Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

Đóng góp của các nhà thơ thế hệ đổi mới trong thơ việt nam sau 1986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 179 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠIAHỌC VINH

PHẠM THỊ TRỊNH

ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NHÀ THƠ
THẾ HỆ ĐỔI MỚI

TRONG THƠ VIỆT NAM SAU 1986

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ TRỊNH

ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NHÀ THƠ
THẾ HỆ ĐỔI MỚI
TRONG THƠ VIỆT NAM SAU 1986
Mã số: 9220121
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. LƯU KHÁNH THƠ
2. TS. LÊ THỊ HỒ QUANG


NGHỆ AN - 2021


LỜI CẢM ƠN
Trải qua quá trình học tập, nghiên cứu, thực hiện luận án, tôi xin trân
trọng gửi lời cảm ơn tới:
PGS.TS. Lưu Khánh Thơ và TS. Lê Thị Hồ Quang đã tận tình hướng
dẫn, đóng góp ý kiến q báu trong suốt qúa trình học tập và hồn thành cơng
trình nghiên cứu.
Trường Đại học Vinh, Phịng Đào tạo Sau đại học, Ngành Ngữ văn Viện Sư phạm xã hội cùng các thầy cô tham gia giảng dạy nghiên cứu sinh
chuyên ngành Văn học Việt Nam, Khóa 2016 - 2020.
Sở Giáo dục Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh, Phịng Giáo dục Đào tạo
quận Tân Bình, Hiệu trưởng, quý thầy cơ giáo trường THCS Âu Lạc, quận Tân
Bình đã tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ để tôi học tập, nghiên cứu nâng cao
trình độ chun mơn, nghiệp vụ.
Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tơi hồn thành khóa
học và luận án.

Nghệ An, tháng 5 năm 2021
Tác giả luận án

Phạm Thị Trịnh


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Lưu Khánh Thơ và TS. Lê Thị Hồ Quang. Việc giải
quyết các vấn đề đặt ra cũng như các kết quả nghiên cứu trình bày trong luận
án là hồn tồn trung thực, chính xác và chưa từng cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác.


Nghệ An, tháng 5 năm 2021
Tác giả luận án

Phạm Thị Trịnh


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 3
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
5. Đóng góp của luận án .................................................................................... 6
6. Cấu trúc của luận án ...................................................................................... 6
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU................................. 7
1.1. Cơ sở lý thuyết của đề tài ........................................................................... 7
1.1.1. Giới thuyết khái niệm.............................................................................. 7
1.1.2. Tiêu chí nhận diện nhà thơ thế hệ Đổi mới ........................................... 14
1.1.3. Một số lý thuyết hữu quan .................................................................... 20
1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................... 29
1.2.1. Những nghiên cứu trong nước .............................................................. 29
1.2.2. Những nghiên cứu ở nước ngoài ........................................................... 43
Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................... 46
Chương 2. BỐI CẢNH XUẤT HIỆN CỦA CÁC NHÀ THƠ THẾ HỆ ĐỔI
MỚI ................................................................................................................. 47
2.1. Bối cảnh lịch sử, văn học Việt Nam sau 1986 ......................................... 47
2.1.1. Về bối cảnh lịch sử ................................................................................ 47

2.1.2. Về bối cảnh văn học .............................................................................. 49
2.2. Sự tiếp nối và song hành của các thế hệ nhà thơ sau 1986 ...................... 54
2.2.1. Thế hệ chống Pháp, chống Mỹ.............................................................. 54
2.2.2. Thế hệ Đổi mới ..................................................................................... 57
2.2.3. Thế hệ tiếp nối Đổi mới ........................................................................ 61
2.3. Một số nhà thơ tiêu biểu của thế hệ Đổi mới ........................................... 63
2.3.1. Dư Thị Hoàn.......................................................................................... 63


