Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh An Giang (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (724.76 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI XUÂN THỦY

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KHEN THƯỞNG
CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRỰC TIẾP TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH AN GIANG

Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8 34 04 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN MINH TUẤN

AN GIANG - 2020

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ở nước ta, công tác TĐKT luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan
tâm ngay từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đặc biệt quan tâm đến cơng tác TĐKT. Người từng nói: “Thi đua
khen thưởng là động lực phát triển và là biện pháp quan trọng để xây dựng
con người mới”. Ngay sau khi tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ngày 02/9/1945, Người đã quan tâm, ban hành nhiều văn bản pháp
luật về TĐKT nhằm động viên mọi tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua lao
động, sản xuất, chiến đấu trên mọi mặt trận từ dựng nước đến giữ nước.


Đến nay, nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về TĐKT đã được
ban hành và được sửa đổi, bổ sung nhiều lần để phù hợp với tình hình thực
tiễn về TĐKT trong mỗi giai đoạn đổi mới của đất nước và phù hợp với tiến
trình hội nhập quốc tế. Trong đó, thi đua và khen thưởng là hai yếu tố ln
được đặc biệt xem trọng, có quan hệ chặt chẽ và tác động biện chứng lẫn
nhau. Thi đua là động lực thúc đẩy cá nhân, tổ chức hoàn thành tốt các nhiệm
vụ, trên cơ sở đó thực hiện việc khen thưởng. Khen thưởng vừa là kết quả,
vừa là yếu tố thúc đẩy phong trào thi đua phát triển. Khen thưởng đúng người,
đúng việc; bảo đảm khách quan, công bằng và thực hiện kịp thời sẽ có tác
dụng động viên, cổ vũ cho thi đua.
Để đảm bảo tính khách quan, công bằng trong công tác thi đua và khen
thưởng, Luật TĐKT lần đầu tiên đã được Quốc hội Nước Cộng hồ XHCN
Việt Nam khố XI (kỳ họp thứ 4) thơng qua ngày 26/11/2003, có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/07/2004. Luật TĐKT đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005
và năm 2013.
Sau khi Quốc hội ban hành Luật TĐKT đến nay, cơng tác TĐKT trong
cả nước đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các chủ trương, chính sách và hệ

2


thống văn bản quy phạm pháp luật về TĐKT ngày càng được hoàn thiện, dần
đi vào nền nếp, các phong trào thi đua đã thực sự góp phần vào thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của các bộ, ngành, địa
phương. Công tác khen thưởng đã kịp thời động viên, khích lệ, biểu dương
các tập thể, cá nhân có thành tích trong lao động, sản xuất, cơng tác,….
Tuy nhiên, q trình thực hiện pháp luật TĐKT sau thời gian mới được
ban hành đã bộc lộ những bất cập. Trước năm 2013, quy định khen thưởng
còn chung chung, bao quát tất cả đối tượng, quá trình xét TĐKT ở nhiều tổ
chức, đơn vị lao động, sản xuất thường xảy ra trường hợp nể nang, việc khen

thưởng tuy có thực hiện đúng quy định nhưng kết quả bình bầu, xét TĐKT
thường tập trung vào những cán bộ lãnh đạo, quản lý, do hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật về khen thưởng cho NLĐ trực tiếp chưa nhiều, còn mờ
nhạt, chỉ đến khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TĐKT 2013 và
được cụ thể hoá tại Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành Luật TĐKT thì vấn đề khen thưởng cho NLĐ
trực tiếp mới được xem là một tiêu chí đặt ra đối với từng đơn vị xét TĐKT.
Nhằm cụ thể hóa các quy định của Luật TĐKT, trong đó đặc biệt đề ra
các tiêu chuẩn, điều kiện khen thưởng cho nông dân, NLĐ trực tiếp, tỉnh An
Giang đã ban hành Quyết định số 87/2017/QĐ-UBND ngày 12/12/2017 về
Quy chế công tác TĐKT trên địa bàn tỉnh An Giang.
Quá trình thực hiện pháp luật hiện hành về TĐKT trên địa bàn tỉnh An
Giang và Quyết định của tỉnh nói trên cho thấy, tuy đã có những quy định cụ
thể về khen thưởng cho NLĐ trực tiếp, song vẫn còn một số mặt tồn tại nhất
định. Luật xây dựng các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng chưa phù
hợp ở các cấp, nhất là ở cấp cơ sở; đặc biệt chưa có những quy định ràng buộc
chặt chẽ, có hệ thống để tạo ra mơ hình khen thưởng theo hình chóp; một số
quy định về thẩm quyền xét tặng danh hiệu thi đua và khen thưởng còn thể

3


hiện sự bất cập, không hợp lý; quy định tiêu chuẩn của một số danh hiệu thi
đua và khen thưởng cao, nhưng tiêu chuẩn lại thấp hơn dẫn đến xu hướng dồn
lên các hình thức khen thưởng cấp Bộ và cấp Nhà nước. Khen thưởng nhiều
cán bộ lãnh đạo, quản lý; khen thưởng tập thể nhỏ và lao động trực tiếp còn
hạn chế, chủ yếu tập trung vào các kỳ đại hội.
Nhiều nơi phong trào thi đua cịn hình thức, chưa tạo động lực thi đua
từ cơ sở, từ quần chúng nhân dân; chưa gắn kết thi đua với thực hiện nhiệm
vụ chính trị; nội dung, tiêu chí thi đua chưa cụ thể, chưa gắn với lợi ích của

