Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố đối với vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (776.24 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH VIẾT SƠN

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
ĐỐI VỚI VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TỪ THỰC TIỄN VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN YÊN ĐỊNH, TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH VIẾT SƠN

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
ĐỐI VỚI VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TỪ THỰC TIỄN VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN YÊN ĐỊNH, TỈNH THANH HÓA

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN MINH SỬ

HÀ NỘI, 2021




LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu đề tài “Áp dụng pháp luật về thực
hành quyền công tố đối với vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn Viện kiểm
sát nhân dân huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa”, bản thân tơi đã nhận được sự
nhiệt tình giúp đỡ, hướng dẫn và chỉ bảo của các thầy, cô giáo là Giáo sư, Phó
Giáo sư, Tiến sĩ, cùng các Giảng viên, cán bộ quản lý thuộc Học viện Khoa học
xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để tơi hồn thành luận văn này.
Với lịng biết ơn sâu sắc, tình cảm chân thành, tôi xin cảm ơn các quý
thầy, cô giáo Học viện Khoa học xã hội và thầy Nguyễn Minh Sử, Tiến sĩ, Phó
Giám đốc Học viện Tịa án - Người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi về kiến
thức, tài liệu và phương pháp để tơi hồn thành đề tài nghiên cứu khoa học.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân
huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa đã tạo điều kiện thuận lợi cho tơi tham gia và
hồn thành chương trình này.
Cảm ơn gia đình cùng các đồng nghiệp đã động viên, cổ vũ, khích lệ và
giúp đỡ tơi trong suốt quá trình nghiên cứu và học tập.
Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng trong suốt q trình nghiên cứu,
thực hiện đề tài này, tuy nhiên đề tài nghiên cứu của tơi vẫn cịn có những hạn
chế nhất định, vì vậy mong nhận được ý kiến đóng góp và chỉ dẫn của các Nhà
khoa học, quý thầy, cô và các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đinh Viết Sơn


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,

đảm bảo độ tin cậy, chính xác và chưa từng được cơng bố tại các cơng trình nào
khác. Tơi xin chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đinh Viết Sơn


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ...................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ............................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 5
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn ......................................................... 6
7. Kết cấu luận văn ..................................................................................................... 6
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ....................................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của áp dụng pháp luật về thực hành quyền
công tố ........................................................................................................................ 7
1.2. Chủ thể áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố ................................... 15
1.3. Nội dung hoạt động áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố đối với
vụ án xâm phạm sở hữu của Viện kiểm sát nhân dân .............................................. 17
1.4. Những yếu tố tác động đến áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án xâm phạm sở hữu ........................... 24
Tiểu kết Chương 1 .................................................................................................... 31

Chương 2: ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
ĐỐI VỚI VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN HUYỆN YÊN ĐỊNH, TỈNH THANH HÓA ..................................... 32
2.1. Đặc điểm tình hình của huyện n Định, tỉnh Thanh Hóa và Viện kiểm sát
nhân dân huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa............................................................. 32
Bảng 2.1. Kết quả hoạt động giai đoạn 2016-2020.................................................. 35
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố đối với vụ án xâm
phạm sở hữu tại Viện Kiểm sát nhân dân huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa ......... 35
Bảng 2.2. Kết quả khởi tố vụ án xâm phạm sở hữu giai đoạn 2016-2020............... 36


Bảng 2.3. Kết quả áp dụng pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối
với hành vi xâm phạm sở hữu .................................................................................. 41
Bảng 2.4. Kết quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử với các tội
xâm phạm sở hữu ..................................................................................................... 42
Bảng 2.5. Số vụ án bị kháng nghị giai đoạn 2016-2020 .......................................... 43
2.3. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân ...................................................... 44
Tiểu kết Chương 2 .................................................................................................... 56
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI VỤ ÁN XÂM
PHẠM SỞ HỮU CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN YÊN ĐỊNH,
TỈNH THANH HÓA ................................................................................................ 58
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố
đối với các tội phạm và với các tội xâm phạm sở hữu............................................. 58
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thực hành quyền
công tố đối với vụ án xâm phạm sở hữu tại Viện Kiểm sát nhân dân huyện Yên
Định, tỉnh Thanh Hóa ............................................................................................... 61
Tiểu kết Chương 3 .................................................................................................... 73
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 76



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật Hình sự

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện Kiểm sát nhân dân

TAND

Tịa án nhân dân

CQĐT

Cơ quan điều tra


THQCT

Thực hành quyền công tố


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Để truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện hành vi phạm tội, xâm
phạm đến quyền sở hữu tài sản của cơng dân, vai trị cơng tố của Kiểm sát viên
trong phiên tịa là khơng thể thay thế. Việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án
là quyền duy nhất được trao cho một cơ quan là Viện kiểm sát nhân dân. Hoạt
động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát là một dạng thực hành quyền lực
nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội, người
phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm
minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm.
Các tội xâm phạm sở hữu là một trong những nhóm tội có tính chất chiếm
đoạt, khơng chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của cá nhân, tổ chức
trong xã hội, mà còn xâm hại đến sức khỏe, tính mạng, tinh thần của người dân.
Việc thất thốt, mất mát, hỏng hóc về tài sản do hành vi xâm hại của người
phạm tội còn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp,
đời sống của người dân, gây mất an ninh trật tự xã hội. Việc truy cứu trách
nhiệm hình sự với các tội xâm phạm sở hữu chính là nhằm bảo vệ quyền sở hữu
tài sản của nhân dân, giữ vững kỷ cương pháp luật, an ninh trật tự.
Yên Định là một huyện thuộc tỉnh Thanh Hóa, nằm tại vùng tiếp giáp
giữa đồng bằng và trung du, miền núi của tỉnh, là địa bàn giao lưu văn hóa, kinh
tế giữa các huyện miền núi, trung du tỉnh Thanh Hóa. Trong những năm qua,
huyện có tốc độ phát triển mạnh mẽ, giao thơng thuận lợi, tốc độ tăng trưởng
kinh tế trung bình 9-10%, là địa bàn được đánh giá có sự tăng trưởng cao và đều
đặn. Bên cạnh những kết quả đạt được, huyện cũng phải đối mặt với mặt trái của