2.3.2. Dương Kiều Minh ................................................................................. 64
2.3.3. Nguyễn Lương Ngọc ............................................................................. 65
2.3.4. Nguyễn Quang Thiều ............................................................................ 66
2.3.5. Mai Văn Phấn ........................................................................................ 67
2.3.6. Nguyễn Bình Phương ............................................................................ 68
2.3.7. Inrasara .................................................................................................. 68
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 69
Chương 3. ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NHÀ THƠ THẾ HỆ ĐỔI MỚI TRONG
QUAN NIỆM VỀ SÁNG TẠO VÀ BẢN CHẤT CÁI TƠI TRỮ TÌNH ....... 71
3.1. Đóng góp của các nhà thơ thế hệ Đổi mới trong quan niệm về sáng tạo .. 71
3.1.1. Tầm quan trọng của việc xây dựng quan niệm mới về sáng tạo........... 71
3.1.2. Sự thay đổi trong quan niệm về thơ và nhà thơ của thế hệ Đổi mới .. 72
3.1.3. Thơ của các tác giả thế hệ Đổi mới - từ quan niệm đến sáng tác ......... 90
3.2. Đóng góp của các nhà thơ thế hệ Đổi mới trong quan niệm về bản chất cái
tơi trữ tình ........................................................................................................ 92
3.2.1. Tầm quan trọng của việc ý thức về bản chất cái tôi trữ tình ................. 92
3.2.2. Sự thay đổi trong quan niệm về cái tơi trữ tình của nhà thơ thế hệ Đổi
mới ................................................................................................................... 95
3.2.3. Đặc điểm cái tơi trữ tình trong thơ thế hệ Đổi mới............................... 97
Tiểu kết Chương 3 ......................................................................................... 112
Chương 4. ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NHÀ THƠ THẾ HỆ ĐỔI MỚI TRÊN

PHƯƠNG DIỆN THỂ LOẠI, KẾT CẤU, NGÔN NGỮ ............................. 114
4.1. Những tìm tịi, đổi mới về mặt thể loại .................................................. 114
4.1.1. Những tìm tịi đa dạng trong hình thức thể loại .................................. 114
4.1.2. Thơ tự do ............................................................................................. 116
4.1.3. Thơ văn xi ....................................................................................... 119
4.2. Những tìm tịi, cách tân về mặt kết cấu.................................................. 122
4.2.1. Kết cấu mở - kiểu kết cấu phổ biến trong thơ hiện đại ....................... 122
4.2.2. Đặc điểm của kết cấu mở trong thơ thế hệ Đổi mới ........................... 124
4.3. Những tìm tịi, đổi mới trong ngơn ngữ ................................................. 136


4.3.1. Ngơn ngữ mang tính đời thường, suồng sã ......................................... 136
4.3.2. Ngơn ngữ mang tính tượng trưng, siêu thực ....................................... 139
Tiểu kết Chương 4 ......................................................................................... 146
KẾT LUẬN ................................................................................................... 147
DANH MỤC CƠNG TRÌNH CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lịch sử văn học là một cuộc chạy tiếp sức không mệt mỏi của nhiều
thế hệ tác giả. Đó cũng là q trình vận động theo quy luật kế thừa, nối tiếp, cách
tân hệ hình thẩm mĩ giữa các thế hệ. Mỗi thời kì lịch sử văn học thường có một
thế hệ đóng vai trò chủ lực trong việc kiến tạo nên diện mạo và hệ giá trị riêng
của thời kì văn học ấy, biểu hiện và thông qua nhiều mối quan hệ: giữa nhà văn
và hiện thực đời sống được phản ánh; giữa tác giả và tác phẩm; giữa tác phẩm
và độc giả… Đó là lớp người cầm bút được kết nối với nhau bởi hệ giá trị chung