NLĐ. Một số đơn vị, địa phương chưa lấy kết quả phong trào thi đua làm căn
cứ, cơ sở để khen thưởng nên tác dụng khen thưởng chưa cao; một số trường
hợp cịn thiếu chính xác, nể nang, cào bằng, chạy theo thành tích; cá biệt cịn
có tập thể, cá nhân được khen thưởng, nhưng thành tích chưa tiêu biểu và tạo
sức lan tỏa…
Trước tình hình trên, tác giả chọn đề tài: “Thực hiện chính sách khen
thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh An Giang” làm luận
văn tốt nghiệp của mình, với mong muốn bổ sung thêm kiến thức về công tác
TĐKT và làm rõ những vấn đề cịn cịn tồn tại trong thực hiện chính sách
TĐKT cho NLĐ trực tiếp trên địa bàn tỉnh An Giang. Từ đó, có những kiến
nghị, giải pháp góp phần nâng cao chất lượng thực hiện chính sách khen
thưởng cho NLĐ trực tiếp trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do TĐKT là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nên đến nay đã
có nhiều cơng trình khoa học, sách tham khảo, các luận văn, các bài báo, tạp
chí đề cập với nhiều góc độ khác nhau về thực hiện chính sách TĐKT cho
NLĐ trực tiếp, nhưng chủ yếu là tập trung vào quản lý hoạt động TĐKT. Cụ
thể như các cuốn sách, bài báo, cơng trình nghiên cứu sau:

4


- Sách “Đảng, Bác Hồ với thi đua yêu nước và cơng tác thi đua khen
thưởng”, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội (2008). Sách đã phân tích khá kỹ
những vấn đề lý luận, quan điểm của Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về thi đua yêu nước và công tác TĐKT.
Đồng thời, đưa ra cách tiếp cận tổng quát khi nghiên cứu về TĐKT, có thể
tham khảo để nghiên cứu phát triển làm phong phú thêm lý luận về TĐKT.
- Sách tham khảo: “Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về công tác thi đua,

khen thưởng” của PGS. TS Nguyễn Thế Thắng (2009). Cuốn sách phân tích
các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về TĐKT.
- Đề tài nghiên cứu “Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới thi đua khen
thưởng trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Trần Thị Hà (2013), Đề tài khoa
học cấp Nhà nước, Ban TĐKT Trung ương. Bên cạnh trình bày cơ sở lý luận
và thực tiễn về TĐKT, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về
TĐKT, tổ chức làm công tác TĐKT và thực thi về TĐKT, tác giả đề xuất các
giải pháp đổi mới hoạt động TĐKT và quản lý Nhà nước về TĐKT, kiến nghị
sửa đổi, bổ sung Luật TĐKT để TĐKT thực sự là động lực góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ mới.
- Bài viết “Thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động”,
đăng trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ Nội vụ ngày 17/8/2020 của tác giả
Phạm Thu Thuỷ - Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương. Bài viết cho thấy
chính sách khen thưởng đối với NLĐ là nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước ta
quan tâm sâu sắc và đã được quy phạm hóa tại Nghị định số 91/2017/NĐ-CP.
Tuy nhiên, đối tượng NLĐ vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau và chưa có định
nghĩa chính thống. Do đó, trong thực tiễn cách thức khen thưởng cho đối
tượng là NLĐ được thực hiện một cách khác nhau, không theo một quy chuẩn

5


cụ thể, đã có những hạn chế, vướng mắc của cơ quan nhà nước khi thực hiện
trao tặng các danh hiệu TĐKT cho NLĐ. Từ đó, tác giả đã đề xuất giải pháp
thực hiện có hiệu quả chính sách khen thưởng đối với NLĐ trong giai đoạn
hiện nay.
- Luận văn “Hồn thiện cơng tác thi đua khen thưởng” của tác giả
Nguyễn Đức Hiếu, Luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh, Học viện Khoa học
xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt nam (2016).

- Luận văn “Thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động
trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai” của tác giả Lê Hồi Thanh, Luận văn
Thạc sĩ chính sách cơng, Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt nam (2019).
Các luận văn đã tập trung nghiên cứu, phân tích nhiều khía cạnh khác
nhau liên quan đến những vấn đề lý luận chung về TĐKT; Cơ sở lý luận và
thực tiễn đổi mới TĐKT; Quản lý nhà nước về TĐKT; những khó khăn trong
nhận thức thực hiện chính sách TĐKT,... Tuy nhiên, rất ít các nghiên cứu khai
thác cụ thể về việc thực hiện chính sách khen thưởng cho NLĐ trực tiếp, đặc
biệt chưa có cơng trình nghiên cứu liên quan đến chính sách khen thưởng cho
NLĐ trực tiếp trên địa bàn tỉnh An Giang.
Do vậy, việc nghiên cứu thực hiện chính sách TĐKT cho NLĐ trực tiếp
trên địa bàn tỉnh An Giang sẽ góp phần bổ sung vào hệ thống lý luận về thực
thi chính sách, làm tài liệu tham khảo quan trọng cho các cơ quan, đơn vị, tổ
chức trên địa bàn tỉnh trong quá trình thực thi chính sách về TĐKT đảm bảo
tính khách quan, công bằng cho tất cả những NLĐ trực tiếp; đồng thời, nâng
cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về TĐKT trên địa bàn tỉnh An
Giang trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

6


Trên cơ sở phân tích thực trạng thực thi chính sách khen thưởng cho
NLĐ trực tiếp tại tỉnh An Giang từ năm 2016 – 2020, luận văn đưa ra một số
giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện chính sách TĐKT
ở địa phương trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận cơ bản và các quy định pháp luật, văn bản

hướng dẫn về cơng tác khen thưởng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và thực hiện chính sách khen
thưởng cho NLĐ trực tiếp tại tỉnh An Giang.
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thực thi chính
sách khen thưởng cho NLĐ trực tiếp tại tỉnh An Giang trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực thi chính sách khen thưởng cho NLĐ trực tiếp tại tỉnh An Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Thực hiện chính sách khen thưởng cho NLĐ trực tiếp.
- Về không gian: Tỉnh An Giang
- Về thời gian: Từ năm 2016 - 2020.
5. Cơ sở lý luận
Đề tài sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và quy định pháp luật Nhà nước
về TĐKT nhằm làm rõ lý luận cơ bản về khen thưởng cho NLĐ trực tiếp.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp phân tích: được sử dụng để đánh giá các quan điểm,
đường lối của Đảng, các quy định pháp luật; đồng thời để phân tích các số

7


liệu trong bảng tổng hợp, tính tốn tỷ lệ nhằm chỉ ra được thực trạng công tác
khen thưởng cho NLĐ trực tiếp ở tỉnh An Giang hiện nay.
- Phương pháp tổng hợp: Sử dụng phương pháp này để tóm lược, rút ra
những kết luận của vấn đề nghiên cứu. Tổng hợp các kết quả nghiên cứu, số
liệu thống kê về đối tượng khen thưởng là NLĐ trực tiếp từ năm 2016 đến
năm 2020 trên địa bàn tỉnh qua các báo cáo về công tác TĐKT hàng năm.