sự phát triển là một số loại tội phạm và tệ nạn xã hội tăng cao, trong đó có các
tội xâm phạm sở hữu.
Trong những năm vừa qua, công tác áp dụng pháp luật về THQCT của
VKSND huyện Yên Định đã đạt được những kết quả nhất định. Việc áp dụng
nghiêm những quy định của pháp luật về THQCT đã góp phần hạn chế tình
trạng truy tố oan sai, đã phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi phạm tội. Từ đó
1


đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức, giữ vững an
ninh trật tự, an toàn xã hội. Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn cho thấy
công tác áp dụng pháp luật về THQCT của VKSND huyện Yên Định vẫn còn có
những hạn chế như: Kiểm sát viên chưa bám sát tiến độ và kiểm sát chặt chẽ
hoạt động điều tra; ban hành một số bản yêu cầu điều tra chưa đảm bảo về hình
thức và nội dung; việc áp dụng các quy định của pháp luật khi truy tố còn bộc lộ
nhiều hạn chế; một số vụ án Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị tài liệu
tham gia phiên tòa xét xử chưa tốt, nên chất lượng tranh tụng chưa cao. Thực tế
này đòi hỏi VKSND huyện Yên Định cần cải cách tổ chức và nâng cao hơn nữa
chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động THQCT nói chung và trong
THQCT đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, nhằm đánh giá việc áp dụng pháp luật về
THQCT với vụ án xâm phạm sở hữu của VKSND huyện Yên Định, từ đó đề xuất
được những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về THQCT đối với vụ
án xâm phạm sở hữu tại đây, học viên đã lựa chọn đề tài “Áp dụng pháp luật về
thực hành quyền công tố đối với vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn Viện
kiểm sát nhân dân huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa” để làm luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Với vai trò quan trọng của THQCT trong hoạt động của VKSND, đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu của các tác giả đề cập đến vấn đề này, có thể kể đến là:
* Về luận án, luận văn:

Luận án của tác giả Võ Thành Đủ (2018) về “Thực hành quyền công tố
đối với các tội phạm về hối lộ ở nước ta hiện nay”, Khoa Luật, Đại học quốc gia
Hà Nội [11]. Luận án của tác giả Lê Tuấn Phong (2017) về “Hoàn thiện pháp
luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư
pháp ở Việt Nam”, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [24]. Luận án của
tác giả Trần Văn Quý (2017) về “Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm
sát viên tại phiên tịa xét xử sơ thẩm hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp” Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [29]. Luận án của tác giả Nguyễn Hồi
Nam (2018) về “Thực hành quyền cơng tố và kiểm sát xét xử án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay”, Học viện Khoa học xã hội
2


[20]. Các luận án này đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
thực hành quyền công tố theo yêu cầu của cải cách tư pháp hoặc tại một số đơn
vị Viện kiểm sát.
Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Lương Thúy Hà (2012) về “Nâng
cao chất lượng thực hành quyền công tố của VKSND cấp huyện trong cải cách
tư pháp ở nước ta”, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội [13]. Luận văn Thạc sĩ
luật học của tác giả Lê Thanh Hưng (2015) về “Chức năng thực hành quyền
công tố của VKSND trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đăk Nông”, Khoa
Luật, Đại học quốc gia Hà Nội [18]. Luận văn của tác giả Nguyễn Hữu Phước
(2016) về “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự từ thực tiễn huyện Hồi Nhơn, tỉnh Bình Định”, Học viện Khoa học xã hội
[26]. Luận văn của tác giả Nguyễn Chí Cơng (2018) về “Chức năng thực hành
quyền công tố của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo Luật
TTHS Việt Nam trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ”, Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội [7]. Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Phan Thị Sa (2018)
về “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ
thực tiễn huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi”, Học viện Khoa học xã hội [35]. Các

luận văn này đã đi sâu nghiên cứu việc thực hành quyền công tố từ thực tiễn một
số địa bàn nhất định.
* Sách và giáo trình:
Sách của tác giả Nguyễn Hải Phong (2013) về “Một số vấn đề về tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động
điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp”, NXB. Tư pháp [23].
Sách của tác giả Lê Hữu Thể (2016) về “Những nội dung mới trong Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015”, NXB. Chính trị quốc gia Sự thật [41].
Sách của tác giả Trần Văn Luyện và cộng sự (2018) về “Bình luận khoa
học BLHS năm 2015”, NXB. Cơng an nhân dân, trong đó có những bình luận về
tội xâm phạm sở hữu [19].
* Các bài báo:
Bài viết của tác giả Trần Đình Nhã (2014) về “Cơng tố và thực hành
quyền cơng tố trong TTHS, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 21 (277) tháng
3