của thời đại mà họ vừa là kẻ sản sinh, kiến tạo, vừa là sản phẩm của hệ giá trị đó.
Nghiên cứu lịch sử văn học từ góc độ thế hệ tác giả, do đó, là một hướng nghiên
cứu triển vọng, giúp việc phân định, đánh giá các thời kì lịch sử văn học được
chính xác, khách quan, khoa học.
1.2. Sau 1986, cùng với chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà
nước, những thay đổi to lớn trong bối cảnh văn hóa, chính trị của thế giới và
đất nước đã tác động mạnh mẽ tới đời sống văn học, đòi hỏi và thúc đẩy văn
nghệ sĩ phải đổi mới tư duy, quan niệm và lối viết. Đây là lí do tạo nên những
thành tựu nổi bật trên nhiều phương diện của văn học Việt Nam từ sau 1986
đến nay. Văn học Việt Nam giai đoạn này có một lực lượng tác giả đông đảo,
bao gồm nhiều thế hệ tiếp nối, song hành, trong đó, nổi bật là lớp tác giả thuộc
thế hệ Đổi mới, với nhiều cá tính sáng tạo độc đáo. Trong sáng tác của họ,
người ta nhận thấy nỗ lực mạnh mẽ nhằm vượt thốt tư tưởng, mơ hình phản
ánh giáo điều, cứng nhắc và ý thức khẳng định bản sắc sáng tạo cá nhân một
cách quyết liệt. Đó là những giá trị thẩm mĩ - nhân sinh rất đáng chú ý. Cùng
với các thế hệ trước và sau đó, các tác giả thế hệ Đổi mới đã có những đóng
góp hết sức ý nghĩa trong tiến trình vận động của văn học Việt Nam hiện đại.
1.3. Trong giai đoạn Đổi mới, thơ Việt Nam đạt được những thành tựu


2

rất đáng chú ý, xét về số lượng, chất lượng tác phẩm, chất lượng đội ngũ, sức
ảnh hưởng, tác động tới đời sống văn học… Nhắc đến các tác giả thơ thế hệ
Đổi mới là nhắc đến khá nhiều tên tuổi nổi bật và gây ấn tượng mạnh mẽ với
độc giả. Tác phẩm của họ thể hiện một quan điểm mĩ học mới, rất khác so với
quan điểm mĩ học truyền thống. Khơng chỉ dừng lại ở những tìm tịi kĩ thuật có
tính manh mún, riêng lẻ, chủ đích của họ hướng tới việc hình thành một hệ hình
tư duy thơ, một “loại hình” thơ hiện đại. Những thay đổi trong quan điểm mĩ
học và thi pháp thể hiện của họ có ảnh hưởng, tác động khơng nhỏ tới lớp tác

giả kế tiếp. Trên thực tế, sáng tác của các tác giả thế hệ Đổi mới cũng đã góp
phần tác động, làm thay đổi, mở rộng cách tiếp nhận thơ của người đọc và từ
đó, góp phần hình thành một lớp độc giả tương ứng với loại hình sáng tác hiện
đại. Dĩ nhiên, với những cách tân, đổi mới ráo riết trong quan điểm và thi pháp,
sáng tác của họ cũng đã gây ra những ý kiến tiếp nhận trái chiều gay gắt và
không phải lúc nào thơ của các tác giả này cũng nhận được sự ủng hộ. Nhưng
chính sự tiếp nhận đa chiều này cho thấy sáng tác của thế hệ Đổi mới đã và
đang hiện diện như một hiện tượng cần được lưu tâm nghiên cứu, lí giải, đánh
giá một cách kĩ lưỡng và khách quan, thỏa đáng hơn.
1.4. Hiện tại, chương trình giáo dục phổ thơng mơn Ngữ văn 2018 đang
có những thay đổi hết sức căn bản. Mục tiêu phát triển năng lực người học và
tính mở là những đặc điểm nổi bật của chương trình này. Điều này buộc người
dạy, người học phải hết sức chủ động trong việc mở rộng diện đọc, đánh giá,
lý giải các hiện tượng văn học hiện đại, trong đó có thơ Việt Nam sau 1986.
Đây cũng là một lí do khiến tác giả luận án, vốn là giáo viên Ngữ văn ở phổ
thông, lựa chọn vấn đề nghiên cứu này. Chúng tôi hy vọng kết quả nghiên cứu
về đóng góp của nhà thơ thế hệ Đổi mới được vận dụng hiệu quả vào thực tiễn
dạy học môn Ngữ văn theo định hướng giáo dục mới của chương trình.
1.5. Có thể nói, sáng tạo thơ của thế hệ nhà thơ Đổi mới đã làm phong
phú thêm đời sống thi ca Việt Nam đương đại, góp phần đưa thơ ca và tiếng