- Phương pháp so sánh: Sử dụng để phân tích, đánh giá các Nghị quyết,
chuyên đề của Đảng, các quy định của pháp luật về chính sách khen thưởng
cho người lao động trực tiếp qua các giai đoạn lịch sử so sánh với việc thực
hiện chính sách và quy định của pháp luật trên địa bàn tỉnh An Giang.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Những khái niệm được nghiên cứu, đề xuất trong đề tài như: khen
thưởng, chính sách khen thưởng, khen thưởng cho người lao động trực tiếp,...
có ý nghĩa lý luận sâu sắc, góp phần bổ sung vào cơ sở lý luận trong lĩnh vực
nghiên cứu chính sách về khen thưởng cho NLĐ trực tiếp hiện nay.
Song song đó, đề tài còn giúp cho các nhà nghiên cứu, quản lý về thi
đua khen thưởng có cái nhìn tổng quan về thực trạng và kết quả thực hiện
chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp tại một địa phương điển
hình là tỉnh An Giang. Những giải pháp được đề xuất trong đề tài có ý nghĩa
thực tiễn đối với các cơ quan quản lý TĐKT của tỉnh An Giang, phù hợp để
áp dụng tại địa phương trong vấn đề thực hiện chính sách khen thưởng cho
NLĐ trực tiếp.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
bao gồm 03 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về chính sách khen thưởng và khen
thưởng cho người lao động trực tiếp

8


Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao
động trực tiếp trên địa bàn tỉnh An Giang
Chương 3. Giải pháp thực thi chính sách khen thưởng cho người lao
động trực tiếp trên địa bàn tỉnh An Giang trong thời gian tới.


9


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHEN THƯỞNG VÀ
KHEN KHEN THƯỞNG CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRỰC TIẾP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG
1.1. Một số khái niệm cơ bản về khen thưởng, chính sách khen
thưởng và người lao động
1.1.1. Khen thưởng
Trong lịch sử nước ta, việc khen thưởng đã xuất hiện từ thời dựng
nước, chống giặc ngoại xăm và phát triển của đất nước. Khen thưởng thường
được dành cho các bậc cơng thần, những người lập thành tích cho đất nước,
cho cộng đồng, việc khen thưởng thực hiện thơng qua lời nói hoặc bằng hiện
vật, hiện kim nhằm biểu dương, khen ngợi, động viên tinh thần, nêu gương tốt
để các cá nhân và cộng đồng noi theo.
Trong Đại Việt sử ký tồn thư của Ngơ Sĩ Liên, các Sứ thần Triều Lê,
Lịch Triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ghi lại, việc khen
thưởng lúc bấy giờ được nhà vua ban tặng cho người có cơng trong chiến
trận, trong việc đi sứ, người phị tá có cơng lao tài đức, người có cơng tiến
cử người hiền tài, người có lời tâu đúng, người cấp dưới giữ đúng phép
công, không vị nể người quyền quý cấp trên, người có cơng làm thuỷ lợi,
người có tài văn chương, người cao tuổi1.
Hình thức khen thưởng rất đa dạng. Đối với người cịn sống là những
cơng thần khai quốc hoặc có cơng dẹp giặt, giữ n bờ cỏi thì được khen
thưởng cơng trạng với các hình thức như: ban họ vua (Quốc thính), được
ghi cơng vào sử sách, được vẽ hình, dựng bia ghi công, được phong chức,
được thưởng vàng bạc, được cấp ruộng đất. Nếu người có cơng đã mất thì
nhà vua ban cho được phối hưởng (cúng tế tổ tiên trong một cuộc tế lễ).

1


Đại Việt Sử ký Toàn thư (1993), Tập 2, NXB Khoa học xã hội

10


Sách có ghi lại rằng, lễ cho cơng thần được phối hưởng từ đời Tam đại đã
có, nếu người có cơng thì được ghi tên vào cờ Thái thường, tế ở lễ Đại
chưng (lễ của nhà vua tế người có công). Việc báo đức đền công được nhà
vua xem trọng nhất. Việc cho các công thần được phối hưởng vừa để thỏa
vong linh, tỏ được nghĩa khí, mà cũng đúng với lễ của thiên vương từ ngàn
đời xưa để lại. Việc thưởng, phạt rất cơng minh “Những người có cơng thì
thờ mới hợp điển lễ, kẻ tầm thường khơng cơng trạng thì khơng nên cho cả
mà nhàm”. Qua đó, có thể thấy trong các triều đại phong kiến cũng rất chú
trọng việc khen thưởng người có cơng, việc khen thưởng rất cơng bằng,
khơng có thiên vị để giữ nghiêm kỷ cương phép nước.
Nguyễn Trãi (1380-1442), nhà chính trị, nhà văn và cũng là khai quốc
công thần trong triều đại quân chủ nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, đã
có nhận định rằng, một Nhà nước mà thưởng phạt nghiêm minh, kịp thời là
Nhà nước vững mạnh. Nhà nước nào phạt nhiều hơn thưởng là Nhà nước
đang suy tàn. Nhà nước nào thưởng nhiều hơn phạt là Nhà nước phồn vinh.2
Thực vậy, Nhà nước chỉ vững mạnh khi mọi người dân đều có tinh thần u
nước, đồn kết, cùng đóng góp chung cho lợi ích của cộng đồng, của đất
nước, có nhiều thành tích và được tun dương, khen thưởng.
Trong Lời kêu gọi tướng sĩ vệ quốc quân, dân quân du kích nhân
cuộc vận động luyện bộ đội lập chiến công trong cuộc kháng chiến chống
giặc của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi tướng sĩ, dân quân du
kích gắng sức đua tài, xung phong diệt địch, thi đua giữa các cán bộ với
nhau, giữa đơn vị này với đơn vị khác, với các chỉ tiêu thi đua cụ thể: “Ai
cướp được nhiều súng hơn, ai lập được công to hơn; Tổ quốc đang kêu gọi