11/2014 [22]. Bài viết của tác giả Lê Mạnh Hùng (2020) về “Một số hạn chế,
bất cập trong quy định về điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự có yếu tố nước
ngồi và giải pháp khắc phục”, Tạp chí Tịa án số 8/2020 [17].
Qua khảo cứu các cơng trình nghiên cứu trên đây cho thấy, vấn đề
THQCT của Viện kiểm sát đã được tiếp cận dưới nhiều giác độ khác nhau, mà
nhiều nhất chính là dưới giác độ pháp luật TTHS và pháp luật hình sự. Các cơng
trình đã làm rõ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn THQCT của VKSND
trên nhiều địa bàn trên cả nước. Đây là những kết quả nghiên cứu quý giá mà
học viên sẽ học hỏi, kế thừa trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Tuy nhiên, qua đó tác giả cũng nhận thấy, vấn đề nghiên cứu về thực trạng
áp dụng pháp luật về THQCT của VKSND dưới giác độ Luật Hành chính và Luật
Hiến pháp chưa có cơng trình tiêu biểu nào. Một số cơng trình nghiên cứu về
THQCT tại Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ yếu xem xét dưới giác

độ pháp luật hình sự, hoặc dưới giác độ cải cách tư pháp chứ chưa nghiên cứu vấn
đề áp dụng pháp luật về THQCT của Viện kiểm sát. Nghiên cứu trên địa bàn
huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa cũng hồn tồn chưa có cơng trình nghiên cứu
này. Chính vì vậy, đề tài mà học viên lựa chọn đảm bảo được tính khoa học, tính
mới và tính cần thiết cả về lý luận và thực tiễn của một đề tài luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp
luật về THQCT của VKSND huyện Yên Định đối với vụ án xâm phạm sở hữu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Khái quát, hệ thống hóa cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật về THQCT
của VKSND.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về THQCT đối với vụ án xâm
phạm sở hữu tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa trong
giai đoạn 2016 - 2020.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả áp dụng pháp
luật về THQCT đối với vụ án xâm phạm sở hữu tại VKSND huyện Yên Định,
tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.
4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động áp dụng pháp luật về THQCT đối
với vụ án xâm phạm sở hữu của VKSND huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu việc áp dụng pháp luật về
THQCT theo quy định của pháp luật hiện hành.
- Về không gian: Luận văn tiến hành nghiên cứu áp dụng pháp luật về
THQCT đối với vụ án xâm phạm sở hữu tại VKSND huyện Yên Định, tỉnh
Thanh Hóa.

- Về thời gian: Số liệu được sử dụng nghiên cứu trong luận văn từ kết quả
thống kê hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định trong giai đoạn
2016 đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận được sử dụng để viết luận văn là phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng chủ yếu tại Chương 1
của luận văn nhằm nghiên cứu các tài liệu sẵn có về cơ sở lý luận về áp dụng
pháp luật, quyền công tố và THQCT của VKSND nhằm làm rõ những khái
niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật về THQCT của Viện kiểm sát.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu trường hợp điển hình được
sử dụng chủ yếu trong Chương 2 của luận văn để nghiên cứu, bóc tách số liệu
liên quan đến THQCT của VKSND huyện Yên Định trong giai đoạn 2016-2020.
Đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu, chọn lọc ra những hồ sơ vụ án xâm phạm sở
hữu tiêu biểu để phân tích, đánh giá việc áp dụng pháp luật về THQCT của
VKSND huyện Yên Định.
- Phương pháp lịch sử cũng được sử dụng tại Chương 1 của luận văn để
nêu ra những quy định về THQCT trong q trình xây dựng, hồn thiện các quy
định của pháp luật có liên quan.
- Phương pháp tổng kết, đánh giá được sử dụng chủ yếu tại Chương 2 và
Chương 3 của luận văn để đánh giá việc áp dụng pháp luật về THQCT đối với
5


vụ án xâm phạm sở hữu tại VKSND huyện Yên Định. Đề xuất các giải pháp để
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về THQCT đối với vụ án xâm phạm sở hữu
tại đây trong thời gian tới.
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
- Luận văn tổng hợp, hệ thống hóa và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về

áp dụng pháp luật trong THQCT của VKSND và trong THQCT đối với các vụ
án xâm phạm sở hữu.
- Nhận thức và đánh giá được những kết quả, hạn chế còn tồn tại trong
việc áp dụng pháp luật về THQCT với các vụ án xâm phạm sở hữu của VKSND
huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
- Ý nghĩa: Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các
nhà nghiên cứu, học viên, các cơ quan có thẩm quyền trong việc nghiên cứu, học
tập cũng như hoạt động xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật
liên quan đến THQCT.
Luận văn cũng có giá trị tư liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ, công chức
ngành Kiểm sát, cán bộ làm việc tại VKSND huyện Yên Định trong quá trình
thực thi chức trách, nhiệm vụ liên quan đến vấn đề áp dụng pháp luật về
THQCT đối với các vụ án xâm phạm sở hữu.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
chính của luận văn có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật về thực hành
quyền công tố đối với vụ án xâm phạm sở hữu của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố đối với vụ án
xâm phạm sở hữu từ thực tiễn VKDND huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
về thực hành quyền công tố đối với vụ án xâm phạm sở hữu tại Viện Kiểm sát
nhân dân huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