3

Việt hội nhập vào xu thế phát triển chung của nhân loại. Theo chúng tơi, việc
tìm hiểu những đóng góp của các nhà thơ thế hệ Đổi mới trong thơ Việt Nam
hiện đại là rất cần thiết. Tuy nhiên, đến nay, vẫn chưa có nhiều cơng trình
nghiên cứu chun sâu về vai trị, vị trí và đóng góp của thế hệ tác giả này.
Đó là những lý do cơ bản thúc đẩy chúng tơi nghiên cứu đề tài Đóng góp
của các nhà thơ thế hệ Đổi mới trong thơ Việt Nam sau 1986.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu đóng góp của các nhà thơ thế hệ Đổi mới
trong thơ Việt Nam sau 1986, cụ thể là những tìm tịi, đổi mới trong tư duy,
quan niệm và thi pháp.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án xác định phạm vi nghiên cứu là những đóng góp nghệ thuật thể
hiện qua/ trong tác phẩm của các nhà thơ thuộc thế hệ Đổi mới, đặc biệt tập
trung khảo sát sáng tác của các tác giả Dư Thị Hoàn, Nguyễn Lương Ngọc,
Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Nguyễn Bình
Phương, Inrasara. Ngồi ra, luận án cũng mở rộng phạm vi khảo sát về các hiện
tượng thơ Việt Nam hiện đại khác khi cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là nghiên cứu những tìm tịi, sáng tạo nghệ thuật
của các nhà thơ thế hệ Đổi mới, cụ thể trên các phương diện như tư duy nghệ
thuật, quan niệm thẩm mỹ, hệ thống thi pháp…; trên cơ sở đó, nhận ra những
đặc điểm mang tính quy luật trong tiến trình vận động, cách tân của thơ Việt
Nam hiện đại và có sự lý giải, đánh giá khách quan, thỏa đáng về vai trò, vị trí
và đóng góp của các nhà thơ thế hệ Đổi mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề, cụ thể là những


4

nghiên cứu trong nước và ngồi nước về những đóng góp của các nhà thơ thế
hệ Đổi mới.
- Xác định các khái niệm công cụ (tác giả, thế hệ tác giả/ nhà thơ, nhà
thơ thế hệ Đổi mới) và phân tích bối cảnh xuất hiện của nhà thơ thế hệ Đổi mới

sau 1986;
- Phân tích, đánh giá đóng góp của nhà thơ thế hệ Đổi mới trong quan
niệm về sáng tạo và bản chất cái tơi trữ tình;
- Phân tích, lí giải đóng góp của nhà thơ thế hệ Đổi mới trên phương diện
thể loại, kết cấu, ngôn ngữ…
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp loại hình
Phương pháp loại hình là phương pháp nghiên cứu đối tượng bằng cách
phân chia chúng thành các “loại”, “kiểu” để nhận diện cấu trúc và những quy
luật vận động, phát triển của chúng. Trong luận án, chúng tôi sử dụng phương
pháp này để phân loại và xác định những đặc điểm chung nhất, tạo nên tính
chất “loại hình” của các tác giả thơ thuộc thế hệ Đổi mới. Nó cũng được sử
dụng để đối chiếu, so sánh nét khác biệt và những điểm đặc thù giữa thế hệ Đổi
mới với các thế hệ thơ khác. Bằng phương pháp này, tác giả luận án sẽ phân
loại và xem xét, đánh giá cụ thể, khách quan hơn đối với các loại hình tác giả,
tác phẩm.
4.2. Phương pháp cấu trúc - hệ thống
Phương pháp cấu trúc - hệ thống là phương pháp nghiên cứu đối tượng
trong tư cách một cấu trúc chỉnh thể, chặt chẽ, bao gồm nhiều yếu tố tạo thành.
Xuất phát từ quan niệm về thơ nói chung, sáng tác thơ của thế hệ Đổi mới nói
riêng, là những cấu trúc chỉnh thể, hệ thống, trong luận án, chúng tôi sử dụng
phương pháp nghiên cứu cấu trúc - hệ thống để phân tích, lý giải mối quan hệ
cũng như các yếu tố hợp thành cấu trúc chỉnh thể nghệ thuật này. Trên cơ sở
đó, nhận ra đặc điểm và ý nghĩa, giá trị của các phương diện riêng lẻ và đồng


5

thời, cả tồn bộ hệ thống cấu trúc của nó. Tiếp cận từng tác giả, tác phẩm, chúng
tôi cũng quan tâm đến tính chỉnh thể cấu trúc của chúng.