2

Viện Thi đua Khen thưởng Nhà nước (1997), Những quy định cơ bản về công tác thi đua và chế độ khen
thưởng, tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội. (trang 21)

11


anh em; Quốc dân đang trơng mong anh em; Chính phủ đang sẵn sàng khen
thưởng anh em; Riêng về phần tôi, tôi để dành một phần thưởng đặc biệt
cho cán bộ, chiến sĩ nào hoặc đơn vị nào sẽ lập được công oanh liệt nhất, vẻ
vang nhất.” 3
Hay trong Lời kêu gọi đồng bào bán gạo khao quân nhân dịp kỷ niệm
ngày Quốc khánh 02/9/1949, để khao thưởng bộ đội ta, những người đang
chiến đấu anh dũng để giữ gìn độc lập dân tộc, trong giai đoạn kháng chiến
gian khổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy phương châm của thánh hiền “thực
túc, binh cường”, lấy lương thực mà khao thưởng để kêu gọi đồng bào góp
gạo khao quân. Người nói “Lấy lương thực mà khao thưởng là đơn giản
nhất, thiết thực nhất”.4
Trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh rất quan tâm đến việc khen thưởng, Người nêu rõ: “Thưởng phạt phải
nghiêm minh, có cơng thì thưởng, có lỗi thì phạt; có cơng mới có hn, phải
có cơng hn mới được thưởng huân chương, thưởng cái nào đích đáng cái
ấy… khen thưởng phải có tác dụng động viên, giáo dục, nêu gương.”5
Ngay sau khi giành được chính quyền, ngày 26/01/1946, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký ban hành Quốc lệnh 10 điều thưởng của Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hồ, bao gồm: Thưởng đối với gia đình có con tịng qn;
thưởng người lập được qn cơng; người hy sinh vì nước; người ra trận can
đảm, phi thường; người làm việc với tấm lịng trong sạch, ngay thẳng; người
làm việc có lợi cho nước nhà, dân tộc, được dân chúng mến phục; người bỏ


3

Sách 120 lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, trg 88
Sách 120 lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, trg 126
5
Viện Thi đua Khen thưởng Nhà nước (1997), Những quy định cơ bản về công tác thi đua và chế độ khen
4

thưởng, tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội.

12


tiền ra xây đắp cầu cống, đê, đường; người bắt được những kẻ phản quốc;
người liều mình về cơng việc; người cứu được người bị nạn.
Sau ngày Việt Nam giành được độc lập, thống nhất đất nước cho đến
ngày hôm nay, Đảng, Nhà nước ta luôn thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về
cơng tác TĐKT, 10 điều khen thưởng này đã trở thành nền tảng tư tưởng,
nguyên tắc pháp lý chỉ đạo việc khen thưởng trong cả hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ cứu nước và trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta đến ngày hôm nay.
Từ thực tiễn của việc khen thưởng qua các thời kỳ lịch sử của đất nước,
có thể hiểu khen thưởng là theo khái niệm chung như sau:
Khen thưởng là quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm
khuyến khích tinh thần của một cá nhân hay tổ chức có thành tích trong việc
thực hiện các chức trách, nhiệm vụ, hoặc có thành tích trong các phong trào
thi đua, khuyến khích người tham gia có tinh thần và trách nhiệm, có ý thức
sáng tạo, thơng qua khen thưởng nhằm tuyên dương những tập thể, cá nhân có
cơng trong việc xây dựng lợi ích chung tổ chức, cộng đồng. Thơng thường

khen thưởng sẽ có khen thưởng bằng tinh thần và khen thưởng bằng vật chất.
Tại khoản 2 Điều 3 của Luật TĐKT của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2003 đã quy định: “Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu
dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá
nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trong định nghĩa về khen thưởng nêu trên có hai yếu tố cơ bản là thành
tích/cơng trạng và khen thưởng. Nếu người có thành tích tốt, xuất sắc thì sẽ
được khen thưởng, việc khen thưởng đúng đối tượng, kịp thời sẽ tiếp thêm
động lực để họ tiếp tục phấn đấu và còn nêu gương cho những người xung
quanh, cịn nếu ngược lại, việc khen thưởng có yếu tố thiên vị, không kịp thời

13


sẽ làm hạn chế hoặc làm giảm sút lòng tin, ý chí phấn đấu trong lao động, sản
xuất, từ đó, làm giảm hiệu quả và năng suất làm việc của cả tập thể.
1.1.2. Người lao động trực tiếp
Cho đến nay cịn nhiều ý kiến khác nhau và chưa có khái niệm thể hiện
bằng văn bản của cơ quan quản lý nhà nước về đối tượng là NLĐ trực tiếp.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của BLLĐ năm 2019, NLĐ là:
“người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, được trả lương
và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động”.
Như vậy, NLĐ ở vị trí và cách nhìn nhận này có thể là người thợ, người
cơng nhân, NLĐ trí thức như công chức, viên chức, chuyên gia ở các ngành
nghề, lĩnh vực khác nhau, đóng góp sức lao động, chuyên môn để làm ra sản
phẩm, thường được người sử dụng lao động tuyển dụng thông qua hợp đồng
lao động hoặc khốn cơng việc theo sản phẩm, được trả lương, tiền công theo
thỏa thuận trong hợp đồng lao động hoặc theo kết quả thực hiện đối với công
việc, sản phẩm được giao.
Ngồi ra cịn có những NLĐ khơng chịu sự ràng buộc bởi người chủ sử

dụng lao động, không nhận lương từ họ, bởi đây là những đối tượng lao động
tự do, những người thuần túy làm nông nghiệp, hoặc những cá nhân lao động
mang tính chất tình nguyện, thiện nguyện, khơng tính đến lợi nhuận hoặc
cơng lương. Sản phẩm làm ra của đối tượng này là sản vật, nông sản phục vụ
trực tiếp cho đời sống của họ, thời giờ làm việc không phụ thuộc vào khuôn
phép, ràng buộc của hợp đồng hoặc các quy ước lao động.
Như vậy, có thể nhìn nhận khái niệm “Người lao động trực tiếp” dưới
các góc độ khác nhau như:
- Dưới góc độ lao động, sản xuất, NLĐ trực tiếp được hiểu là những
người trực tiếp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm
hay trực tiếp thực hiện các công việc nhiệm vụ nhất định. Đây là những NLĐ