6


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ
HỮU CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của áp dụng pháp luật về thực hành
quyền công tố
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố
a) Khái niệm thực hành quyền công tố
“Công tố” là một từ ghép Hán - Việt, được cấu tạo bằng hai từ đơn là
“cơng” và “tố”. Theo Từ điển tiếng việt, “tố” có nghĩa là nói cơng khai cho mọi
người biết việc làm sai trái, phạm pháp của người khác, cịn “cơng” có nghĩa là
thuộc về nhà nước chung cho mọi người; “công tố” là “điều tra, truy tố, buộc tội
kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án” [37 tr.200, tr.204, tr.973]. Như
vậy, “Công tố” theo Từ điển tiếng Việt là một khái niệm bao gồm bốn nội dung:
điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu trước Tòa án. Các chủ thể
liên quan đến hoạt động công tố bao gồm chủ thể thực hiện việc buộc tội là Nhà
nước, đối tượng bị Nhà nước buộc tội là các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
Xung quanh khái niệm quyền cơng tố có khá nhiều quan điểm khác nhau,
như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tất cả các hoạt động của VKS, bao gồm cả
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS đều là THQCT [6, tr.8].
Quan điểm thứ hai cho rằng: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho
VKS truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa [50, tr.24].
Quan điểm thứ ba cho rằng: Quyền công tố là quyền đại diện cho nhà
nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra toà án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích
nhà nước, xã hội, cơng dân, bảo vệ trật tự pháp luật [48, tr.84-87].
Quan điểm thứ tư cho rằng, quyền công tố là quyền nhà nước giao cho
các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp
dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội [50, tr.380].
Quan điểm thứ năm cho rằng, quyền công tố là quyền của nhà nước được
nhà nước giao cho một cơ quan (ở Việt Nam là cơ quan VKS) thực hiện việc
truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan cơng tố
có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội
7



phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ
sự buộc tội trước phiên tịa. [41, tr.40].
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ năm cho rằng: Quyền công tố là
quyền của nhà nước, được nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện việc truy
cứu TNHS đối với người phạm tội và bảo vệ việc buộc tội trước phiên tịa.
Quyền cơng tố chỉ được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật đã gắn
liền, đó là lĩnh vực tố tụng hình sự. Do vậy, quyền cơng tố chỉ có trong lĩnh vực
tố tụng hình sự mà khơng có trong các lĩnh vực khác.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu “quyền cơng tố” là quyền được Nhà nước
giao cho VKSND, nhân danh quyền lực công thực hiện việc truy cứu TNHS đối
với người phạm tội và bảo vệ việc buộc tội trước phiên tòa. Phạm vi của quyền
cơng tố bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp
luật, không bị kháng nghị [41, tr.40]. Để đảm bảo việc thực hiện quyền đó, Nhà
nước ban hành các văn bản pháp luật quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội
dung quyền cơng tố mà cơ quan có thẩm quyền được áp dụng để truy cứu TNHS
đối với người phạm tội, cơ quan được giao thẩm quyền truy tố đưa vụ án ra toà
án để xét xử và thực hiện việc buộc tội đó gọi là cơ quan THQCT. Việc quy
định cơ quan THQCT là không giống nhau ở các nước, phụ thuộc vào chế độ
chính trị của mỗi nước. Ở nước ta, Nhà nước giao cho VKSND thực hiện chức
năng này cho nên chỉ có VKSND mới có chức năng THQCT mà khơng có cơ
quan nào có được.
Hiến pháp năm 1959 đã ghi nhận sự ra đời của một cơ quan nhà nước mới
trong bộ máy nhà nước, đó là VKS. Điều 105 Hiến pháp năm 1959 quy
định: “VKSND tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa
phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân. Các VKSND địa phương
và VKS quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định” [31]. Sự ra đời
của mơ hình VKS thay thế cho mơ hình Viện công tố ở nước ta là một điểm tiến

bộ, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất, là cơ sở cho
việc xây dựng nhà nước kiểu mới - nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
VKSND là cơ quan được giao thực hiện chức năng thực hành quyền đưa
người phạm tội ra truy tố trước pháp luật, thực hiện việc buộc tội của Nhà nước
đối với người phạm tội. Hoạt động THQCT của VKSND nhằm thực hiện việc
8


buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội. Mục đích của hoạt động THQCT
là phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh mọi tội
phạm và người phạm tội, không kết tội oan người vô tội, không để lọt tội phạm
và người phạm tội, qua đó bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân, bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Một cách ngắn gọn, Viện KSND thực hành quyền
cơng tố góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất, qua đó bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân [40]. Phạm vi THQCT được quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức
VKSND năm 2014, cụ thể: “THQCT là hoạt động của VKSND trong tố tụng
hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được
thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” [33]. Theo
quy định này, VKSND thực hành quyền công tố trong những lĩnh vực sau:
THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; trong giai đoạn truy tố tội phạm;
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự; điều tra một số loại tội phạm và THQCT
trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự.
Nội dung thực hành quyền công tố bao gồm các hoạt động cụ thể sau:
- Yêu cầu khởi tố, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều
tra; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật
TTHS quy định;
- Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp

ngăn chặn; hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật của Cơ quan điều tra;
- Đề ra yêu cầu điều tra hoặc trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra
để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối với người phạm tội;
- Truy tố bị can ra trước Tòa án trên cơ sở kết quả điều tra vụ án và chứng
minh được người phạm tội.
- Buộc tội bị cáo và bảo vệ sự buộc tội tại phiên tịa bằng cách cơng bố
bản cáo trạng, tham gia xét hỏi, trình bày lời luận tội và tranh luận tại phiên tòa
sơ thẩm; nếu vụ án bị kháng cáo hoặc kháng nghị thì có mặt để tham gia xét hỏi
và trình bày lời kết luận về kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa phúc thẩm.
Từ sự phân tích trên, tác giả đưa khái niệm về thực hành quyền công tố
như sau: Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng
9


pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và
xét xử, nhằm bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân, quyền và lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân, đảm bảo pháp chế Xã hội chủ nghĩa.
b) Khái niệm áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố
Áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật mang tính tổ chức
quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà
chức trách hoặc tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hoá quy
phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể, đối với cá nhân, tổ chức cụ thể [47].
Áp dụng pháp luật được thực hiện khi xả ra các sự kiện sau:
- Khi xảy ra tranh chấp giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật về quyền
và nghĩa vụ mà tự họ không thể giải quyết được, phải nhờ cơ quan nhà nước
(hoặc cơ quan của tổ chức xã hội) có thẩm quyền giải quyết.
- Khi quyền và nghĩa vụ của các chủ thể không mặc nhiên phát sinh nếu
thiếu sự can thiệp của Nhà nước.
- Khi cần áp dụng chế tài pháp luật đối với chủ thể vi phạm pháp luật.

- Khi nhà nước thấy cần kiểm tra, giám sát hoạt động của các chủ thể
quan hệ pháp luật hoặc để xác định sự tồn tại hay không tồn tại của sự kiện thực
tế có ý nghĩa pháp lí như xác nhận di chúc, xác nhận văn bằng, chứng chỉ, hợp
đồng viết tay, chữ kí của người có thẩm quyền...
Áp dụng pháp luật về THQCT đối với các vụ án hình sự là một dạng của áp
dụng pháp luật nói chung. Áp dụng pháp luật về THQCT thuộc trường hợp áp dụng
pháp luật: Khi Nhà nước thấy cần thiết phải truy cứu TNHS đối với người phạm
tội, cần phải áp dụng chế tài pháp luật đối với người phạm tội.
Cơ sở phát sinh hoạt động áp dụng pháp luật về THQCT của VKSND là
việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự, pháp luật TTHS vào thực tiễn vụ
việc cụ thể nhằm truy tố một người ra trước pháp luật, buộc người đó phải chịu
trách nhiệm pháp lý cho hành vi vi phạm pháp luật hình sự.
Dưới góc độ lý luận chung về áp dụng pháp luật, áp dụng pháp luật là một
hình thức thực hiện pháp luật, là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà
nước của các cơ quan có thẩm quyền nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp
luật vào từng trường hợp cụ thể đối với những cá nhân, đơn vị, tổ chức cụ thể.
Áp dụng pháp luật về THQCT với các vụ án hình sự có thể coi là hoạt động
10


mang tính quyền lực nhà nước của VKSND nhằm cá biệt hóa các quy phạm
pháp luật nói chung và các quy phạm pháp luật TTHS nói riêng đối với các chủ
thể trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
Nội dung của hoạt động áp dụng pháp luật về THQCT là hoạt động thực
hiện pháp luật về quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; phê chuẩn, không phê
chuẩn quyết định khởi tố bị can; quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi
các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân; hủy bỏ quyết định
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, các quyết định tố tụng khác, các biện pháp
hạn chế quyền con người, quyền công dân trái pháp luật trong việc giải quyết
thông tin về tội phạm, khởi tố, điều tra của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ

tiến hành một số hoạt động điều tra; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện; trực
tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc
tội đối với người phạm tội; điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp,
các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy
định của luật; quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa; kháng nghị
bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp VKSND phát hiện oan, sai, bỏ
lọt tội phạm, người phạm tội...
Từ những phân tích nêu trên tác giả đưa ra khái niệm áp dụng pháp luật
về thực hành quyền công tố như sau: Áp dụng pháp luật về thực hành quyền
công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên vận dụng các
quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của VKSND để thực hiện việc
truy cứu TNHS đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét
xử theo quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự.
1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố
Một là, áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố thể hiện tính quyền
lực nhà nước và chỉ do VKSND thực hiện.
Kể từ khi xuất hiện nhà nước và quyền lực nhà nước hiện diện trong xã
hội, nhà nước luôn có cách thức để duy trì sự tồn tại của mình và đảm bảo trật tự
xã hội đó là xử lý những người có hành vi chống lại nhà nước. Như một lẽ tự
nhiên, muốn xử lý ai đó bắt buộc phải có sự buộc tội. Khi pháp luật, luân lý, đạo
đức, dân luật, hình luật cịn đang trong trạng thái hỗn mang chưa rành mạch thì
việc buộc tội một người nào đó do tư nhân và nhà nước đảm nhiệm với thủ tục
11


tố tụng khơng rườm rà và phức tạp. Thậm chí Luật La Mã cịn cho phép cá nhân
có quyền tự xử lý hành vi vi phạm pháp luật bằng sức mạnh bạo lực. Việc buộc
tội và xét xử nhiều khi không rõ ràng thể hiện ở việc ông vua chuyên chế, hay
các quan chấp chính thời La Mã vừa làm ra luật, vừa buộc tội, vừa xét xử. Khi