4.3. Phương pháp nghiên cứu lịch sử
Đây là phương pháp nghiên cứu văn học bằng cách đặt các hiện tượng
văn học trong mối liên hệ với hồn cảnh lịch sử, chính trị, văn hóa…, trên bối
cảnh lịch sử sinh thành cụ thể đó để lý giải, đánh giá. Nghiên cứu lịch sử của
văn học cịn có nghĩa là nghiên cứu q trình hình thành, phát sinh, phát triển
của nó, trên cơ sở đó, nhận ra đặc điểm và quy luật vận động nội tại của hiện
tượng đó. Bám sát các điều kiện về lịch sử - văn hóa đã chi phối đến những
biến đổi, vận động của văn học, tác giả luận án cố gắng làm rõ mối quan hệ qua
lại và những tác động của bối cảnh xã hội - lịch sử tương ứng đã tạo nên nét
khác biệt của thế hệ Đổi mới so với các thế hệ khác trong tiến trình lịch sử của
nền thơ Việt Nam.
4.4. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Đây là phương pháp nghiên cứu văn học từ góc độ thi pháp học. Luận án
đã vận dụng phương pháp này nhằm đi sâu phân tích những đặc trưng thi pháp
trong sáng tác của các nhà thơ thế hệ Đổi mới, cụ thể trên các phương diện quan
niệm sáng tạo, hình tượng cái tơi, kết cấu, ngôn ngữ, bút pháp… Phương pháp
này cũng giúp tác giả luận án nghiên cứu, tìm hiểu sự tác động, chi phối của
quan niệm sáng tạo tới cách thể hiện trong hình thức thơ của thế hệ Đổi mới.
4.5. Nhóm thao tác nghiên cứu phân tích - tổng hợp, thống kê - phân
loại, so sánh
Đây là nhóm thao tác nghiên cứu giúp tác giả luận án phân tích những
điều kiện về bối cảnh lịch sử, các tiền đề văn hóa với những ưu điểm và nhược
điểm của nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng, tác động, tạo nên đặc điểm quan
niệm, cảm hứng và thi pháp trong sáng tác của thế hệ nhà thơ Đổi mới; thống
kê số lượng tác giả, tác phẩm, tần số lặp lại của một số yếu tố, chi tiết nghệ
thuật cần thiết; so sánh, đối chiếu giữa các hiện tượng tác giả, tác phẩm trong


6


thơ của thế hệ Đổi mới, giữa sáng tác của thế hệ Đổi mới so với thế hệ trước và
sau đó…
5. Đóng góp của luận án
Luận án là cơng trình khoa học nghiên cứu tương đối bao quát, hệ thống
về đặc điểm và đóng góp của nhà thơ thế hệ Đổi mới trong thơ Việt Nam sau
1986 trên phương diện hệ hình tư duy, quan niệm sáng tạo và nghệ thuật thể
hiện. Trên cơ sở xác định những khái niệm cơng cụ và phương pháp luận nghiên
cứu, phân tích, luận giải về một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu, luận án góp phần
định vị và đánh giá một cách khách quan, thỏa đáng về vai trị và đóng góp của
các nhà thơ thế hệ Đổi mới trong thơ Việt Nam hiện đại.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận án sẽ được triển khai trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Bối cảnh xuất hiện của các nhà thơ thế hệ Đổi mới
Chương 3: Đóng góp của các nhà thơ thế hệ Đổi mới trong quan niệm
về sáng tạo và bản chất cái tơi trữ tình
Chương 4: Đóng góp của các nhà thơ thế hệ Đổi mới trên phương diện
thể loại, kết cấu, ngôn ngữ


