ban Thường vụ Quốc hội
TAND: Tịa án nhân dân.
XLHC: Xử lý hành chính.
XLVPHC: Xử lý vi phạm hành chính.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ma tuý đã và đang trở thành hiểm họa lớn của nhân loại. Hậu quả do ma
tuý gây ra rất nghiêm trọng đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, là nguyên
nhân làm phát sinh các loại tội phạm, đe doạ sự ổn định, phồn vinh và sự
trường tồn của mỗi quốc gia, dân tộc. Người nghiện ma túy có hiện tượng trẻ
hóa và khơng ngừng tăng cao, khó kiểm sốt; cơng tác thống kê, quản lý người
nghiện ma tuý còn thiếu chặt chẽ; chất lượng cai nghiện còn nhiều hạn chế...
Để hạn chế những ảnh hưởng của ma túy đến cuộc sống, xã hội thì yêu cầu

bắt buộc là những người nghiện ma túy sau khi đã được cai nghiện tại cộng
đồng, gia đình hoặc người nghiện ma túy khơng có nơi cư trú ổn định sẽ được
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một trong 04 biện pháp
xử lý VPHC được quy định trong Luật XLVPHC năm 2012 (có hiệu lực từ
ngày 01/7/2013), được áp dụng với người nghiện ma túy, với mục đích là
bắt buộc cai nghiện, để chữa bệnh giúp người bị nghiện lao động, học nghề,
học văn hóa dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt buộc, giúp họ sớm hòa
nhập cộng đồng.
Theo thống kê của Bộ Cơng an, tính đến tháng 12/2020, cả nước có trên
235.000 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, tổng số học viên đang được
cai nghiện tại các cơ sở cai nghiện là 93.724 người (trong đó có 31.480 người
đang cai nghiện bắt buộc theo quyết định của Tòa án, 3.845 người nghiện
đang chờ lập hồ sơ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc); cả nước hiện có 113
cơ sở cai nghiện (trong đó 97 cơ sở cơng lập và 16 cơ sở ngồi cơng lập).
TAND là một trong những chủ thể có thẩm quyền triển khai các biện pháp
phịng, chống ma túy, trong đó có việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Theo Báo cáo của TAND tối cao,

1


sau khi Luật XLVPHC có hiệu lực, từ năm 2016 - 2020, TAND cấp huyện đã
giải quyết 113.235/113.251 (đạt tỷ lệ 99,9%) hồ sơ đề nghị áp dụng các biện
pháp XLHC (trong năm 2020, TAND cấp huyện đã giải quyết 27.635/27.651
hồ sơ); TAND cấp tỉnh đã giải quyết 100% khiếu nại đối với quyết định của
TAND cấp huyện về áp dụng các biện pháp XLHC [31, tr7].
Tuy nhiên, thực tiễn trong thời gian qua cịn nhiều khó khăn, vướng mắc,
nhất là các văn bản quy định, hướng dẫn về trình tự, thủ tục, hồ sơ, quá trình
xem xét, giải quyết tại Tịa án … Do đó, q trình áp dụng biện pháp đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc đã bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót, chưa phù hợp
với thực tiễn cần phải có sự tháo gỡ, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật sát
với thực tiễn, bảo đảm quyền con người, quyền tự do và tính công khai, dân
chủ, minh bạch, công bằng.
Xuất phát từ thực tiễn cũng như yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta
trong thời gian tới, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, chỉ ra những điểm
thiếu đồng bộ, chưa hợp lý, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
việc áp dụng biện pháp XLVPHC là hết sức cần thiết. Kết quả việc TAND
áp dụng biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có thể rút
ra những kinh nghiệm tốt cho cuộc đấu tranh phòng, chống ma túy; đồng
thời những hạn chế của quá trình này có thể là những bài học và đặt ra
những vấn đề cần giải quyết trên phương diện pháp lý. Chính vì vậy, học
viên lựa chọn nghiên cứu đề tài luận văn: “Áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn Tịa án nhân dân
cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài này có một số cơng trình nghiên cứu nổi bật sau:
Luận văn thạc sĩ “Biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” (năm 2017) của tác giả Lê Thị Lan
Phương, bảo vệ thành công tại Học viện khoa học xã hội. Đây là đề tài có tính
2


khái quát cao, phân tích được bản chất của vấn đề áp dụng biện pháp đưa
người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng
và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện biện pháp. Tuy nhiên,
luận văn chưa đi sâu vào nghiên cứu những vướng mắc về quy định pháp luật
khi các cơ quan thực hiện hoạt động áp dụng pháp luật đối với biện pháp trên.
Luận văn thạc sĩ “Từ biện pháp XLHC đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” năm 2012 của tác giả Phạm Tiến