14


bình thường trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, chẳng hạn như công nhân
lao động, người nông dân trực tiếp lao động, canh tác, người giáo viên trực
tiếp giảng dạy, công nhân dọn dẹp vệ sinh, các hộ lý, điều dưỡng trong các
bệnh viện hoặc những người âm thầm, lặng lẽ trực tiếp làm các nhiệm vụ tình
nguyện, thiện nguyện,...
- Dưới góc độ quản lý nhà nước, có thể hiểu NLĐ trực tiếp là người
không giữ chức vụ lãnh đạo, được tuyển dụng làm việc, theo hợp đồng hoặc
trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, hưởng lương từ đơn vị sự
nghiệp và là cá nhân trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Ở môi trường làm việc này, NLĐ tuân thủ theo quy chuẩn của thứ bậc
hành chính và chịu sự ràng buộc bởi pháp luật chuyên ngành. Sản phẩm của
họ mang tính trí tuệ và đầu ra của sản phẩm là các văn bản tham mưu cho đội
ngũ lãnh đạo, quản lý cơ quan nhà nước, các ý tưởng đổi mới trong cải cách,
tổ chức bộ máy nhà nước, các công việc mang lại hiệu quả lớn cho xã hội như
chăm sóc người bệnh, điều chế thuốc, gìn giữ văn hóa cội nguồn dân tộc.

Cách nhìn nhận về NLĐ trong trường hợp này cũng để phân biệt với người
giữ chức vụ lãnh đạo, là người có chức vụ, được hưởng phụ cấp lãnh đạo,
thực hiện nhiệm vụ quản lý, điều hành, phân công công việc, quản lý NLĐ
trong cơ quan, đơn vị.
Từ những mơ tả trên có thể rút ra đặc điểm NLĐ trực tiếp như sau: Là
NLĐ trực tiếp làm việc ở nhiều môi trường, nhiều công việc khác nhau trên
tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; Không phân biệt người trẻ hay người
lớn tuổi, không phân biệt nam hay nữ; Họ là những người trực tiếp làm ra sản
phẩm, của cải vật chất hoặc trực tiếp tạo ra những giá trị tốt đẹp cho xã hội từ
đôi tay, năng lực và trình độ chun mơn, nghiệp vụ của mình.
1.1.3. Chính sách, chính sách cơng

15


Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như
sau: Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ.
Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực
cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc
vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa,…
Cịn theo James Anderson thì, chính sách là một q trình hành động có
mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn
đề mà họ quan tâm.
Như vậy, có thể hiểu chính sách theo khái niệm như sau: Chính sách là
chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải
quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.
Chính sách cơng (public policy) được tiếp cận nghiên cứu từ những góc
độ khoa học khác nhau, theo đó có những cách hiểu, xác định khơng hồn
tồn giống nhau về khái niệm và các thuộc tính của chính sách cơng, cụ thể
như:

William Jenkin cho rằng: “Chính sách cơng là một tập hợp các quyết
định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị
gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục
tiêu đó”. Cịn Peter Aucoin lại khẳng định: “Chính sách cơng bao gồm các
hoạt động thực tế do Chính phủ tiến hành”. B. Guy Peter thì đưa ra định
nghĩa: “Chính sách cơng là tồn bộ các hoạt động của Nhà nước có ảnh hưởng
trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân”,…
Riêng nhà khoa học trong nước có những quan niệm cụ thể hơn:
Theo TS. Tạ Ngọc Hải – Viện Khoa học tổ chức nhà nước thì: Chính
sách cơng là những hoạt động mà chính quyền chọn làm và không làm, là

16


tồn bộ các hoạt động của chính quyền trực tiếp hay gián tiếp tác động đến
cuộc sống của mọi người.6
Như vậy, so sánh các quan niệm đã nêu ta thấy có những điểm tương
đồng trong quan niệm về chính sách cơng như: tính nhà nước, tính cơng cộng,
tính hành động thực tiễn (coi quá trình thực hiện là một phần của chính sách
cơng).
Từ những khái niệm chung về chính sách, chính sách cơng, có thể đi
đến khái niệm về chính sách cơng như sau: Chính sách cơng là những hành
động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng
đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội
phát triển.
Khái niệm trên đây vừa bao hàm những đặc trưng của chính sách cơng
là do Nhà nước ban hành để tác động đến các đối tượng thuộc cộng đồng một
cách ổn định. Vừa thể hiện được bản chất của chính sách là công cụ định
hướng của Nhà nước cho mọi hành vi xã hội đối với các quá trình phát triển.
1.1.4. Chính sách khen thưởng

Chính sách khen thưởng là một phần trong những chính sách cơng do
nhà nước ban hành.
Luật TĐKT do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thơng qua ngày 26/11/2003, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004, tại khoản
1, 2 Điều 3 đã xác định: Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự
nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tơn
vinh cơng trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể
có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tạ Ngọc Hải (2014), Chính sách cơng – Tiếp cận từ khoa học tổ chức nhà nước, Tạp chí Tổ chức nhà nước,
, cập nhật ngày 09/8/2014
6