7

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý thuyết của đề tài
1.1.1. Giới thuyết khái niệm
1.1.1.1. Tác giả
Tác giả (tiếng Anh: author; tiếng Pháp: auteur) là khái niệm đã được bàn
đến trong khá nhiều cơng trình, tài liệu khoa học. Hiểu theo nghĩa rộng, tác giả

là người sản xuất ra các sản phẩm sáng tạo trí tuệ, bao gồm nhiều lĩnh vực như
khoa học, công nghệ, văn hóa, nghệ thuật... Hiểu theo nghĩa hẹp, khái niệm tác
giả thường được đồng nhất với khái niệm tác giả văn học, là người sáng tạo ra
các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. “Tác giả”, cùng với “tác phẩm”, “thể loại”,
“thời kỳ văn học” là những khái niệm then chốt trong phê bình, nghiên cứu lịch
sử văn học.
Nói đến tác giả, trước hết là nói đến tư cách người sinh thành, sáng tạo
ra tác phẩm. Dấu ấn cá tính của tác giả thể hiện đậm nét trong tác phẩm. Chẳng
vậy mà ở phương Đông, từ thế kỉ VII, người ta đã khẳng định “văn như kì nhân”
(văn như con người viết ra nó). Cịn ở phương Tây, ở thế kỉ XVIII, Buffon từng
khẳng định, “phong cách ấy là con người” (dẫn theo [165, 203]).
Tuy nhiên, nói đến tác giả cịn nói đến tư cách người sáng tạo, người tạo
tác ra những giá trị mới, về mặt thẩm mĩ, nghệ thuật. Nhóm tác giả Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, trong Từ điển thuật ngữ văn học khẳng định:
“Nhìn bề ngồi, tác giả là người làm ra văn bản ngơn từ: bài thơ, bài văn, bài
báo, tác phẩm văn học. Về thực chất, tác giả văn học là người làm ra cái mới,
người sáng tạo ra các giá trị văn học mới” [43, 194]. Lại Nguyên Ân, trong 150
thuật ngữ văn học, cũng nhấn mạnh, bằng sự sáng tạo cá nhân, bằng bản sắc
riêng, tác giả “là một đơn vị, một điểm tính, một bộ phận hợp thành q trình
văn học, một gương mặt không thể thay thế, tạo nên diện mạo chung một thời


8

kỳ hoặc một thời đại văn học”. Bởi vậy, “trong nghiên cứu văn học sử cụ thể,
chẳng những có thể nghiên cứu riêng về từng tác giả văn học mà cịn có thể đề
xuất phạm trù loại hình tác giả” [6, 295].
Từ góc nhìn của thi pháp học lí thuyết, Trần Đình Sử, trong Dẫn luận thi
pháp học (2017), nói rõ thêm: “Tác giả là trung tâm tổ chức nội dung và hình
thức cái nhìn nghệ thuật trong tác phẩm, là người mang thế giới cảm đặc thù và