nhà nước đã dần trở nên văn minh hơn, tính xã hội của nhà nước bộc lộ rõ; việc
hình, việc hộ đã được minh định, nhà nước đã dành cho mình quyền đại diện
nhân danh xã hội buộc tội, đưa một người nào đó ra tịa để xét xử với lý do họ
đã vi phạm luật hình sự. Và việc buộc tội này do một cơ quan chuyên trách đảm
nhiệm. Từ chỗ chỉ là một công việc của tư nhân tiến tới là cơng việc nhà nước
cho thấy q trình phát triển của sự buộc tội từ chỗ là một quyền tự nhiên trở
thành một quyền lực nhà nước thông qua khế ước xã hội hoặc sản phẩm đấu
tranh giai cấp đều đúng.
Tuy nhiên, đưa một người nào đó ra tịa án để xét xử theo hình luật khơng
phải do nhà nước độc quyền. Cho đến ngày nay pháp luật TTHS một số nước
trong đó có Việt Nam vẫn cho phép tư nhân thực hiện quyền này gọi là quyền tư
tố. Ở Việt nam có quy định trong Bộ luật TTHS về trường hợp vụ án chỉ được
khởi tố theo yêu cầu của bên bị hại và bên bị hại trình bày lời buộc tội tại phiên
tịa. Nhưng việc có đưa người bị buộc tội ra trước tịa hay khơng và thực hiện
các cơng đoạn của q trình buộc tội vẫn do cơ quan cơng tố đóng vai trị chính.
Quyền cơng tố trước hết là một bộ phận của quyền lực nhà nước, được
nhà nước trao cho một cơ quan cụ thể mà ở đây chính là VKSND thực hiện việc
áp dụng các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật TTHS trong truy cứu
trách nhiệm pháp lý một cá nhân, tổ chức. Hoạt động áp dụng pháp luật về
THQCT cũng chỉ thuộc về VKSND, thể hiện ý chí của nhà nước ban hành các
mệnh lệnh, quyết định có giá trị bắt buộc với cá nhân, tổ chức phạm tội và các
quyết định của VKSND được bảo đảm thực hiện bởi cưỡng chế nhà nước. Việc
ban hành các quyết định, văn bản trong quá trình THQCT của VKSND cũng
phải tuân theo những điều kiện, trình tự, thủ tục chặt chẽ được quy định bởi
pháp luật TTHS. Đây là những đặc điểm thể hiện tính quyền lực nhà nước rất rõ
trong việc thực hành quyền công tố của VKSND.
Hai là, áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố là hoạt động đưa
các quy phạm pháp luật hiện hành vào những vụ án hình sự cụ thể.
12



Nội dung THQCT là việc VKSND sử dụng tổng hợp các quyền năng tố
tụng độc lập để truy cứu TNHS đối với người phạm tội nhằm bảo đảm việc truy
tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ
án đến khi bản án có hiệu lực pháp luật [1]. Theo đó, nội dung THQCT bao gồm:
Khởi tố vụ án; khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành
điều tra; khi cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra; quyết định áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; phê chuẩn, không phê chuẩn các
quyết định của CQĐT; hủy bỏ các quyết định khơng có căn cứ và trái pháp luật
của CQĐT; quyết định truy tố bị can; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Tồn bộ phạm vi (giới hạn) của quyền công tố trong luật TTHS diễn ra
trong ba giai đoạn tương ứng với các hoạt động chức năng mà VKS thực hiện là:
(i) ở giai đoạn khởi tố, điều tra - VKS kiểm tra tính hợp pháp của việc khởi tố, điều
tra; (ii) ở giai đoạn truy tố - VKS quyết định truy tố bị can bằng bản cáo trạng, gửi
cùng với hồ sơ đến Tòa án, nếu như VKS khơng nhận thấy có các căn cứ trả lại hồ
sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án theo luật định và cuối
cùng (iii) ở giai đoạn buộc tội - VKS buộc tội bị cáo tại phiên tòa xét xử và thực
hiện các hành vi TTHS khác do luật định để góp phần đạt được mục đích cuối cùng
là sau kết thúc phiên tịa xét xử, thì Tịa án tun một bản án (quyết định) có hiệu
lực pháp luật thực sự cơng minh, có căn cứ và đúng pháp luật.
Việc THQCT của VKSND chính là nhằm chọn lọc, đưa các quy phạm
pháp luật hình sự, TTHS vào áp dụng trong thực tiễn để bảo vệ pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Bên cạnh đó, việc áp dụng pháp luật về THQCT của VKSND cần tuân thủ
các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục một cách chặt chẽ, chỉ có thế mới
đảm bảo quyền con người, quyền công dân và tính nghiêm minh của pháp luật.
Ba là, áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố là hoạt động thể
hiện tính sáng tạo và kỹ năng nghề nghiệp của Kiểm sát viên.

Thực hành quyền cơng tố chính là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng
pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu TNHS đối với
người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử [41]. Có thể hiểu
13