17


Đến nay, chưa có một khái niệm cụ thể nào về Chính sách khen
thưởng. Từ khái niệm chung của chính sách công và các khái niệm về thi đua,
khen thưởng có thể định nghĩa:
Chính sách khen thưởng là tập hợp các quy định, quyết sách của Nhà
nước nhằm đưa ra các công cụ và cách thức giải quyết các vấn đề liên quan
đến công tác khen thưởng và hoạt động khen thưởng. Các cơ quan trong hệ
thống hành pháp và mọi cá nhân, tổ chức có nhiệm vụ chấp hành quyết sách
này trong lĩnh vực hoạt động khen thưởng theo đúng quy định của pháp luật.
1.1.5. Thực hiện chính sách khen thưởng
Thực hiện chính sách khen thưởng là q trình chuyển các quy định,
quyết sách của Nhà nước liên quan đến công tác khen thưởng và hoạt động
khen thưởng trở thành hiện thực, làm cho chính sách khen thưởng đi vào thực
tiễn cuộc sống. Các cơ quan hành pháp và mọi cá nhân, tổ chức phải đảm bảo

thực hiện đúng chính sách pháp luật về khen thưởng.
Thực hiện chính sách khen thưởng là nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước
ta quan tâm sâu sắc. Việc thực hiện chính sách khen thưởng là một khâu quan
trọng tất yếu. Nếu chính sách khen thưởng được thực hiện tốt sẽ mang lại lợi
ích to lớn cho những đối tượng thụ hưởng chính sách, đồng thời làm tăng uy
tín của nhà nước trong q trình quản lý xã hội. Thực hiện chính sách khen
thưởng nhằm duy trì sự tồn tại của cơng cụ chính sách theo yêu cầu quản lý
của nhà nước và nhằm được mục tiêu của chính sách.
Việc khen thưởng nhằm động viên mọi cá nhân, tổ chức tham gia vào
các phong trào thi đua, tích cực phấn đấu trong sản xuất, cơng tác. Sự đóng
góp của từng cá nhân sẽ góp phần làm cho tập thể vững mạnh, hăng hái thi
đua lập thành tích, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Kết quả khen thưởng là niềm tự hào, là động lực để
mỗi cá nhân tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được của mình, có

18


thêm những sáng kiến và đóng góp nhằm tăng cường khả năng chun mơn
và góp phần phát triển cơ quan, tổ chức nơi mình làm việc; đồng thời, cá nhân
được khen thưởng là những gương tiên tiến, điển hình để những người chưa
được khen noi theo, thấy được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình để đặt ra
mục tiêu phấn đấu. Do đó, việc thực hiện tốt chính sách khen thưởng sẽ phát
huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và nhân dân; làm cho các
phong trào thi đua được phát triển rộng khắp, với nhiều hình thức đa dạng lan
tỏa, khích lệ cán bộ, cơng chức, NLĐ và các tầng lớp nhân dân, các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tích cực học tập, lao động, sản xuất, kinh
doanh; từ đó tạo động lực thi đua hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ phát triển
kinh tế xã hội, nhiệm vụ chính trị được giao.
Chính sách khen thưởng thường được cơ quan nhà nước thẩm quyền

thực hiện vào các kỳ tổng kết thành tích hoặc cơng trạng qua các giai đoạn
cách mạng; khen thưởng thường xuyên và đột xuất đối với thành tích đạt
được trong lao động, sản xuất; khen thưởng theo niên hạn công tác và khen
thưởng đối ngoại, quy định tại Điều 4 của Luật TĐKT năm 2003.
Khen thưởng theo công trạng và thành tích đạt được là hình thức khen
thưởng tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc hoặc hồn thành xuất sắc nhiệm
vụ được giao, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mức độ
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phải do cấp trình khen thưởng căn cứ theo quy
định xem xét, đánh giá, công nhận.
Khen thưởng theo đợt (hoặc chuyên đề) là khen thưởng cho tập thể, cá
nhân đạt được thành tích xuất sắc sau khi kết thúc đợt thi đua do Chủ tịch
nước, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp,
Thủ trưởng các cơ quan, tổ chức, đơn vị phát động.
Khen thưởng đột xuất là khen thưởng cho tập thể, cá nhân lập được
thành tích đột xuất ngồi chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ mà tập thể, cá

19


nhân phải đảm nhiệm; hoặc thành tích đặc biệt xuất sắc đột xuất đạt được ở
mức độ đặc biệt xuất sắc khi dũng cảm cứu người, cứu tài sản của nhân dân,
của Nhà nước hoặc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc lập được thành
tích đặc biệt xuất sắc trong các lĩnh vực được khu vực hoặc thế giới ghi nhận.
Khen thưởng quá trình cống hiến là khen thưởng cho cá nhân có q
trình tham gia hoạt động trong các giai đoạn cách mạng, giữ các chức vụ lãnh
đạo, quản lý trong các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, có cơng lao, thành tích xuất sắc, đóng góp vào
sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc.
Khen thưởng theo niên hạn là khen thưởng cho cá nhân thuộc Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân, có thành tích, có thời gian tham gia xây dựng

lực lượng vũ trang nhân dân theo quy định.
Khen thưởng đối ngoại là khen thưởng cho tập thể, cá nhân người nước
ngồi có thành tích đóng góp vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam ở một trong các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng, ngoại giao hoặc lĩnh vực khác.
Theo quy định về TĐKT thì việc khen thưởng phải căn cứ vào thành
tích của tập thể, cá nhân. Các bước thực hiện chính sách khen thưởng như
sau:
Bước 1. Đánh giá, cơng nhận thành tích của tập thể, cá nhân
Hội đồng TĐKT bộ, ban, ngành, địa phương có trách nhiệm giúp
Người đứng đầu đánh giá thành tích của tập thể, cá nhân có phạm vi ảnh
hưởng trong tồn quốc; ảnh hưởng trong bộ, ban, ngành, địa phương hoặc
trong ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý.
Đối với các hình thức khen thưởng thuộc thẩm quyền của bộ, ban,
ngành, địa phương; cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hoặc trực thuộc bộ, ban,
ngành, địa phương, việc đánh giá, công nhận mức độ hoàn thành xuất sắc

20


nhiệm vụ, phạm vi ảnh hưởng của thành tích do Người đứng đầu quyết định
và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Đối với các hình thức khen thưởng cấp Nhà nước việc đánh giá, cơng
nhận thành tích và đề nghị cấp trên khen thưởng do Người đứng đầu bộ, ban,
ngành, địa phương thực hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Bước 2. Hội đồng TĐKT tổ chức họp xét khen thưởng
Cơ quan thường trực Hội đồng có trách nhiệm tham mưu cho Chủ tịch
Hội đồng tổ chức họp Hội đồng. Hội đồng họp khi có ít nhất 2/3 thành viên
tham dự. Chủ tịch Hội đồng chủ trì hội nghị hoặc ủy quyền cho 01 Phó Chủ
tịch Hội đồng chủ trì. Chủ tịch Hội đồng thực hiện bỏ phiếu như các thành

viên khác. Cơ quan thường trực Hội đồng xin ý kiến các thành viên vắng mặt
bằng văn bản, tổng hợp, báo cáo Chủ tịch Hội đồng; hoàn thiện Biên bản họp
Hội đồng và hồ sơ đề nghị khen thưởng theo quy định.
Bước 3. Người đứng đầu bộ, ban, ngành, địa phương phê duyệt danh
sách khen thưởng, ký Quyết định khen thưởng đối với tập thể, cá nhân theo
thẩm quyền; hoặc đề xuất cấp trên khen thưởng, cơ quan thường trực Hội
đồng có trách nhiệm tham mưu cho Chủ tịch Hội đồng hoàn thiện hồ sơ để đề
nghị cấp trên khen thưởng theo thẩm quyền.
1.1.6. Khen thưởng cho người lao động trực tiếp
Chính sách khen thưởng của Đảng và Nhà nước ta ln đảm bảo
ngun tắc chính xác, cơng khai, cơng bằng, kịp thời. Tuy nhiên, vì trong luật
khơng có quy định riêng về khen thưởng cho NLĐ trực tiếp nên từng lúc,
từng nơi, quá trình thực hiện các quy định về TĐKT vẫn cịn tình trạng thiên
vị, cả nể, có nơi khen cấp lãnh đạo nhiều hơn NLĐ trực tiếp, chỉ đến khi Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều Luật TĐKT được ban hành năm 2013 thì mới có
các điều khoản quy định khen thưởng cho NLĐ trực tiếp. Tuy nhiên, khái
niệm NLĐ trực tiếp vẫn chưa được đề cập trong Luật. Để hướng dẫn rõ hơn

21


chính sách khen thưởng cho NLĐ trực tiếp, Chính phủ đã lần lượt ban hành
các Nghị định hướng dẫn thi hành, đó là Nghị định số 65/2014/NĐ-CP ngày
01/7/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật thi đua, khen thưởng năm 2013 và Nghị định số
91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật thi đua, khen thưởng.
Từ cơ sở các khái niệm về khen thưởng và NLĐ trực tiếp được đề cập ở
trên, có thể hiểu khen thưởng cho NLĐ trực tiếp theo khái niệm sau:
Khen thưởng cho NLĐ trực tiếp là quyết định của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền nhằm tun dương đối với NLĐ trực tiếp có thành tích trong việc
thực hiện các chức trách, nhiệm vụ được giao, có tinh thần và trách nhiệm, có
ý thức sáng tạo xây dựng lợi ích chung tổ chức, cộng đồng, thơng qua khen
thưởng cho NLĐ trực tiếp nhằm động viên tinh thần, tơn vinh để NLĐ có ý
chí vươn lên, phấn đấu trong công việc và cùng xây dựng một tập thể vững
mạnh, xuất sắc.
Theo đó, đối tượng được khen thưởng là cá nhân trực tiếp lao động
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định với các hình thức khen
thưởng do lập thành tích trong lao động, sản xuất, xây dựng, bảo vệ tổ quốc,...
Đó có thể là những hình thức vinh danh với các danh hiệu cao quý của Đảng,
Nhà nước được quy định trong Luật TĐKT hoặc khen đột xuất hay trực tiếp
từ lãnh đạo cơ quan mà NLĐ trực tiếp đó làm việc, cơng tác.
1.2. Mục đích, u cầu, tầm quan trọng của cơng tác khen thưởng
và thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp
1.2.1. Vai trò của người lao động trực tiếp
Trong các doanh nghiệp hoặc cơ quan, đơn vị hành chính, NLĐ có vai
trị trực tiếp tạo ra các sản phẩm, dịch vụ, thực hiện các hoạt động kinh doanh
hoặc tham mưu giải quyết các công việc bằng sức lực, đôi tay và kỹ năng

22


nghề nghiệp, chun mơn, nghiệp vụ của mình. Ở từng vị trí khác nhau, có
thể là cơng chức, viên chức, công nhân, nông dân,… số lượng NLĐ trực tiếp
chiếm đa số trong mỗi tổ chức, cơ quan hoặc doanh nghiệp. Nếu khơng có
NLĐ trực tiếp bằng sức lực và đơi tay, trí tuệ của mình ln cần mẫn, âm
thầm đóng góp thì nền kinh tế - xã hội của đất nước sẽ không đạt được những
thành tựu nhất định, họ chính là những người thực thi các nhiệm vụ cụ thể ở
các đơn vị, địa phương và là lực lượng nòng cốt để việc triển khai các phong
trào thi đua yêu nước đạt được hiệu quả và có thành tựu đến hơm nay.