trung tâm tổ chức lại ngôn từ theo nguyên tắc nghệ thuật. Do vậy, hình tượng
tác giả, kiểu tác giả là những phạm trù của thi pháp học hiện đại” [165, 206207]. Nhà nghiên cứu cũng phân biệt các khái niệm: tác giả thực tại, tác giả
hàm ẩn, mặt nạ tác giả và hình tượng tác giả. Từ đó, ơng nhấn mạnh vai trị,
chức năng và cấu trúc của hình tượng tác giả văn học.
Khái niệm tác giả cũng được bàn tới trong nhiều từ điển chun ngành,
cơng trình, chun luận nghiên cứu, bài báo khoa học, luận văn, luận án khoa
học… Trên cơ sở những tài liệu tham khảo, chúng tôi đề xuất cách hiểu về khái
niệm tác giả (tác giả văn học) trong luận án như sau:
- Tác giả (còn gọi là nhà văn, nhà thơ...) là người sáng tạo ra các giá trị
nhân sinh - thẩm mĩ mới, thông qua tác phẩm ngơn từ. Đó là tác giả tiểu sử (hay
cịn gọi là tác giả thực tại), có tên họ, giới tính, nghề nghiệp, thời gian sống và
sự nghiệp sáng tác…, Đó là người sáng tác và nắm tác quyền về mặt pháp lí
đối với tác phẩm. Về mặt mĩ học, tác giả là người có khả năng kiến tạo trong
tác phẩm một mơ hình thế giới nghệ thuật độc đáo, thể hiện tư tưởng và ngôn
ngữ mới, mang dấu ấn sáng tạo cá nhân.
- Tác giả đồng thời cịn được hiểu như một hình tượng tự biểu hiện của
người sáng tạo trong tác phẩm. Nó thể hiện lập trường tư tưởng, quan niệm
thẩm mĩ và nguyên tắc cảm nhận, lí giải của tác giả về thế giới. Chân dung tinh
thần của tác giả in đậm trong tác phẩm, góp phần tạo nên phong cách, cá tính
nghệ thuật của tác giả. Tuy nhiên, không thể đồng nhất giản đơn chân dung tác
giả - tiểu sử với tác giả hàm ẩn, được biểu hiện trong tác phẩm, như một loại


9

hình tượng đặc thù.
- Tác giả văn học xuất hiện trong những bối cảnh và điều kiện lịch sử,
chính trị, xã hội, văn hóa, văn học… tương ứng, nhất định. Có thể nói, tác giả
là chủ thể sáng tạo, đồng thời cũng là kết quả, là sản phẩm của quá trình văn
học. Bởi vậy, nếu phân chia tác giả theo tiêu chí loại hình lịch sử, ta sẽ có các

“loại hình” tác giả như tác giả văn học dân gian, tác giả văn học trung đại, tác
giả văn học hiện đại… Đó là cơ sở cho phép chúng ta, bên cạnh việc nghiên
cứu từng tác giả cụ thể, cịn có thể nghiên cứu loại hình tác giả.
1.1.1.2. Thế hệ tác giả/ thế hệ nhà thơ
Trong tiếng Anh, nghĩa gốc của thế hệ (generation) gắn liền với ý nghĩa
“sinh ra, sự phát sinh ra”, bên cạnh các nghĩa phái sinh của nó là sự tạo thành,
đời… Trước hết, đây là thuật ngữ dùng để chỉ một lớp người/ sinh vật có những
đặc điểm chung về lứa tuổi, cấu trúc sinh học và khơng gian, bối cảnh sống. Nó
được phân biệt với lớp trước (đã sinh ra mình) và lớp sau (do mình sẽ sinh ra,
tiếp nối mình). Thế hệ là khái niệm được sử dụng khá phổ biến trong đời sống
và một số lĩnh vực khoa học.
Trong nghiên cứu văn học, nói đến thế hệ tác giả, cụ thể là thế hệ nhà
thơ, là nói đến những lớp người viết/ sáng tạo xuất hiện nối tiếp nhau trong lịch
sử văn học, thơ ca. Đó là kết quả phân loại của tư duy loại hình, nhằm mục đích
nhận diện và nghiên cứu q trình văn học một cách khách quan, chính xác. Dĩ
nhiên, việc phân loại các thế hệ tác giả, cụ thể hơn là thế hệ nhà văn, nhà thơ…
hoàn toàn khơng đơn giản. Nó phải được xác định dựa trên nhiều tiêu chí.
Chẳng hạn, về thời gian, thời điểm xuất hiện và khẳng định của thế hệ, về độ
tuổi của các tác giả; về số lượng và thành tựu của đội ngũ tác giả; về sự gặp gỡ,
thống nhất trong quan niệm, tư tưởng của những tác giả then chốt (nói cách
khác là “tính cộng đồng mĩ học” của các tác giả); về số lượng và chất lượng tác
phẩm; về những đóng góp của thế hệ này so với thế hệ trước và sau đó…
Từ góc nhìn lịch đại, lịch sử văn học là sự tiếp nối liên tục của nhiều thế