Thành tại Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội. Tác giả đã làm rõ được các biện
pháp XLHC; sự cần thiết và chuyển hóa như thế nào từ biện pháp đưa vào cơ
sở chữa bệnh sang đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; tuy nhiên, nội dung của
luận văn chưa nêu lên được điểm nổi bật khi áp dụng biện pháp có phù hợp hay
khơng và các giải pháp để áp dụng biện pháp này có hiệu quả hơn.
Luận văn thạc sĩ “Áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
tại tỉnh Ninh Bình” năm 2020 của tác giả Lưu Hồng Ngọc Hiền tại Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh; đây là luận văn thuộc loại ứng dụng, tác giả đi
sâu vào phân tích các quy định và vướng mắc trong quá trình áp dụng biện
pháp này ở giai đoạn lập hồ sơ và xem xét hồ sơ; luận văn nghiên cứu về các
bất cập của quy định pháp luật nhưng lại chưa đi vào nghiên cứu các yếu tố
khác ảnh hưởng đến quá trình áp dụng biện pháp.
Ngồi ra, cịn một số các đề tài và bài viết trên các tạp chí về vấn đề này.
Các cơng trình nghiên cứu đã cung cấp một lượng kiến thức, thông tin lớn về
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng chưa có đề tài nào nghiên
cứu tổng thể ý luận và thực tiễn về áp dụng biện pháp đưa người nghiện vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn tại TAND cấp huyện nói chung, TAND
cấp huyện tại tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
Tác giả hi vọng, đây sẽ là luận văn có tính khoa học, nghiên cứu một cách
có hệ thống trên cả phương diện lý luận và thực tiễn; góp phần nâng cao hiệu
quả việc thực hiện các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc thuộc thẩm quyền TAND cấp huyện trên phạm vi cả nước; góp phần ngăn
chặn, đẩy lùi tiến tới xây dựng cộng đồng khơng cịn người nghiện ma túy.
3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Đề tài nghiên cứu, làm sáng tỏ vấn đề lý luận, quy phạm
pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do TAND
xem xét, quyết định; chỉ ra những điểm còn thiếu đồng bộ, chưa hợp lý,

những khó khăn trong thực tiễn; từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật.
- Nhiệm vụ
+ Nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận, pháp luật cơ bản trong quá
trình áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
+ Đánh giá đúng thực trạng và việc áp dụng biện pháp đưa người nghiện
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do TAND xem xét, quyết định tại tỉnh Thanh Hóa.
+ Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao
hiệu quả việc áp dụng biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc do TAND xem xét, quyết định cho các địa phương trong cả nước nói
chung và tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc từ thực tiễn TAND cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
tại TAND cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa.
+ Về thời gian: Từ năm 2014 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Với phạm vi nghiên cứu như trên, việc nghiên cứu
và hoàn thành luận văn trước hết dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp.
- Phương pháp nghiên cứu:
4


+ Phương pháp phân tích tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng hầu
hết trong toàn bộ các chương của luận văn và tập trung nhất trong chương 1, 3
trong việc trình bày các khái niệm cơ bản về áp dụng pháp luật đối với áp
dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

+ Phương pháp so sánh, liệt kê: Được sử dụng làm sáng tỏ những khác
biệt của vấn đề từ đó rút ra được những ưu điểm, hạn chế, bất cập, phương
pháp này được sử dụng trong chương 2, 3 nhằm khái quát hóa thực trạng
pháp luật về áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
+ Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Được sử dụng trong việc
hoàn thiện khung pháp lý để việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc hiệu quả hơn, phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở
chương 2.
+ Phương pháp phân tích vụ việc điển hình: Được sử dụng thông qua
việc đưa ra các vụ việc trên thực tế minh chứng cho việc áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thể hiện ở Chương 2 của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về ý nghĩa lý luận: Luận văn làm rõ các vấn đề liên quan đến quá trình
áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do TAND cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa xem xét, quyết định; thơng qua việc dẫn
chứng các quy phạm pháp luật hiện hành quy định về biện pháp này, từ đó
góp phần làm rõ lý luận khoa học cơ sở pháp lý về biện pháp trên; đồng thời
đóng góp một phần nhỏ vào việc hồn thiện khoa học pháp lý chuyên ngành.
- Về ý nghĩa thực tiễn: Luận văn cung cấp các luận điểm có giá trị tham
khảo trong việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật để bảo
đảm việc áp dụng pháp luật đối với biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc hiệu quả hơn; đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo cho các
đối tượng quan tâm đến biện pháp trên.
5


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung và các quy định của pháp luật về

áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh
Thanh Hóa.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC
1.1. Khái niệm, đặc điểm của ma túy, người nghiện ma túy và biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của ma túy và người nghiện ma túy
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của ma túy
Theo định nghĩa của Tổ chức Liên Hợp Quốc: Ma túy được hiểu là “các
chất có nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp, khi xâm nhập vào cơ thể sẽ làm
thay đổi trạng thái tâm sinh lý của người sử dụng”.
Theo Tổ chức Y tế thế giới: Ma túy theo nghĩa rộng nhất là “Mọi thực
thể hoá học hoặc là những thực thể hỗn hợp khác với tất cả những cái được
địi hỏi, để duy trì một sức khoẻ bình thường, việc sử dụng những cái đó sẽ
làm biến đổi chức năng sinh học và có thể cả cấu trúc của vật”.
Theo khái niệm khoa học: Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên
(morphin...); bán tổng hợp (heroin được bán tổng hợp từ morphin) hay tổng
hợp (amphetamine) có tác dụng lên hệ thần kinh trung ương gây cảm giác
như giảm đau, hưng phấn hay cảm thấy dễ chịu... mà khi dùng nhiều lần thì
sẽ phải sử dụng lại nó nếu khơng sẽ rất khó chịu.

Ở Việt Nam khơng có một sự nhất qn chung trong việc sử dụng danh
xưng này cho các chất thuộc loại này. Luật Phòng, chống ma tuý của Việt
Nam được Quốc hội thông qua ngày 09/12/2000 (sửa đổi bổ sung năm 2008),
cũng đưa ra khái niệm ma túy thông qua định nghĩa về chất ma túy là:“Các
chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do
Chính phủ ban hành” [21, 43, Điều 2].
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về ma
tuý theo hướng liệt kê: “Ma tuý bao gồm nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao
7


coca, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, XLR-11,
các chất ma túy khác ở thể rắn hoặc thể lỏng” [26, 42, Điều 2]
Từ những định nghĩa được đưa ra trên đây, có thể khái quát một cách
chung nhất rằng: Ma túy là tên gọi chung của các chất kích thích có nguồn
gốc tự nhiên hoặc nhân tạo, khi đưa vào cơ thể sống, được sử dụng nhiều lần
có thể gây nghiện và sẽ làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý người đó;
nếu lạm dụng ma tuý, con người sẽ lệ thuộc vào nó, khi đó gây tổn thương và
nguy hại cho người sử dụng, cho gia đình và cộng đồng.
1.1.1.2. Khái niệm và dấu hiệu nhận biết người nghiện ma túy
* Khái niệm
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), nghiện ma túy được định nghĩa như
sau: “Nghiện ma tuý là tình trạng lệ thuộc về mặt tâm thần hoặc thể chất
hoặc cả hai khi một người sử dụng ma tuý lặp đi lặp lại theo chu kỳ hoặc
dùng kéo dài liên tục một thứ ma tuý và tình trạng lệ thuộc này làm thay đổi
cách cư xử, bắt buộc đương sự luôn cảm thấy sự bức bách phải dùng ma tuý
để có được những hiệu ứng ma tuý về mặt tâm thần của ma tuý và thoát khỏi
sự khó chịu, vật vã do thiếu ma t. Tình trạng lệ thuộc này có thể kèm theo
hiện tượng quen ma t hoặc khơng và một người có thể bị lệ thuộc vào nhiều
loại ma tuý”.

Dưới góc độ của các nhà xây dựng luật, Luật Phòng, chống ma túy
quy định: “Người nghiện ma túy là người sử dụng chất ma túy, thuốc gây
nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này” [21, 43, Khoản
11, Điều 2].
* Dấu hiệu nhận biết người nghiện ma túy
- Dấu hiệu bất thường của người vừa mới sử dụng Heroin: Sau khi sử
dụng Heroin từ 5 – 10 phút, biểu hiện phổ biến nhất là mắt đỏ và trơng ướt
long lanh, sau đó chuyển qua sụp mi mắt, ngồi tại chỗ, mắt lim dim, gãi chân
tay, vị đầu, bứt tóc… thể hiện rõ nhất trong trường hợp dùng thuốc phiện pha
8


lẫn seduxen. Sau 15 – 20 phút, mắt đỏ ướt, đồng tử teo, giọng nói khàn khàn,
uống nhiều nước lạnh, tâm lý ở trạng thái hưng phấn cao, nói nhiều, cử chỉ
thiếu chính xác. Nếu có tật thì tật thường xuyên xuất hiện ở mức cao như vuốt
mũi, nhổ râu, cắn móng tay… Sau 90 phút, người sử dụng heroin tìm chỗ yên
tĩnh để thưởng thức cơn phê. Lúc này họ nằm như ngủ, nhưng không ngủ, lại
hút nhiều thuốc lá, tàn thuốc vung vãi...
- Dấu hiệu bất thường của người nghiện heroin: Người nghiện ma túy
thường có giờ giấc sinh hoạt thất thường, mỗi ngày, cứ đến một khung giờ
nhất định nào đó, dù đang bận việc gì cũng tìm cách, kiếm cớ để đi khỏi nhà;
thích ở một mình, ít hoặc ngại tiếp xúc với mọi người. Tâm trạng thường lo
lắng, bồn chồn, đơi khi nói nhiều, hay nói dối loanh quoanh, chống đối, cáu
gắt; hay ngáp vặt, người lừ đừ, mệt mỏi, ngại lao động, bỏ vệ sinh cá nhân.
Đối với người sử dụng heroin nặng, còn có biểu hiện giảm sút sức khoẻ rõ rệt,
thường xuyên ngáp vặt, mắt lờ đờ, da tái, môi thâm, cơ thể hơi hám, ngại
tắm... Trên người có dấu kim trên mu bàn tay, cổ tay, mặt trong khuỷu tay,
mặt trong mắt cá chân, ở bẹn, ở cổ… Nhu cầu tiêu tiền ngày một nhiều, sử
dụng tiền khơng có lý do chính đáng, thường xuyên xin tiền, bán đồ đạc cá
nhân, gia đình, nợ nần nhiều, ăn cắp vặt, hay lục túi người khác.

- Dấu hiệu của nghiện ma túy tổng hợp dạng kích thích: Xuất hiện
những hiện tượng như nóng bừng mặt, xanh xao, tím tái thiếu oxy, sốt, đau
đầu, nhịp tim nhanh, tăng huyết áp, buồn nôn, nôn, mất men răng, thở hụt hơi,
run, loạng choạng, loạn khí sắc, mất ngủ, cáu kỉnh, hoảng sợ, lú lẫn, trở nên
thù địch và các triệu chứng của rối loạn lo âu, hoang tưởng và các ảo giác có
thể xảy ra. Đối với người sử dụng các loại Amphetamin mới, cịn có các triệu
chứng nhịp tim nhanh, run, khô miệng, dị cảm, co cơ, đổ mồ hôi, lơ mơ, mệt
mỏi, mất ngủ, chống váng, ảo thị, nhìn khơng rõ, hay giật mình, khó tập
trung, có cơn nóng lạnh, đánh trống ngực, nhạy cảm với lạnh, dễ cáu kỉnh...
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của cơ sở cai nghiện bắt buộc
9


1.1.2.1. Khái niệm
Cơ sở cai nghiện bắt buộc là nơi cách ly có thời hạn đối với những đối
tượng bị nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp
này nhưng khơng có nơi cư trú ổn định nhằm tách họ ra khỏi cộng đồng theo
quy định của pháp luật nhằm cải tạo họ trở thành người bình thường.
Qua từng năm số lượng đối tượng nghiện ma túy ngày càng tăng nhanh,
cá biệt có những nơi tăng đột biến khó kiểm sốt dẫn đến tình trạng tệ nạn xã
hội ngày càng diễn biến phức tạp, đe dọa đến nền kinh tế và cuộc sống của
người dân địa phương. Mặc khác, việc xử phạt hành chính chưa đủ sức răng
đe và giáo dục mạnh, cai nghiện ngoài cộng đồng từ nhiều nguyên nhân khác
nhau nên hiệu quả mang lại chưa cao; do đó, việc hình thành, mở rộng các cơ
sở cai nghiện bắt buộc là rất cần thiết.
Cơ sở cai nghiện bắt buộc được thành lập dựa trên quy định tại Nghị
định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28/6/2012 của Chính phủ về thành lập, tổ chức
lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập. Cơ sở cai nghiện ma túy công lập là
đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở LĐ - TB & XH, có tư cách pháp nhân, trụ

sở, con dấu, tài khoản riêng theo quy định của pháp luật; chịu sự chỉ đạo,
quản lý trực tiếp về chuyên mơn, nghiệp vụ, tổ chức, nhân sự, tài chính và cơ
sở vật chất của Sở LĐ - TB & XH. Để khắc phục tình trạng quá tải tại các cơ
sở công lập, một số địa phương đã xây dựng nên cơ sở cai nghiện ngồi cơng
lập và hoạt động dựa trên nguồn ngân sách của địa phương đó.
Ngồi chức năng chính là cai nghiện, các cơ sở cai nghiện hiện nay cịn
có nhiệm vụ tái thiết lao động cho người nghiện. Sau những đợt điều trị,
người nghiện sẽ được học, được lao động, được học nghề... ngay tại cơ sở
cai nghiện. Nếu ý thức chấp hành tốt, quyết tâm cai nghiện, có ý chí thì đây
chính là lực lượng người lao động đơng đảo đóng góp cho xã hội sau khi trở
về cộng đồng.
10


1.1.2.2. Đặc điểm
Thứ nhất, các cơ sở cai nghiện bắt buộc là tổ chức được hình thành theo
quy định của pháp luật và hoạt động dựa trên nguồn ngân sách nhà nước.
Thứ hai, đây là nơi tập trung của những người bị nghiện nhằm mục đích
khám, chữa bệnh và điều trị cắt cơn; tư vấn, dạy nghề và hỗ trợ tái hòa nhập
cộng đồng theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, cơ sở cai nghiện tồn tại dưới hai hình thức đó là: Cơ sở cai
nghiện cơng lập và cơ cở cai nghiện ngồi cơng lập được hình thành và hoạt
động với chức năng như nhau, chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Cơ sở cai nghiện cơng lập và ngồi cơng lập đều áp dụng cho đối
tượng cai nghiện bắt buộc và cai nghiện tự nguyện.
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
1.1.3.1. Khái niệm
Theo quyển từ điển tiếng Việt thì “Biện pháp” là “cách làm, cách giải
quyết một vấn đề cụ thể”. Như vậy có thể hiểu rằng, biện pháp đưa người

nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là cách thức mà cơ quan có thẩm quyền
áp dụng trực tiếp lên người bị nghiện bằng phương pháp cưỡng chế nhằm
mục đích đảm bảo trật tự xã hội trong giới hạn pháp luật cho phép.
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một trong bốn biện pháp
XLHC được quy định tại Luật XLVPHC năm 2012 [23, Điều 95]. Đây là biện
pháp do TAND cấp huyện xem xét, quyết định, được áp dụng đối với người
nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này
nhưng không có nơi cư trú ổn định.
Về cơ bản, quy định về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại
Luật XLVPHC 2012 được xây dựng theo hướng kế thừa các quy định của
biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh của Pháp lệnh XLVPHC 2002. Mục đích
11


của biện pháp này cũng được quy định như Pháp lệnh là “đưa người vi phạm
vào cơ sở để chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của
cơ sở”. Về hình thức, cơ cấu các điều luật được thể hiện cơ bản giống như
Pháp lệnh XLVPHC năm 2002. Về nội dung, có hai điểm sửa đổi lớn là: (1)
hạn chế đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh chỉ bao gồm
người nghiện ma túy; (2) sửa đổi trình tự, thủ tục áp dụng theo hướng công
khai, minh bạch hơn nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của cơng dân.
1.1.3.2. Đặc điểm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc
Thứ nhất, biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp có
tính cưỡng chế hành chính nhà nước khi tước bỏ một số quyền nhân thân của
người bị áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định; biện pháp này do cơ
quan có thẩm quyền thi hành bằng cưỡng chế Nhà nước, từ giai đoạn lập hồ
sơ đến giai đoạn xem xét, đề nghị và giai đoạn áp dụng biện pháp trên là do
các cơ quan có thẩm quyền thực hiện như Cơng an xã, Phòng LĐ – TB & XH,

TAND cấp huyện và chỉ có những cơ quan được pháp luật quy định mới được
quyền áp dụng biện pháp này. Tính cưỡng chế còn được thể hiện ở chỗ biện
pháp này mang tính bắt buộc thực hiện đối với người bị áp dụng, đây cũng là
biện pháp cưỡng chế mang tính nghiêm khắc nhất trong bốn biện pháp XLHC
vì nó hạn chế quyền tự do nhân thân của người bị áp dụng trong một khoảng
thời gian nhất định.
Thứ hai, biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có tính
pháp lý, bởi lẽ nó được quy định trong các văn bản pháp quy như Luật, Pháp
lệnh, Nghị định… Biện pháp này cũng do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng
theo quy định của pháp luật. Nghĩa là chỉ có các chủ thể được pháp luật quy
định mới có thể tiến hành áp dụng biện pháp này.
Thứ ba, đây là biện pháp chỉ áp dụng đối với cá nhân mà không áp
dụng đối với các tổ chức như những biện pháp XPVPHC khác. Đối tượng áp
12