1.2.2. Mục đích, u cầu của cơng tác khen thưởng
Công tác khen thưởng nhằm tạo động lực, động viên, lơi cuốn, khuyến
khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng
tạo vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; đồng thời, khen thưởng cũng
là để ghi nhận, biểu dương, khuyến khích bằng lợi ích vật chất, tinh thần đối
với tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong xây dựng, phát triển và bảo
vệ Tổ quốc.
Công tác khen thưởng phải gắn với phong trào thi đua và nhiệm vụ
chính trị của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Các hình thức khen thưởng
đều xuất phát từ phong trào thi đua, ngoại trừ khen thưởng đột xuất, khen
thưởng cống hiến. Các cá nhân và tập thể được khen thưởng phải thực sự là
hạt nhân tiêu biểu xuất sắc, là nòng cốt và điển hình trong phong trào thi đua.
Việc khen thưởng phải bảo đảm chính xác, cơng bằng, cơng khai và kịp
thời, phải có tác dụng giáo dục, động viên thúc đẩy phong trào thi đua, khơi
dậy óc tìm tịi sáng tạo, phát huy trí tuệ, năng lực, tính tích cực của mỗi cá
nhân và tập thể. Do đó, khen thưởng phải chính xác, cơng khai, cơng bằng và
kịp thời mới có tác dụng động viên nêu gương. Khen thưởng phô trương hình
thức và báo cáo thiếu trung thực, khơng chính xác, công bằng và kịp thời sẽ
làm mất tác dụng và ý nghĩa của nó. Người được khen thưởng đúng cảm thấy

23


được trân trọng và vinh dự, từ đó phát huy được tính tích cực trong các cơng
việc được giao. Người không được khen thưởng cũng thấy được trách nhiệm,
nghĩa vụ của mình cần phải phấn đấu để được ghi nhận trong thời gian tới.
Công tác khen thưởng phải hướng đến đơn vị cơ sở, cá nhân tiêu biểu
trên mọi lĩnh vực. Khen trước hết tập trung cho các đơn vị dưới cơ sở, bao
gồm các tổ, đội, tiểu đội, trung đội, phân xưởng, trạm trại, khu phố, thôn ấp,
làng bản,…Sở dĩ như vậy là vì cơ sở là nơi hiểu được rất rõ về người mà mình

đề xuất và phát huy tác dụng thực tế.
Một hình thức khen thưởng có thể tặng nhiều lần cho một đối tượng.
Trong quá trình học tập, lao động và công tác của các cá nhân và tập thể có
thể lập được nhiều thành tích khác nhau trên nhiều lĩnh vực; khi xem xét đề
nghị khen thưởng phải căn cứ vào thời gian, phạm vi ảnh hưởng, cơng lao
đóng góp, hình thức và điều kiện lập được thành tích. Do đó, khơng nhất thiết
một đối tượng phải khen nhiều hình thức khác nhau; thành tích đạt được, cơng
lao đóng góp trong điều kiện và hồn cảnh khác nhau nhưng có cùng chung
một mức hình thức khen thưởng, thì có thể tặng nhiều lần cho một đối tượng.
Đối tượng khen thưởng phải cân đối, hài hòa. Khen thưởng thành tích
tồn diện phải song song với thành tích từng mặt cơng tác, cần khuyến khích
khen thưởng thành tích từng mặt cơng tác. Khi xét khen thưởng một mặt công
tác xuất sắc phải đảm bảo yêu cầu các mặt cơng tác khác đạt mức thành tích
tốt. Khen thưởng từng mặt công tác làm cơ sở khen thưởng thành tích tồn
diện cho một đơn vị, địa phương, ngành. Sự cân đối hài hòa trong khen
thưởng còn thể hiện ở khen thưởng thành tích thường xuyên hàng năm (dựa
vào tổng kết phong trào thi đua) song song với việc khen thưởng thành tích
đột xuất, khen thưởng chuyên đề.
Khen về tinh thần phải đi đôi với thưởng về vật chất. Khen đi đôi với
thưởng thỏa đáng cũng là một yêu cầu khơng thể thiếu được trong tình hình

24


hiện nay vì “trăm đồng tiền cơng khơng bằng một đồng tiền thưởng”, để động
viên những cá nhân và tập thể có thành tích xuất sắc đóng góp cho việc thực
hiện tốt các nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Hình thức
khen cao phải được thưởng vật chất cao hơn. Tuy khuyến khích vật chất là
một động lực, song nhìn chung khơng nên nhấn mạnh q đến yếu tố vật chất.
Khen thưởng vẫn phải mang ý nghĩa tinh thần, động viên là chủ yếu, cần quan

tâm hơn trong việc sử dụng các đòn bẩy về chế độ chính sách kèm theo như
những người được khen thưởng cao với thành tích xuất sắc được quan tâm
cho đi đào tạo, bồi dưỡng, nâng lương, đề bạt…để tạo ra sức hút, động lực
của phong trào thi đua.
1.2.3. Yêu cầu của việc khen thưởng đối với người lao động trực tiếp
NLĐ trực tiếp bao gồm những người trực tiếp lao động, sản xuất, công
tác, học tập, chiến đấu,…là những người góp phần quan trọng khơng thể thiếu
được trong việc hồn thành các nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan,
đơn vị. Họ là những người, trong công việc thực hiện hàng ngày, hàng giờ,
luôn đối mặt với điều kiện vật chất, phương tiện, kỹ thuật sẵn có để làm ra sản
phẩm, có thể gặp tai nạn nghề nghiệp hoặc đôi khi là sự bất thường của thời
tiết, sự cố kỹ thuật,... Do đó, trong cơng tác khen thưởng cần chú trọng khen
thưởng cho NLĐ trực tiếp nhằm động viên tinh thần, tơn vinh đối với kết quả,
thành tích đạt được; thông qua khen thưởng bằng vật chất nhằm giúp NLĐ tái
tạo sức lao động, có ý chí vươn lên, khắc phục khó khăn, phấn đấu trong cơng
việc để cải thiện cuộc sống của bản thân, gia đình và đóng góp vào sự phát
triển chung của cộng đồng, của tồn xã hội.
Khi khen thưởng cho NLĐ trực tiếp phải kịp thời, đúng lúc, làm cho cá
nhân được khen cảm thấy được trân trọng và vinh dự, tin tưởng vào đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời,
giúp NLĐ thấy được tính cơng bằng trong các hình thức khen, từ đó phát huy

25


×