10

hệ cầm bút. Thế hệ sau tiếp nối, kế thừa thế hệ trước, từ đó, cách tân, chuyển
hóa thành hệ thẩm mỹ mới của thế hệ mình. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ đồng
đại, có thể thấy, ngay trong mỗi một thời kì văn học đều có sự tiếp biến và đồng

tồn của nhiều thế hệ khác nhau. Mặt khác, trong mỗi một thời kì văn học đều
có một thế hệ đóng vai trị chủ lực. Chính thế hệ cầm bút này, với tư cách chủ
thể sáng tạo cốt lõi, sẽ tạo nên diện mạo riêng, độc đáo cho thời kì văn học ấy.
Một thế hệ tác giả/ thế hệ nhà thơ không giản đơn chỉ là sự gom gộp số
lượng của các cá nhân sáng tạo. Thay vào đó, việc phân chia, nhìn nhận, đánh
giá thế hệ tác giả/ nhà thơ cần dựa vào diện mạo nghệ thuật chung của cả một
lớp sáng tác. Một thế hệ nhà thơ chỉ được thừa nhận khi họ xác lập được một
hệ giá trị thẩm mỹ mới cùng một diện mạo văn học mới, mang tính khác biệt
so với trước đó. Hệ thẩm mỹ ấy được nhìn nhận trong mối quan hệ đan bện
giữa hiện thực được phản ánh, chủ thể phản ánh và chủ thể tiếp nhận, thể hiện
qua tác phẩm - trung tâm của các mối quan hệ ấy. Nó bao gồm “một chuẩn mực
đặc thù về cái đẹp, một điệu tình cảm thẩm mỹ nổi bật và một hệ thống thi pháp
tương ứng” [130, 8]. Hệ thẩm mỹ ấy được tạo ra thông qua sự phủ định và kế
thừa những giá trị truyền thống, thông qua trải nghiệm và kiến tạo cái mới. Tựu
trung, có thể hiểu, thế hệ tác giả/ nhà thơ thực sự “phải là chủ thể cốt lõi của
một chặng đường văn học. Đó là một lớp người cầm bút được kết nối bởi cùng
một hệ giá trị chung của thời mình. Họ vừa là kẻ sản sinh lại vừa là sản phẩm
của hệ giá trị đó” [130, 8].
Theo ý Chu Văn Sơn, nhìn vào lực lượng cầm bút của một chặng đường
lớn, người ta có thể phân chia thành ba lớp sáng tác: lớp trước, lớp giữa, lớp
sau. Lớp trước được nhìn nhận trong vai trò chủ lực của chặng trước. Họ là đại
diện cho một hệ giá trị thẩm mỹ đã được khẳng định, ngự trị trong giai đoạn
trước đó. Trong số họ, có thể có người đến giai đoạn này vẫn cịn sáng tác, thậm
chí tỏa sáng. Tuy nhiên, về căn bản, độ sung sức của họ đã thuộc về phía trước.
Do đó, chủ lực của một chặng đường văn học thường là lớp giữa. Họ mang


11

trong mình sứ mệnh xác lập, định hình và hồn thiện hệ giá trị của giai đoạn

mình, thời mình; và trong mối quan hệ với giai đoạn sau, chính họ lại đóng vai
trị “tiền bối”, những thành tựu của họ sẽ được giai đoạn sau kế thừa, đổi mới
theo một hệ giá trị mới, mang những nét khác biệt so với họ [130, 8-9].
Tuy nhiên, những sự phân định thế hệ tác giả như trên chỉ có tính tương
đối. Bởi các thế hệ không phải luôn tồn tại trong những môi trường, bối cảnh
lịch sử khác biệt. Trên thực tế, ngay trong một giai đoạn lịch sử văn học, luôn có
sự tồn tại đan xen, song hành nhiều thế hệ tác giả. Ngay trong giai đoạn văn học
do thế hệ này đóng vai trị chủ lực cũng có thể có nhiều tác giả thuộc thế hệ trước
hoặc sau đó tham gia sáng tác, thậm chí gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Song
những trường hợp ấy không nhiều, và dù sao hệ hình thi pháp thế hệ mà những
tác giả ấy thuộc về vