Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KHEN THƯỞNG CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRỰC TIẾP TRÊN địa bàn TỈNH GIA LAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.93 KB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ HOÀI THANH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KHEN THƯỞNG CHO
NGƯỜI LAO ĐỘNG TRỰC TIẾP TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH GIA LAI
Ngành: Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ THỊ HẢI NAM

ĐẮK LẮK, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng nội dung của bản luận văn này chưa đuợc nộp cho
bất kỳ một chương trình cấp bằng cao học nào, cũng như một chương trình đào
tạo cấp bằng nào khác.
Tôi xin cam đoan các kết quả, phân tích và kết luận nghiên cứu trong luận
văn thạc sĩ Chính sách công về “Thực hiện chính sách khen thưởng cho người
lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai” (ngoài các phần được trích dẫn)
đều là kết quả làm việc của cá nhân tôi với sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê
Thị Hải Nam.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Lê Hoài Thanh




LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc,
Quý thầy cô khoa Chính sách công, cùng Lãnh đạo các khoa, phòng của Học
viện Khoa học xã hội đã tận tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp
đỡ tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu tại học viện.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn cô giáo TS. Lê Thị Hải Nam đã tận
tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thiện luận văn.
Luận văn được hoàn thành với sự nỗ lực của bản thân trong tìm hiểu tài
liệu, số liệu và khảo sát thực tế để tổng hợp, đánh giá. Dù rất cố gắng nhưng
trong quá trình nghiên cứu khó tránh khỏi sai sót, rất mong quý thầy, cô góp ý.
Đồng thời do thời gian và trình độ lý luận, sự hiểu biết cũng như kinh nghiệm
thực tiễn còn hạn chế nên luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong nhận được ý kiến đóng góp từ quý thầy cô để bản thân học hỏi thêm được
nhiều kinh nghiệm và sẽ hoàn thành tốt hơn công việc trong thực tiễn sắp tới.
Học viên

Lê Hoài Thanh


MỤC LỤC

Chương 1.

1.1.

1.2.


1.3.

Chương 2.

2.1.

2.2.

2.3.


Chương 3.

3.1.

3.2.

3.3

3.4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI

STT
1.
2.
3.
4.
5.

6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.


DANH MỤC BẢNG
Số
hiệu

T

bảng
2.1
2.2

2.3

Về kết quả khen thưởng ch

Về kết quả danh hiệu Chiến

từ năm 2014 đến năm 2018
Về kết quả Bằng khen của


từ năm 2014 đến năm 2018

2.4.

Tổng hợp kết quả khen thư

2.5

Tổng hợp kết quả khen thư

DANH MỤC SƠ ĐỒ
Số
hiệu
sơ đồ
2.1

2.2

Về kết quả danh hiệu Ch

từ năm 2014 đến năm 20

Về kết quả Bằng khen củ

từ năm 2014 đến năm 20


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự
quan tâm, chỉ đạo sâu sắc đối với các phong trào thi đua và công tác khen thưởng,
đặc biệt là đã có nhiều chính sách, quy định pháp luật quan trọng điều về TĐKT.
Thi đua và khen thưởng là hai hoạt động luôn gắn kết và hỗ trợ cho nhau trong
nhiều phong trào từ lớn đến nhỏ, từ cả nước đến mỗi cụm dân cư. Khen thưởng là
một nội dung không thể thiếu của phong trào thi đua. Thi đua mà không có khen
thưởng thì rất khó để duy trì và tạo động lực cho người lao động. Trong thực tiễn
khen thưởng đã luôn tạo động lực thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước phát triển,
góp phần dành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất
nước Việt Nam. Qua khen thưởng đã xuất hiện nhiều tấm gương anh hùng, dũng sĩ,
chiến sĩ thi đua, tấm gương điển hình tiên tiến “người tốt” “việc tốt”.
Thực hiện lời kêu gọi thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh:“Thi đua
là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua, những người thi đua là những người yêu
nước nhất”, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước các phong trào thi đua yêu nước
trong những năm qua đã liên tục được phát động, động viên, cổ vũ các tầng lớp
nhân dân phát huy truyền thống yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất, vượt qua khó
khăn, thử thách, lập nên những chiến công hiển hách trong kháng chiến chống đế
quốc xâm lược cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật về thi đua, khen
thưởng được ban hành và được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhằm đáp ứng tốt tình
hình thực tế về thi đua, khen thưởng trong mỗi giai đoạn đổi mới của đất nước và
phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế.
Luật Thi đua, khen thưởng được ban hành và sửa đổi gần nhất là năm 2013
cho thấy công tác thi đua, khen thưởng ngày càng được chú trọng và quan tâm. Luật
sửa đổi bổ sung nhiều quy định mới về nội dung và hình thức khen thưởng, trong đó
chú trọng hơn tới đối tượng khen thưởng là cá nhân. Nghị định hướng dẫn Luật thi
1


đua, khen thưởng đã quy định về nguyên tắc khen thưởng cần chú trọng tới người

lao động trực tiếp, người trực tiếp thực hiện các phong trào thi đua. Đây là một bước
tiến quan trọng, cho thấy người lao động trực tiếp đã được quan tâm biểu dương,
ghi nhận công sức và khen thưởng được làm rõ trong chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Trước 2013 chính sách, quy định khen thưởng cụ thể cho người lao động trực
tiếp không nhiều, cho đến khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua,
khen thưởng (năm 2013) đề cập đến mục tiêu của thi đua rất cụ thể đó là: “Tạo
động lực lôi cuốn, khuyến khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu
nước, ...hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao” (Điều 1) và được cụ thể hóa tại Nghị
định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
Luật thi đua, khen thưởng, theo đó, quy định về nguyên tắc khen thưởng: “Khen
thưởng phải căn cứ vào điều kiện, tiêu chuẩn và thành tích đạt được, không nhất
thiết phải có hình thức khen thưởng mức thấp mới được khen thưởng mức cao hơn.
Chú trọng khen thưởng tập thể nhỏ và cá nhân là người trực tiếp lao động, sản
xuất, học tập, công tác hoặc chiến đấu, phục vụ chiến đấu”; quy định cụ thể các
điều kiện, tiêu chuẩn khen thưởng cho người lao động trực tiếp tại các Điều 22, 23,
24 và 38.
Để triển khai thực hiện Luật Thi đua, khen thưởng; Nghị định số
91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thi
đua, khen thưởng, tỉnh Gia Lai đã kịp thời ban hành Quyết định số 33/2018/QĐUBND ngày 28/12/2018 về ban hành quy định thi đua, khen thưởng trên địa bàn
tỉnh Gia Lai nhằm cụ thể hóa quy định luật thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh,
trong đó, cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện khen thưởng cho nông dân, người lao động
trực tiếp.
Từ những nội dung nêu trên cho thấy pháp luật hiện hành tuy đã có những
quy định cụ thể về khen thưởng cho người lao động trực tiếp, song trên thực tế việc
thực hiện nội dung này trong thực tiễn còn có những khó khăn và vướng mắc. Các
hướng dẫn về khen thưởng cho đối tượng là người lao động trực tiếp, khái niệm về
2



người lao động trực tiếp, công tác khen thưởng cho người lao động trực tiếp mới chỉ
dùng lại ở những điểm còn chung chung, chưa được quy định cụ thể, chi tiết. Mặc
dù nhiều năm qua, đối tượng lao động trực tiếp đã được khen thưởng, nhưng số
lượng không nhiều, không đồng đều. Công tác khen thưởng chưa thực sự chú trọng
nhiều đến người lao động trực tiếp và chưa thực sự quyết liệt.
Mặt khác, trong thực hiện trên thực tế vẫn còn tình trạng khen thưởng chưa
thực sự đúng người, còn có cách nghĩ cách làm “hoa thơm mỗi người hưởng một tý”
làm cho giá trị của công tác khen thưởng không còn nguyên bản.
Trên thực tế nếu khen thưởng đúng sẽ góp phần quan trọng trong việc xây
dựng cuộc sống mới, con người mới, nền văn hóa mới, thực sự làm cho cái thiện,
mặt tốt trong mỗi con người ngày càng được nhân lên làm cho cái xấu, cái ác đẩy
lùi trong xã hội. Khen thưởng đúng sẽ tạo động lực cho mỗi người trong lao động,
học tập và hướng thiện. Khen thưởng thiếu thực chất sẽ tác động ngược lại, làm cho
phong trào thi đua và động lực của người lao động giảm sút, tác động tiêu cực đến
mỗi người và toàn xã hội.
Trước tình hình đó, với trách nhiệm là người làm công tác khen thưởng của
tỉnh Gia Lai học viên đã lựa chọn vấn đề: “Thực hiện chính sách khen thưởng cho
người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai.” làm đề tài luận văn của mình,
với mong muốn bổ sung và làm sáng rõ thêm các vấn đề lý luận về khen thưởng,
chính sách khen thưởng, khen thưởng cho người lao động trực tiếp; rà soát, tổng
hợp và phân tích các quy định pháp luật về khen thưởng cho người lao động, đánh
giá tình hình thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp và trên
địa bàn tỉnh Gia Lai. Từ đó, đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả, chất lượng thực hiện chính sách khen thưởng cho đối tượng này trên địa bàn
tỉnh Gia Lai trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tính đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về thực hiện chính sách
khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Tuy nhiên, có
một số công trình nghiên cứu về thi đua, khen thưởng và chính sách khen thưởng
3



nhưng chủ yếu tập trung vào quản lý hoạt động thi đua khen thưởng, pháp luật về
thi đua khen thưởng, cụ thể là:
Tài liệu dạng sách và đề tài khoa học:
- Ban Thi đua - khen thưởng Trung ương (2008), Đảng, Bác Hồ với thi đua

yêu nước và công tác TĐKT”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
- Nguyễn Thế Thắng (2012), Những vấn đề lý luận chung về thi đua, khen

thưởng, đề tài khoa học cấp Nhà nước, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trần Thị Hà (2013), Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới thi đua khen thưởng

trong giai đoạn hiện nay, đề tài khoa học cấp Nhà nước, Ban TĐKT Trung ương.
- Phạm Thu Thuỷ (2017), “Nâng cao chất lượng công tác khen thưởng cho

người lao động trực tiếp ở nước ta hiện nay”, Đề tài cấp khoa học cấp Bộ, Ban
TĐKT Trung ương.
Tài liệu dạng luận án, luận văn có:
- Đỗ Thúy Phượng (2010), Hoàn thiện pháp luật về TĐKT ở Việt Nam, luận

văn thạc sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Dương Thị Tuyết Nhung (2015), Quản lý nhà nước về TĐKT trong các
trường đại học trên địa bàn Hà Nội, luận văn thạc sỹ luật học, Học viện KHXH.
- Nguyễn Đức Hiếu (2016), Hoàn thiện công tác TĐKT tại Viện Hàn lâm

Khoa học xã hội Việt nam, Luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh, Học viện KHXH.
- Phùng Ngọc Tấn (2016), Pháp luật về thi đua khen thưởng ở Việt Nam hiện

nay, luận án tiến sĩ luật hiến pháp và luật hành chính, Học viện KHXH.

- Bùi Tuyết Nhung (2017) “Về thực hiện chính sách TĐKT từ thực tiễn của

Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam” , luận văn thạc sĩ chính sách công, Học Viện
KHXH.
Tài liệu bài tạp chí có:
- Phùng Ngọc Tấn (2014), Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực

hiện pháp luật về thi đua khen thưởng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật.

4


- Nguyễn Đình Châu (2014), Tăng cường làm tốt công tác TĐKT góp phần

thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng con người mới của Đảng trong giai đoạn
hiện nay, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 213 (tháng 5).
- Lê Văn Phong (2014), Công tác thi đua, khen thưởng ở Học viện Chính trị

Quốc gia Hồ Chí Minh (2009-2014), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 9, tr. 52-56.
Các công trình nêu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của công
tác thi đua khen thưởng, như một số vấn đề về lý luận và thực tiễn về công tác thi
đua khen thưởng: Khái niệm, hình thức, nội dung, yêu cầu công tác thi đua, công tác
khen thưởng; thực trạng pháp luật về thi đua khen thưởng, giải pháp và kiến nghị
hoàn thiện pháp luật.
Đáng chú ý là Luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Tuyết Nhung nghiên cứu “về
thực hiện chính sách TĐKT từ thực tiễn của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam”. Đây
là nguồn tài liệu có giá trị mà học viên có thể tham khảo, kế thừa có chọn lọc để
phục vụ cho nghiên cứu của mình.
Tuy nhiên, nghiên cứu trực tiếp về thực hiện chính sách khen thưởng cho
người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai theo tài liệu học viên đã tìm hiểu

nghiên cứu thì cho tới nay chưa có tác giả nào thực hiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách
khen thưởng cho người lao động trực tiếp ở tỉnh Gia Lai, đề xuất các giải pháp và
kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khen thưởng cho người lao
động trực tiếp ở tỉnh Gia Lai hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản và các quy định pháp luật, văn
bản hướng dẫn về công tác khen thưởng.
Mô tả, phân tích và đánh giá thực trạng tổ chức và thực hiện chính sách
khen thưởng cho người lao động trực tiếp ở tỉnh Gia Lai.
5


Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực
hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp và thực hiện chính sách
khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung nghiên cứu: Thực hiện chính sách khen thưởng cho người

lao động trực tiếp.
- Về không gian: Tỉnh Gia Lai
- Về thời gian: từ năm 2014 đến năm 2018


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng

Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và quy định pháp luật Nhà nước về TĐKT.
- Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp phân tích: được sử dụng khi đánh giá các quan điểm, đường

lối của Đảng, các quy định pháp luật. Đề tài cũng sử dụng phương pháp này đối với
việc phân tích các số liệu trong bảng tổng hợp, tính toán tỷ lệ % để thấy được thực
trạng công tác khen thưởng cho người lao động trực tiếp ở tỉnh Gia Lai hiện nay.
+ Phương pháp tổng hợp: Sử dụng để tóm lược, rút ra những kết luận của vấn

đề nghiên cứu. Tổng hợp các kết quả nghiên cứu, số liệu thống kê về đối tượng
khen thưởng là người lao động trực tiếp từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn
tỉnh qua các báo cáo về công tác thi đua, khen thưởng hàng năm.
+ Phương pháp so sánh: Sử dụng khi phân tích, đánh giá các Nghị quyết,
chuyên đề của Đảng, các quy định của pháp luật về chính sách khen thưởng cho
người lao động trực tiếp qua các giai đoạn lịch sử so sánh với việc thực hiện chính
sách và quy pháp luật trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận:

6


Hệ thống hóa những quan niệm, quan điểm lý luận về khen thưởng, công tác
khen thưởng và làm rõ thêm một số vấn đề mang tính chất mới về khen thưởng cho
người lao động trực tiếp, khái niệm người lao động trực tiếp và các nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng khen thưởng cho đối tượng này.

- Về thực tiễn:
Cung cấp số liệu về kết quả thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao
động trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai ở các cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Đề xuất
một số giải pháp cơ bản như bổ sung, sửa đổi pháp luật về khen thưởng cho người
lao động trực tiếp; ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể của tỉnh Gia Lai về khen
thưởng cho người lao động trực tiếp để phù hợp với thực tiễn của tỉnh Gia Lai để
điều chỉnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khen thưởng cho người lao động
trực tiếp ở tỉnh Gia Lai hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu; phần Kết luận; Luận văn này có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về chính sách khen thưởng và khen thưởng
cho người lao động trực tiếp.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách khen thưởng đối với người lao
động trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
Chương 3. Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách
khen thưởng cho người lao động trực tiếp ở tỉnh Gia Lai hiện nay.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH KHEN THƯỞNG VÀ
KHEN THƯỞNG CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRỰC TIẾP
1.1. Một số khái niệm cơ bản về khen thưởng, chính sách khen thưởng
và người lao động
1.1.1. Khen thưởng
Khen thưởng là khái niệm không xa lạ, bởi khái niệm này được tiếp cận ở
nhiều văn bản về thi đua, khen thưởng qua từng thời kỳ khác nhau. Khen thưởng
được hiểu chung là việc làm của một cá nhân, tổ chức một cách chính thức đối với
đối tượng có thành tích nào đó.

Trong lịch sử đất nước, việc khen thưởng thường diễn ra rất đa dạng như:
“Khen thưởng người có công trong chiến trận, người có công trong việc đi sứ,
người phò tá có công lao tài đức, người tiến cử người hiền tài, người có lời tâu
đúng, người cấp dưới giữ đúng phép công, không vị nể người quyền quý cấp trên,
người có công làm thuỷ lợi, người có tài văn chương, người cao tuổi”[1].
Hình thức khen thưởng cũng rất đa dạng. Nếu còn sống người được khen
thưởng có thể nhận được một trong các hình thức: Được ban họ vua (Quốc thính),
được ghi công vào sử sách, được vẽ hình, được dựng bia ghi công, được phong
chức, được thưởng vàng bạc, được cấp ruộng đất. Nếu người có công đã mất thì vua
đích thân làm văn tế, giảm ăn, nghỉ coi trầu một số ngày, truy phong, truy tặng hoặc
gửi vàng bạc, lụa để viếng, phong quan chức cho con, cấp ruộng cho con cháu thờ
cúng.
Đối tượng khen thưởng rất rộng, từ người già đến trẻ em, từ nam giới đến nữ
giới, từ người Kinh đến người dân tộc thiểu số đều được khen thưởng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc khen thưởng, Người nêu rõ:
“Thưởng phạt phải nghiêm minh, có công thì thưởng, có lỗi thì phạt; có công mới
có huân, phải có công huân mới được thưởng huân chương, thưởng cái nào đích

8


đáng cái ấy khen thưởng phải có tác dụng động viên, giáo dục, nêu gương”[28,
tr.20].
Ngay sau khi giành được chính quyền, ngày 26/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký ban hành Quốc lệnh 10 điều thưởng của Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, gồm:
“1. Nhà nào có 3 con tòng quân sẽ được thưởng.
2. Ai lập được quân công sẽ được thưởng.
3. Ai vì nước hy sinh sẽ được thưởng.
4. Ai ra trận can đảm phi thường sẽ được thưởng.

5. Ai làm việc một cách trong sạch, ngay thẳng sẽ được thưởng.
6. Ai làm việc gì có lợi cho nước nhà, dân tộc, được dân chúng mến phục sẽ

được thưởng.
7. Ai bỏ tiền ra xây đắp cầu cống, đê, đường sẽ được thưởng.
8. Ai bắt được những kẻ phản quốc sẽ được thưởng.
9. Ai liều mình về công việc sẽ được thưởng.
10. Ai cứu được người bị nạn sẽ được thưởng.[28, tr.19]
10 điều khen thưởng này chính là nền tảng tư tưởng, nguyên tắc pháp lý chỉ

đạo việc khen thưởng trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu
nước và trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường nhắc cán bộ làm công tác thi đua, khen
thưởng: “Trong một nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn,
kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công”[29]. Sau đó, năm 1947, Chủ
tịch Hồ Chí Minh lần lượt ký các Sắc lệnh thành lập Viện Huân chương, ban hành
Sắc lệnh đặt ra các Huân chương Quân công, Huân chương Chiến sĩ, Huân chương
Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập. Năm 1948 đặt ra
Huân chương Kháng chiến, năm 1959 đặt ra Huân chương Lao động. Chính phủ
cũng đã quy định các danh hiệu Anh hùng Quân đội, Anh hùng Nông nghiệp, Anh
hùng Công nghiệp năm 1952 để khen thưởng kịp thời những cá nhân và đơn vị có
thành tích trong cuộc kháng chiến kiến quốc.
9


Từ thực tiễn lịch sử trên đây, khen thưởng được hiểu là quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền để nhận xét, đánh giá về một tổ chức, cá nhân có
thành tích xuất sắc, có công đối với đất nước trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua khen thưởng năm 2013,
tại Khoản 2, Điều 3 định nghĩa về khái niệm khen thưởng như sau: “Khen thưởng

là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật
chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Khen thưởng là một trong những nội dung và hình thức không thể thiếu
trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức nhằm ghi nhận, biểu dương, tôn vinh
thành tích, công trạng, quá trình hoạt động đóng góp của tập thể và cá nhân trong
xây dựng, phát triển cơ quan, đơn vị và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.2. Người lao động trực tiếp
Cho đến nay vẫn chưa có khái niệm chính thức về người lao động trực tiếp.
Trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước Việt Nam, các khái niệm về
lao động trực tiếp, lao động gián tiếp, người lao động, cán bộ quản lý, người lao
động trực tiếp đã được đề cập và sử dụng ở các mức độ sau đây:
Theo Bộ Luật lao động và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi
hành Luật lao động và một số công trình nghiên cứu [2] thì khái niệm “người lao
động” là dùng để chỉ một đối tượng chung là người làm công ăn lương, người trực
tiếp sử dụng sức lao động để tạo ra sản phẩm, của cải, cụ thể có thể hiểu dưới các
góc độ dưới đây:
Người lao động là người làm công ăn lương, là lao động phổ thông như:
Người công nhân, nông dân, thợ (thợ cả, thợ phụ, thợ lành nghề, thợ chưa lành
nghề), người làm thuê, người giúp việc.
Người lao động là người làm công ăn lương là người lao động trí thức như:
công chức, viên chức, cán bộ, các chuyên gia trong các ngành, lĩnh vực khác nhau
như công nghệ, kinh tế, ngoại thương, ngoại giao...
Đặc điểm của người lao động là “bán công sức”, có thể là sức khỏe, trí tuệ...
để làm ra của cải vật chất hoặc các sản phẩm mang tính sáng tạo, mang tính đặc thù
10


như là “lao động mềm trong nền công vụ” phục vụ cho người thuê lao động (chủ
lao động). Các công việc được thuê làm đối với người lao động này thường được
tuân thủ bởi các hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc (bằng miệng hoặc văn bản)

hoặc các quyết định tuyển dụng của cơ quan quản lý nhà nước... để họ làm việc,
đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng.
- Có thể nhìn nhận khái niệm “Người lao động trực tiếp” dưới các góc độ

khác nhau như:
+ Nhìn dưới góc độ lao động, sản xuất, người lao động trực tiếp có thể được
hiểu là: Người làm ra sản phẩm cụ thể, trực tiếp cầm, nắm, sản xuất hoặc điều
khiển trực tiếp để tạo ra sản phẩm.
Người lao động trực tiếp là những người lao động bình thường trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội, như công nhân lao động trực tiếp, người nông dân trực tiếp
lao động, canh tác, giáo viên đứng lớp, người nghệ sĩ biểu diễn, người lao động dọn
vệ sinh, những hộ lý, điều dưỡng trong các bệnh viện hoặc những người âm thầm,
lặng lẽ trực tiếp làm các nhiệm vụ tình nguyện, thiện nguyện...
+ Nhìn dưới góc độ quản lý nhà nước, người lao động trực tiếp có thể hiểu là

cán bộ, công chức, viên chức và không giữ chức vụ lãnh đạo quản lý; có thể là
người làm công ăn lương và được cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp trả lương
cho họ và không phải là lãnh đạo, quản lý, không phải là đối tượng được hưởng
phụ cấp chức vụ lãnh đạo theo quy định của nhà nước. Ví dụ như: công chức, viên
chức bình thường, giáo viên, bác sĩ, y tá, y sĩ, các văn nghệ sĩ… được hưởng lương
từ ngân sách nhà nước nhưng không thuộc diện lãnh đạo quản lý.
Nếu so với sản phẩm của người lao động trực tiếp là công nhân, nông dân
với sản phẩm của đối tượng là người lao động trực tiếp nhìn nhận dưới góc độ quản
lý có phần khác và mang tính đặc thù hơn. Sản phẩm của họ mang tính trí tuệ và
“đầu ra” của sản phẩm là các văn bản tham mưu cho đội ngũ lãnh đạo nhà nước,
các ý tưởng đổi mới trong cải cách, tổ chức bộ máy nhà nước, các công việc mang
lại hiệu quả lớn cho xã hội như chăm sóc người bệnh, điều chế thuốc, gìn giữ văn
hóa cội nguồn dân tộc....
11



Đến nay, khái niệm “người lao động trực tiếp” vẫn chưa có một định nghĩa
cụ thể, chính thức bằng văn bản từ cơ quan quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu...
được công nhận hoặc được đông đảo công chúng công nhận về khái niệm này.
Từ những quan điểm quy định pháp luật nêu trên, khái niệm “người lao động
trực tiếp” có thể hiểu đối ngược với khái niệm “người lao động gián tiếp”. Người
lao động gián tiếp là những người được bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý
theo quy định, những người không trực tiếp tạo ra sản phẩm mà chỉ là người có
công trong việc đóng góp một phần công sức, hỗ trợ để làm ra sản phẩm đó mà
thôi. Ví dụ, trong một môi trường sản xuất máy móc hoặc chế biến, chế tạo sản
phẩm, người lao động gián tiếp là người có công hỗ trợ trong việc tạo ra sản phẩm
như người quản lý, người hỗ trợ về nhân sự, người thiết kế, người phục vụ....
Từ các mô tả trên có thể rút ra đặc điểm người lao động trực tiếp như sau:
Là người lao động trực tiếp làm việc ở nhiều môi trường, nhiều công việc khác
nhau trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; Không phân biệt tuổi tác, giới
tính; Trực tiếp làm ra sản phẩm, của cải vật chất hoặc trực tiếp tạo ra những giá trị
tốt đẹp cho xã hội từ bàn tay, khối óc, trí tuệ của bản thân.
1.1.3. Chính sách, chính sách công
Chính sách được hiểu là tập hợp các quyết định hay chương trình hành động
do tập thể các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó
thuộc phạm vi thẩm quyền của mình [3]. Chính sách là một công cụ quan trọng của
quản lý. Mọi tổ chức, mọi cấp quản lý đều phải sử dụng các công cụ quản lý như
chính sách, quyết định quản lý, kế hoạch, chiến lược, quy định pháp luật để tác
động lên đối tượng quản lý theo một cách thức nào đó nhằm đạt tới mục tiêu mong
muốn.
“Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của
Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp, công cụ chính sách nhằm giải
quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định” [6, tr.12].
1.1.4. Chính sách khen thưởng
Chính sách khen thưởng là một hợp phần của chính sách công.

12


Luật Thi đua, khen thưởng đã xác định: “Thi đua là hoạt động có tổ chức với
sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt
nhất trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc; Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương,
tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể
có thành tích trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chính phủ thống nhất quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng trong phạm vi cả nước”.
Hiện nay, chưa có một khái niệm cụ thể nào về Chính sách khen thưởng. Từ
khái niệm chung của chính sách công, cùng với các khái niệm về thi đua, khen
thưởng có thể định nghĩa: Chính sách khen thưởng là tập hợp các quy định, quyết
sách của Nhà nước nhằm đưa ra các công cụ và cách thức giải quyết các vấn đề liên
quan đến công tác khen thưởng và hoạt động khen thưởng. Các cơ quan trong hệ
thống hành pháp và mọi cá nhân, tổ chức có nhiệm vụ chấp hành quyết sách này
trong lĩnh vực hoạt động thi đua, khen thưởng theo đúng quy định của pháp luật.
1.1.5. Thực hiện chính sách khen thưởng
Thực hiện chính sách khen thưởng, là toàn bộ quá trình chuyển ý chí của chủ
thể trong chính sách thành hiện thực, là bước hiện thực hóa, đưa chính sách khen
thưởng vào thực tiễn cuộc sống.
Thực hiện chính sách khen thưởng là khâu quan trọng, là một khâu hợp
thành chính sách khen thưởng, thực hiện tốt không những mang lại lợi ích to lớn
cho các nhóm đối tượng thụ hưởng chính sách mà còn góp phần làm tăng uy tín của
nhà nước trong quá trình quản lý xã hội. Thực hiện chính sách khen thưởng là tất
yếu, để duy trì sự tồn tại của công cụ chính sách theo yêu cầu quản lý của nhà nước
và cũng là để đạt được mục tiêu của chính sách.
Mục tiêu của khen thưởng là nhằm động viên mọi cá nhân, tổ chức tham gia
các phong trào thi đua để từ đó phát huy tính tích cực trong công việc, phấn đấu vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; người được
khen thưởng tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được của mình, có thêm

những sáng kiến và đóng góp nhằm tăng cường khả năng chuyên môn và góp phần
phát triển cơ quan, tổ chức nơi mình làm việc; người chưa được khen cũng thấy
13


được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, cần phải phấn đấu. Vì vậy, thực hiện tốt
chính sách khen thưởng sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị
và nhân dân; làm cho các phong trào thi đua được phát triển sâu rộng, với nhiều
hình thức phong phú có tác dụng thúc đẩy, động viên cán bộ, công chức, người lao
động và các tầng lớp nhân dân, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tích
cực học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh; từ đó tạo động lực thi đua hoàn thành
thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, nhiệm vụ chính trị được giao.
1.1.6. Khen thưởng cho người lao động trực tiếp
Khái niệm khen thưởng cho người lao động trực tiếp mới được đề cập tại
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thi đua – Khen thưởng năm 2013 và các
Nghị định số 65/2014/NĐ-CP ngày 01/7/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng năm 2013;
Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2017 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật thi đua, khen thưởng, tuy nhiên tại các văn
bản này cũng không ghi rõ về khái niệm người lao động trực tiếp.
Qua tìm hiểu và trên cơ sở khái niệm về khen thưởng, khái niệm về lao động
trực tiếp được đề cập trên, có thể khái niệm về khen thưởng cho người lao động
trực tiếp như sau: “Khen thưởng cho người lao động trực tiếp là việc ghi nhận, biểu
dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân
là người lao động trực tiếp có thành tích trong sản xuất, lao động, xây dựng, bảo
vệ tổ quốc. Thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp cũng là
thực hiện chính sách khen thưởng, song đối tượng là người lao động trực tiếp, có
các quy định cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn riêng cho đối tượng này”.
Theo đó, đối tượng được khen là cá nhân (lao động trực tiếp) được nhận các
hình thức khen thưởng do có thành tích trong lao động, sản xuất, xây dựng, bảo vệ

tổ quốc... Hình thức khen có thể được vinh danh bởi các danh hiệu cao quý của
Đảng, Nhà nước được quy định trong Luật thi đua, khen thưởng hoặc khen trực tiếp
từ lãnh đạo quản lý, cơ quan, tổ chức, đoàn thể hoặc tổ chức, cá nhân ngoài đơn vị,
cơ quan mà người lao động trực tiếp đó làm việc, công tác.
14


1.2. Mục đích, yêu cầu, tầm quan trọng của công tác khen thưởng và
thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp
1.2.1. Vai trò của người lao động trực tiếp
Người lao động trực tiếp chính là những người tham gia thực hiện các hoạt
động lao động, sản xuất, tạo ra các sản phẩm, các giá trị xã hội. Đối tượng người lao
động trực tiếp là những công chức, viên chức, công nhân, nông dân… Đây là lực
lượng chiếm số lượng nhiều nhất, có vai trò vô cùng quan trọng trong việc trực tiếp
thực thi nhiệm vụ chính trị ở các đơn vị, địa phương. Họ cũng là ựcl lượng chính
trong các phong trào thi đua yêu nước lớn, tiêu biểu, có hiệu quả cao đang được
triển khai trong thực tế hiện nay như: “Chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Lao
động giỏi, lao động sáng tạo”, “Nông dân sản xuất kinh doanh giỏi”…
1.2.2. Ý nghĩa của công tác khen thưởng và tầm quan trọng của việc thực
hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp
- Làm cho người tốt, việc tốt được ghi nhận, tôn vinh và lan tỏa giá trị tốt
đẹp trong cuộc sống
Công tác khen thưởng và thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao
động trực tiếp có vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với cơ quan, tổ chức mà
còn đối với người lao động trực tiếp đó là: Khi công tác khen thưởng được thực hiện
đúng người, đúng việc sẽ giúp cho người tốt, việc tốt được ghi nhận tôn vinh và lan
tỏa giá trị tốt đẹp trong cuộc sống.
- Thúc đẩy phong trào thi đua lao động và sáng tạo lập thành tích trong mỗi

cá nhân người lao động

Người lao động trực tiếp chiếm số lượng đông đảo trong lực lượng lao động
nói chung. Vì vậy, việc quan tâm khen thưởng người lao động trực tiếp sẽ động
viên, khuyến khích được lực lượng này tích cực hăng say lao động, sản xuất, học
tập, sáng tạo… tạo động lực và niềm tin của người lao động trong xã hội, thúc đẩy
phong trào thi đua lao động, sáng tạo, góp phần xây dựng và phát triển cơ quan, đơn
vị, địa phương và sự nghiệp xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh.

15


Chính sách khen thưởng được thực hiện đúng lúc, đúng người, đúng việc sẽ
có sức mạnh lan tỏa trong cộng đồng, khiến môi trường làm việc, nơi làm việc, địa
phương hoặc đơn vị sẽ có tấm gương điển hình về người tốt, việc tốt, góp phần nâng
cao năng suất lao động, tạo niềm tin cho người lao động vào phong trào thi đua yêu
nước để xây dựng đất nước, quê hương ngày càng vững mạnh.
- Khen thưởng cho người lao động trực tiếp là nhân tố phát triển con người

toàn diện trong xu thế hội nhập toàn cầu.
Trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào của mỗi quốc gia, nhân tố con người
vẫn là quan trọng và đặt lên hàng đầu. Sự thành hay bại, phát triển hay trì trệ của
quốc gia nói chung cũng như trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội nói riêng, con
người vẫn là nhân tố quan trọng nhất. Và để phát huy được nhân tố quan trọng đó,
cần có nhiều biện pháp khuyến khích, tôn vinh để họ cống hiến, phát triển toàn diện.
Một trong những phương pháp đó là sử dụng chính sách và thực hiện tốt công tác
khen thưởng đối với họ, nhất là những người lao động trực tiếp để phát triển con
người toàn diện, kích thích trí tuệ, nhiệt huyết và sự say mê của họ trong sản xuất
trực tiếp, tạo nên sản phẩm tốt, góp phần giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống
văn hóa tốt đẹp cho xã hội.
1.2.3. Yêu cầu của khen thưởng đối với người lao động trực
tiếp Một là, khen thưởng cho người lao động trực tiếp phải kịp

thời
Mục đích của khen thưởng là động viên, thúc đẩy phong trào thi đua, khơi
dậy óc tìm tòi sáng tạo, phát huy trí tuệ, năng lực, tính tích cực của mỗi cá nhân. Do
đó, khen thưởng phải chính xác, công khai, công bằng và kịp thời mới có tác dụng
động viên nêu gương. Ngược lại, khen thưởng không chính xác, không trung thực,
đặc biệt là thiếu công bằng sẽ mất đi tính thời sự và mất tác dụng, ý nghĩa của khen
thưởng. Khi khen thưởng kịp thời, đúng lúc, cá nhân được khen sẽ cảm thấy được
trân trọng và vinh dự, tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Khen thưởng trong trường hợp này giúp người được khen
nhìn nhận được tính công bằng trong các hình thức khen, từ đó phát huy được tính
tích cực trong các công việc mà người lao động trực tiếp đang đảm nhận. Người
16


không được khen thưởng cũng thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình cần phải
phấn đấu để được ghi nhận trong thời gian tới.
Hai là, khen thưởng cho người lao động trực tiếp phải đúng thẩm quyền
Về thẩm quyền khen và cơ quan quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
được quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể như sau:
Chủ thể thực hiện công tác khen thưởng ở trung ương: là Ban Thi đua – Khen
thưởng Trung ương; Hội đồng Thi đua – Khen thưởng Trung ương. Chủ thể thực
hiện công tác khen thưởng ở cấp tỉnh là Ban Thi đua – Khen thưởng trực thuộc Sở
Nội vụ (hoặc Văn phòng UBND cấp tỉnh), Hội đồng Thi đua – Khen thưởng cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cơ quan tham mưu cho cấp ủy Đảng và
chính quyền về công tác thi đua, khen thưởng của địa phương. Chủ thể thực hiện
công tác khen thưởng ở cấp huyện: Phòng Nội vụ thuộc Ủy ban nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Về thẩm quyền quyết định khen thưởng: Chủ tịch nước quyết định tặng
thưởng Danh hiệu vinh dự Nhà nước, Huân chương, Huy chương, Giải thưởng Hồ
Chí Minh...; Thủ tướng Chính phủ quyết định tặng thưởng Bằng khen và các danh

hiệu thi đua như Cờ thi đua của Chính phủ, Chiến sĩ thi đua toàn quốc; Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp huyện quyết định tặng thưởng Giấy khen và danh hiệu chiến sĩ thi
đua cơ sở, Lao động tiến tiến, Đơn vị tiên tiến...
Ba là, khen thưởng phải bám sát tiêu chuẩn và đối tượng
Đối với bất kỳ trường hợp khen thưởng nào cũng cần có quy định cụ thể của
pháp luật đối với đối tượng được khen, trình tự khen, quy trình khen và phải khen
đúng người, đúng việc.
Đối với đối tượng là người lao động trực tiếp khi được khen cũng cần xem
xét tính phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành. Người được khen phải là cá
nhân, trực tiếp lao động, có thành tích xuất sắc, có cống hiến cho cộng đồng, dân cư
những sản phẩm lao động sáng tạo thực sự có ích. Các cá nhân được khen thưởng
phải thực sự là hạt nhân tiêu biểu, suất sắc hoặc là người có công trạng nhất định
trong các phong trào thi đua được khởi xướng, phát động bởi cơ quan nhà nước có
17


thẩm quyền, bởi tập thể, cơ quan, đơn vị nơi người lao động trực tiếp làm việc, sản
xuất.
1.3. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách khen thưởng cho
người lao động trực tiếp
Một là, Các văn bản về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước về khen thưởng người lao động trực tiếp
Vấn đề TĐKT được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, có chỉ đạo sát sao trong
thời kỳ kháng chiến đến cho đến nay. Đặc biệt, năm 1998, Bộ Chính trị ban hành
chỉ thị 35 - CT/TW về đổi mới công tác TĐKT trong giai đoạn mới, theo đó khẳng
định: trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay, trước những thời cơ và thách thức
vô cùng to lớn, công tác TĐKT càng có vai trò, vị trí hết sức quan trọng.
Năm 2004, thông qua tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chỉ thị số 35, Bộ
Chính trị ra Chỉ thị 39 - CT/TW về việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi
đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến. Trong đó

khẳng định rõ: “Tiếp tục quán triệt nội dung đổi mới công tác TĐKT theo tư tưởng
Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước và tinh thần chỉ thị số 35- CT/TW, ngày 3/6//1998
của Bộ chính trị khoá VIII, qua đó nâng cao hơn nữa nhận thức trách nhiệm về
công tác TĐKT”[33].
Năm 2014, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 34-CT/TW về Tiếp tục đổi mới
công tác thi đua, khen thưởng “Xác định thi đua, khen thưởng là một chính sách lớn
của Đảng và Nhà nước, bản chất của phong trào thi đua là công tác dân vận của
Đảng; Tổ chức phong trào thi đua chính là tổ chức phong trào hành động cách
mạng dưới sự lãnh đạo của đảng, nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tập trung thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ chính trị từng thời kỳ”[36].
Từ năm 2000 đến nay, hệ thống văn bản pháp luật về TĐKT từng bước được
xây dựng hoàn chỉnh, gồm: Luật Thi đua, Khen thưởng được sửa đổi, bổ sung các
năm 2003, 2005, 2013 và các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành.
Việc tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và phong
trào thi đua yêu nước là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị; các cấp ủy Đảng, người
18


×