dụng là công dân Việt Nam được xác định là nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở
lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn
nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng khơng có nơi cư trú nhất
định. Đây là nhóm đối tượng nếu khơng kịp thời phát hiện và đưa đi cai
nghiện, thì sẽ gây ra những hành vi nguy hiểm, đe dọa trật tự an ninh trật tự
cũng như tính mạng của con người. Biện pháp này được áp dụng ngay sau
khi bị xử phạt hành chính, hoặc được cai nghiện tại cộng đồng mà vẫn tiếp
tục tái nghiện.
Đối với trường hợp người nước ngoài vi phạm tại lãnh thổ Việt Nam thì
thực hiện theo quy định tại khoản 7 Điều 21 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP
ngày 12/11/2013 quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an
tồn xã hội; phịng, chống tệ nạn xã hội; cháy, phòng và chữa; phòng, chống
bạo lực gia đình; thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử
phạt trục xuất khỏi nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ tư, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp này rất chặt chẽ, linh hoạt;
đảm bảo tính minh bạch trong q trình xử lý, đồng thời tránh tình trạng vi
phạm các quyền con người trong quá trình áp dụng vì đối tượng bị áp dụng sẽ
phải chịu sự quản lý và hạn chế một số quyền tự do cá nhân nhất định.
1.2. Sự hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật về áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Quốc hội đã ban hành rất nhiều văn bản về
XLVPHC, trong đó có “biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh” của Pháp lệnh
XLVPHC trước đây và biện pháp “đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” theo
Luật XLVPHC hiện nay. Nguồn gốc ban đầu là biện pháp cưỡng chế đặc biệt
được xuất phát từ Nghị quyết số 49-NQ/TVQH ngày 20/6/1961 của UBTVQH
nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa về việc tập trung giáo dục cải tạo những
phần tử có hành động nguy hại cho xã hội; trong đó, quy định việc tập trung để
13


giáo dục cải tạo những phần tử phản cách mạng ngoan cố, có hành động
phương hại đến an ninh chung; những phần tử lưu manh chuyên nghiệp, từ 18
tuổi trở lên, có hành động nguy hại cho xã hội, đã được giáo dục nhiều lần mà
không chịu hối cải, nhưng xét không cần đưa ra TAND xử phạt [37, khoản 1].
Ngày 27/5/1977, Hội đồng Chính phủ (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị
định số 143/CP về Điều lệ xử phạt vi cảnh. Đây được coi là văn bản pháp lý đầu
tiên về vấn đề XLVPHC ở nước ta. Trong đó, có quy định các vấn đề cơ bản về
xử phạt VPHC cũng như các biện pháp xử lý khác nhằm ngăn chặn người có
hành vi vi phạm pháp luật ở mức độ thường xuyên nhưng chưa truy cứu trách
nhiệm hình sự [16, Điều 2]. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam, vấn
đề XLVPHC đã được điều chỉnh bởi một văn bản ở cấp độ Pháp lệnh.
Ngày 30/11/1989, Hội đồng nhà nước (nay là UBTVQH) đã ban hành
Pháp lệnh XLVPHC. Đây là văn bản pháp lý quy định tương đối đầy đủ và

cơ bản về các biện pháp xử phạt VPHC cũng như biện pháp XLHC khác.
Sau một thời gian thi hành, để đáp ứng được yêu cầu trong công tác đấu
tranh chống các vi phạm pháp luật, ngày 06/7/1995, UBTVQH đã ban hành
Pháp lệnh XLVPHC mới; trong đó, quy định biện pháp XLHC “đưa vào cơ
sở chữa bệnh” [38, Điều 20 và Điều 24]; đây là một trong năm biện pháp
XLHC khác (cùng với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng; biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục và biện pháp
quản chế hành chính).
Khi Quốc hội ban hành Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 giữ nguyên tên
gọi như pháp lệnh cũ [39, Điều 22 và Điều 26]. Đây là tiền đề hình thành tên
gọi “biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” theo Luật XLVPHC năm
2012. Pháp lệnh cũng quy định một trình tự tương đối chặt chẽ về quy trình
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh với ba cấp thực hiện từ UBND
cấp xã cho đến cấp tỉnh ra quyết định. Việc này bảo đảm tính chặt chẽ, chính
xác của việc áp dụng biện pháp, tuy nhiên, việc quy định nhiều cấp thực hiện
14


và áp dụng thủ tục này làm cho quá trình áp dụng trở nên rườm rà, thiếu sự
linh hoạt và nhanh chóng.
Về mặt hình thức, tên gọi “biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”
được quy định chính thức tại Luật XLVPHC năm 2012: “Đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc là biện pháp XLHC áp dụng đối với người có hành vi vi phạm
quy định tại Điều 96 của Luật này để chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học
nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt buộc” [23, khoản 1, Điều 95];
điểm mới Luật XPVPHC là đã sửa đổi trình tự, thủ tục áp dụng theo hướng
công khai, minh bạch hơn nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của cơng dân.
Về đối tượng, thời gian áp dụng, Pháp lệnh XLVPHC và các văn bản
pháp luật trước Luật XLVPHC năm 2012 quy định đối tượng bị áp dụng biện
pháp này bao gồm: (i) người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng

biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp
này nhưng không có nơi cư trú nhất định; (ii) người bán dâm có tính chất
thường xun từ đủ 16 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng khơng có nơi cư
trú nhất định [39, Điều 6].
Như vậy, đối tượng được áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh
theo Pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn đã có những quan niệm chưa chính
xác về người nghiện ma túy và người bán dâm. Theo đó, những đối tượng
nghiện nặng khơng có khả năng cai nghiện ở nhà hoặc cai nghiện tại cộng
đồng cũng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh. Đây là quy định
chưa chính xác, bởi xác định một đối tượng là nghiện nặng hay khơng thì
chưa có các quy chuẩn cụ thể để áp dụng, đồng thời việc đánh giá khả năng
cai nghiện của đối tượng tại nhà hoặc cộng đồng cũng còn thiếu những chuẩn
mực để đánh giá. Phần lớn các đối tượng nghiện có cai nghiện thành cơng
khơng phụ thuộc vào ý chí của chính họ. Ngồi ra, việc Pháp lệnh XLVPHC
năm 1995 dùng cụm từ “người mại dâm” là chưa chính xác. Bởi, mại dâm
15


hiểu theo nghĩa thơng thường là sự trao đổi tình dục có thu tiền; trong nội
hàm của khái niệm mại dâm bao hàm cả hành vi mua dâm, bán dâm và các
hành vi hỗ trợ khác như môi giới, tổ chức... Như vậy, việc các văn bản dùng
cụm từ “người mại dâm” là chưa đảm bảo tính chính xác về khoa học, bởi
biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh áp dụng đối với người mua dâm, trong khi
đó người mơi giới, tổ chức hoạt động mại dâm thì bị xử lý hình sự.
Năm 2012, Luật XLVPHC được ban hành đã quy định đối tượng áp
dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chỉ còn là người nghiện ma
túy [23, khoản 1, Điều 96]; bỏ đối tượng người bán dâm bởi lẽ: Mại dâm
khơng cịn được coi là “bệnh” mà là một vấn đề xã hội nên chỉ là đối tượng
của XLHC; quy định người bán dâm bị hạn chế quyền tự do vì hành vi bán

dâm được đánh giá là quá nghiêm khắc bởi hành vi vi phạm của họ không
nghiêm trọng, không gây nguy hiểm cho xã hội đến mức phải hạn chế tự do.
Đồng thời đối tượng bị áp dụng biện pháp này bao gồm người từ đủ 16 tuổi
trở lên, tức là người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi. Đối với đối
tượng này, Công ước quốc tế về quyền trẻ em và các nghị định thư liên quan
không coi là đối tượng vi phạm pháp luật, mà coi là nhóm đối tượng bị tổn
thương, cần có sự bảo vệ của xã hội và được đối xử như nạn nhân, khơng bị
áp dụng bất cứ hình thức xử phạt nào. Trong thực tế, nhiều người bán dâm là
nạn nhân của các vụ bn bán người, bóc lột tình dục, lại bị đối xử như đối
tượng vi phạm pháp luật. Vì những lý do này, Luật XLVPHC đã không quy
định người bán dâm là đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc. Điểm tương đồng giữa Luật XLVPHC với Pháp lệnh
XLVPHC là thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ
12 tháng đến 24 tháng.
Về cơ bản, quy định “biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh” trước đây và
“biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” hiện nay được xây dựng theo
hướng kế thừa các quy định của Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 (sửa đổi, bổ
16


sung năm 2008). Mục đích của biện pháp này vẫn được quy định như Pháp
lệnh hiện hành là đưa người vi phạm vào cơ sở để chữa bệnh, lao động, học
văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở; biện pháp này có tính cưỡng chế
cao; người bị nghiện sẽ phải sinh sống, học tập, lao động, dưới sự quản lý
nghiêm ngặt, điều này đã hạn chế một phần quyền con người khi áp dụng nên
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được xem là biện pháp XLHC
nghiêm khắc nhất.
1.3. Mục đích, vai trị của áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Thứ nhất, việc áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc đối với những đối

tượng này nhằm giáo dục tư tưởng người bị nghiện, chữa bệnh cho các đối
tượng để cảm hóa, giúp đỡ họ cai nghiện thành cơng, nỗ lực lao động, học
văn hóa trong cơ sở cai nghiện; giáo dục về đạo đức, tư tưởng, lối sống cũng
như phục hồi sức khỏe tạo điều kiện để họ trở thành cơng dân có ích và sớm
tái hịa nhập cộng đồng. Có thể nói đây là mục đích đầu tiên và quan trọng
của biện pháp này, bắt nguồn từ tính nhân đạo sâu sắc của pháp luật nước ta.
Thứ hai, nhằm trừng phạt đối với người có hành vi vi phạm. Biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một biện pháp tính cưỡng chế tương đối
cao khi nội dung của nó là tước bỏ một số quyền nhân thân của người bị áp
dụng trong một khoảng thời gian nhất định. Tính trừng phạt của biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là hết sức cần thiết, thể hiện tính nghiêm
minh của pháp luật; bởi vì, đối tượng bị áp dụng biện pháp này là những đối
tượng nghiện ma túy, đã bị áp dụng các biện pháp XLHC khác ở cấp độ nhẹ
hơn nhưng vẫn tái phạm hoặc các đối tượng này khơng có nơi cư trú ổn định.
Các đối tượng này thường có những hành vi vi phạm pháp luật, gây ảnh
hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, tính trừng phạt của
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc buộc chủ thể vi phạm thỏa mãn
các điều kiện tại Điều 96 Luật XLVPHC năm 2012 phải chịu những hậu quả
17


pháp lý bất lợi là hạn chế một phần quyền tự do và chịu sự quản lý giám sát
của cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Thứ ba, áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhằm mục
đích phòng ngừa khả năng tái phạm của các đối tượng nghiện ma túy thông
qua sự kết hợp giữa giáo dục và trừng trị, lôi cuốn các lực lượng xã hội tham
gia đấu tranh và phòng ngừa vi phạm, thúc đẩy dư luận xã hội lên tiếng. Mục
đích phịng ngừa bao gồm phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng; nhằm răn
đe, cảnh báo và ngăn ngừa sự vi phạm của các đối tượng khác trong xã hội,
khi đang có dấu hiệu vi phạm pháp luật; mặt khác, đối tượng bị áp dụng sẽ

hạn chế được việc họ tái phạm vì đã bị cách ly ra khỏi xã hội một thời gian và
được giáo dục về ý thức chấp hành pháp luật.
Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cịn
có vai trị to lớn trong việc đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự quản lý hành chính nhà nước, trật tự pháp
luật; góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
1.4.1. Yếu tố pháp luật
Biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được xem là một
trong những “chính sách” ưu tiên trong việc đẩy lùi tệ nạn ma túy ngoài cộng
đồng và bảo đảm an ninh trật tự xã hội. Do đó, cần có những chính sách cụ
thể, quy định chặt chẽ kèm theo những văn bản hướng dẫn rõ ràng, phù hợp
với điều kiện phát triển của địa phương, tình hình người nghiện của địa
phương đó cũng như tính thống nhất áp dụng trên phạm vi toàn quốc. Như
vậy mới bảo đảm thực hiện tốt việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc đạt hiệu quả cao nhất.
1.4.2. Yếu tố kinh tế
18


Điều kiện kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình xây dựng, mở rộng
các cơ sở điều trị nghiện và thực hiện thành công biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc. Áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
phụ thuộc vào nhiều yếu tố về cơ sở vật chất, chất lượng, số lượng đội ngũ
cán bộ cũng như thuốc men, công tác giáo dục, dạy nghề sau chữa bệnh... đòi
hỏi cần phải có nguồn ngân sách dồi dào và ổn định, đầu tư kinh tế đồng bộ
về mọi mặt, nâng mức lương hợp lý cho đội ngũ khám chữa bệnh…
1.4.3. Yếu tố tâm lý xã hội

Tâm lý của một bộ phận người dân là e ngại, sợ tiếp xúc với người
nghiện, một bộ phận khác lại có thái độ phản ứng gay gắt, thậm chí là tiêu cực
dẫn tới những cử chỉ lăng mạ, xúc phạm chính gia đình có con em bị nghiện.
Chính vì vậy, các đối tượng nghiện và gia đình họ thường che dấu tình trạng
nghiện, xấu hổ khơng đi cai nghiện, dẫn đến tình trạng nghiện ngày càng nặng
nề, ảnh hưởng đến cuộc sống của bản thân người nghiện, gia đình họ và tình
hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, pháp luật về XLHC ln có những
chính sách để khuyến khích, bảo vệ, tạo điều kiện cho người nghiện đi cai
nghiện cũng như tuyên truyền để nhân dân chung tay vào công cuộc vận động
người nghiện đi cai và giúp đỡ để họ tái hòa nhập cộng đồng.
1.5. Các quy định pháp luật về áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
1.5.1. Nguyên tắc, đối tượng, thời hiệu, thẩm quyền áp dụng biện pháp
XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
1.5.1.1. Nguyên tắc áp dụng
Một là, cá nhân chỉ bị áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc nếu thuộc đối tượng được quy định tại Điều 96 Luật
XLVPHC năm 2012; nghĩa là: Chỉ khi một người có hành vi sử dụng trái
phép chất ma túy thỏa mãn các điều kiện được quy định tại Điều 96 thì mới bị
áp dụng biện pháp trên. Tuân thủ nguyên tắc này sẽ giúp các cơ quan có thẩm
19


×