hoạt động THQCT là hoạt động áp dụng pháp luật của Kiểm sát viên trong quá
trình thực hiện chức năng công tố.
Kết quả của hoạt động áp dụng pháp luật về THQCT của Kiểm sát viên
phụ thuộc rất nhiều vào trình độ năng lực, nhận thức pháp luật và kỹ năng
THQCT của mỗi Kiểm sát viên, mang dấu ấn chủ quan của mỗi cá nhân của
Kiểm sát viên. Quy phạm pháp luật quy định quy mang tính khn mẫu chung,
nhưng thực tiễn các vụ án hình sự mỗi vụ án đều có những đặc thù riêng, rất khác
nhau về nhân thân người phạm tội, mặt chủ quan của tội phạm, mặt khách quan
của tội phạm, khách thể của tội phạm. Thực tiễn này địi hỏi trong q trình áp
dụng pháp luật để THQCT, Kiểm sát viên phải có sự sáng tạo trong vận dụng các
quy định của pháp luật vào từng vụ việc cụ thể. Thơng qua những tình tiết khách
quan, chủ quan của vụ án mà Kiểm sát viên có sự đánh giá, vận dụng các quy
định của pháp luật một cách linh hoạt nhằm đánh giá mức độ nguy hiểm của hành
vi trái pháp luật đã xảy ra một cách hợp lý, hợp tình, phù hợp với tình tiết khách
quan của vụ án nhưng cũng tương thích với các đặc điểm nhân thân của chủ thể.
Các tiêu chuẩn, quyền, trách nhiệm của Kiểm sát viên cũng là những quy
định chung, thống nhất. Nhưng trình độ, năng lực, kỹ năng thực hành quyền công
tố ở mỗi Kiểm sát viên lại không giống nhau [27]. Mỗi Kiểm sát viên đều có một
hồn cảnh sống, một trình độ nhận thức về chính trị, pháp lý, văn hóa, xã hội... ở
các mức độ khác nhau. Cùng một trường hợp phạm tội cụ thể nhưng cách nhìn
nhận, đánh giá về nhân thân của bị cáo, về tính chất và mức độ của hành vi phạm
tội ở mỗi KSV có khác nhau nên việc đề nghị áp dụng mức hình phạt cụ thể trong
khung luật định lại ít khi giống nhau. Do đó, có thể khẳng định hoạt động thực
hành quyền công tố mang dấu ấn chủ quan của KSV khá sâu sắc [27].

Về căn cứ pháp luật, để THQCT, kiểm sát điều tra chủ yếu căn cứ quy
định mang tính chất khung của Bộ luật TTHS, Luật tổ chức VKSND, Quy chế
kiểm sát điều tra chưa quy định cụ thể, vì vậy các quy định đó chỉ mang tính
hình thức. Nội dung, phương pháp THQCT như thế nào đến nay hầu như chưa
có văn bản hướng dẫn cũng như chưa có những tổng kết rút kinh nghiệm mang
tính tồn diện để đưa ra một quy trình chung. Các Kiểm sát viên trong quá trình
THQCT trong hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự chủ yếu phụ thuộc vào
kỹ năng, trình độ, kinh nghiệm của từng Kiểm sát viên để thao tác, thực hiện
14


nhiệm vụ được giao. Chính vì vậy, q trình áp dụng pháp luật về THQCT còn
thể hiện được kỹ năng nghề nghiệp, chuyên môn của người Kiểm sát viên.
1.1.3. Vai trò của áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố
Áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố có vai trị rất quan trọng
trong việc thực hiện quyền lực nhà nước và có vai trị to lớn trong việc bảo đảm
an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội; giữ gìn kỷ cương, phép nước trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Chất lượng áp dụng pháp luật về THQCT phản ánh
việc thực hiện công lý, đảm bảo xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp
luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ nhà nước, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa; góp phần vào việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
Hoạt động áp dụng pháp luật THQCT của VKS đã góp phần quan trọng để
VKS thực hiện thành công nhiệm vụ theo quy định của Luật Tổ chức VKSND
năm 2014 là “Bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. [33]. Các quyết định áp dụng pháp luật về
THQCT của VKS đảm bảo khách quan, cơng minh và chính xác sẽ góp phần to
lớn vào cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm giữ vững an ninh chính trị và

trật tự an tồn xã hội.
Áp dụng pháp luật về THQCT cịn là một trong những phương tiện pháp
lý trực tiếp và hữu hiệu để giáo dục ý thức pháp luật, nâng cao ý thức tuân thủ
pháp luật và xây dựng thói quen sử dụng pháp luật bảo vệ các quyền, thực thi cá
nghĩa vụ của công dân.
1.2. Chủ thể áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố
Chủ thể áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố là Viện kiểm sát
nhân dân và Kiểm sát viên.
VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ
Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất [33, Điều 2]. Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố,
15


VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: (i) Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết
định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật, phê chuẩn, không phê
chuẩn quyết định khởi tố bị can của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong
những trường hợp do Bộ luật TTHS quy định; (ii) Quyết định, phê chuẩn việc áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân
trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc
khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của Bộ luật TTHS; (iii) Hủy bỏ các quyết
định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của CQĐT, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; (iv) Khi cần thiết đề ra yêu
cầu điều tra và yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra thực hiện; (v) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan

cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người phạm tội; (vi) Trực tiếp giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến hành một số hoạt động điều tra
để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối với người phạm tội; (vii) Điều tra
các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức
vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật; (viii) Quyết định việc
áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố; (ix) Quyết định việc
truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa; (x) Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa
án trong trường hợp VKSND phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm
tội; (xi) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người
phạm tội theo quy định của Bộ luật TTHS. [33, Điều 3].
Hệ thống VKSND là một hệ thống thống nhất, bao gồm VKSND tối cao,
các VKSND cấp cao, các VKSND cấp tỉnh, các VKSND cấp huyện, các Viện
kiểm sát quân sự. VKSND tối cao thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất. VKSND cấp cao thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối
với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp cao. VKSND
cấp tỉnh, VKSND cấp huyện thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp trong phạm vi địa phương mình. VKSND do Viện trưởng lãnh đạo. Viện
trưởng VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp trên.
16


Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện
trưởng VKSND tối cao. [33]
Các chức danh tư pháp trong VKSND gồm có: Viện trưởng, Phó Viện
trưởng VKSND, Viện kiểm sát quân sự các cấp; Kiểm sát viên; Thủ trưởng, Phó
thủ trưởng CQĐT; Điều tra viên; Kiểm tra viên. Trong đó chức danh được giao
nhiệm vụ THQCT là Kiểm sát viên. Vì vậy Kiểm sát viên là chủ thể áp dụng
pháp luật về THQCT. Kiểm sát viên VKSND được chia làm 4 ngạch: Kiểm sát
viên VKSND tối cao; Kiểm sát viên cao cấp; Kiểm sát viên trung cấp; Kiểm sát

viên sơ cấp. Khi THQCT, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo
của Viện trưởng VKSND. Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
về hành vi, quyết định của mình trong việc THQCT, tranh tụng tại phiên tòa.
Khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên có quyền ra quyết định, kết luận, yêu
cầu, kiến nghị theo quy định của pháp luật. [33].
1.3. Nội dung hoạt động áp dụng pháp luật về thực hành quyền công
tố đối với vụ án xâm phạm sở hữu của Viện kiểm sát nhân dân
1.3.1. Quy chế thực hành quyền công tố
Căn cứ Quyết định số 111/QĐ-VKSTC, ngày 17/4/2020 của Viện trưởng
VKSND tối cao về việc ban hành Quy chế công tác thực hành quyền công tố,
kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố; Quyết định số 505/QĐ-VKSTC, ngày
18/12/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao về việc ban hành quy chế công tác
thực hành quyền cơng tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự; căn cứ Hướng dẫn số
09/HD-VKSTC, ngày 06/01/2020 về công tác thực hành quyền công tố và kiểm
sát xét xử hình sự, quy chế thực hành quyền cơng tố như sau:
a) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra và truy tố
- Kiểm sát viên phải nâng cao trách nhiệm, chủ động, sâu sát, toàn diện
khi THQCT trong quá trình giải quyết vụ việc, vụ án, từ giai đoạn xác minh
nguồn tin tội phạm đến giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố các vụ án hình sự.
- Trong giai đoạn xác minh tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố
phải nâng cao trách nhiệm trong việc xét, phê chuẩn áp dụng các biện pháp ngăn
chặn, các biện pháp cưỡng chế, chủ động đề ra các yêu cầu xác minh để làm rõ
sự việc, kiên quyết yêu cầu hoặc trực tiếp quyết định hủy bỏ các quyết định
khơng khởi tố vụ án hình sự không đúng pháp luật của CQĐT; trực tiếp xác
17


minh nguồn tin tội phạm theo quy định tại khoản 3, Điều 145 Bộ luật TTHS khi
phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.
- Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án, phải nắm chắc tiến độ điều tra vụ

án, chủ động đề ra yêu cầu điều tra chính xác để hỗ trợ Điều tra viên thu thập
chứng cứ làm rõ vụ án; thận trọng khi xét, phê chuẩn các lệnh, quyết định tố
tụng; yêu cầu hoặc tự mình ra quyết định khởi tố, thay đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ
lệnh, quyết định trái pháp luật của CQĐT. Trường hợp người bị bắt, người bị
khởi tố không nhận tội hoặc tài liệu chứng cứ có mâu thuẫn, thì phải trực tiếp
lấy lời khai, hỏi cung bị can trước khi phê chuẩn, bảo đảm chống oan hoặc bỏ lọt
tội phạm; thực hiện nghiêm và đầy đủ biện pháp trực tiếp kiểm sát khi Điều tra
viên tiến hành các hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực
nghiệm điều tra, khám xét. Kiểm sát chặt chẽ và tuân thủ nghiêm túc việc hỏi
cung bị can, lấy lời khai có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh tại trụ sở CQĐT,
Viện kiểm sát các cấp và các cơ sở giam giữ; tăng cường kiểm sát chặt chẽ việc
đình chỉ điều tra, kiên quyết yêu cầu hoặc trực tiếp hủy bỏ Quyết định đình chỉ
khơng đúng pháp luật của CQĐT.
- Trong giai đoạn truy tố, phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, kiểm tra, rà sốt lại
tồn bộ tài liệu, chứng cứ và thủ tục tố tụng; tiến hành phúc tra, đánh giá chính
xác, khách quan cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội. Trước khi quyết định
việc truy tố, nếu cần thiết thì trực tiếp hỏi cung bị can, ghi lời khai người làm
chứng, người bị hại, trực tiếp xem xét các dấu vết, vật chứng; nâng cao chất
lượng bản Cáo trạng bảo đảm việc truy tố bị can phải đúng người, đúng tội
danh, đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội và đúng thời hạn luật định.
- Quá trình THQCT phải kịp thời phát hiện các trường hợp bức cung,
nhục hình và xử lý nghiêm theo pháp luật; bảo đảm và tạo điều kiện cho người
bào chữa và người tham gia tố tụng khác nghiên cứu hồ sơ và thực hiện quyền
bào chữa; kịp thời phát hiện những vi phạm pháp luật trong hoạt động khởi tố,
điều tra để ban hành kiến nghị, kháng nghị khắc phục bảo đảm cho các hoạt
động điều tra, truy tố tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
- Cơ quan điều tra VKSND tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân
sự Trung ương thực hiện tốt việc tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố, kịp thời phát hiện, xử lý các tội phạm xâm phạm hoạt
18



×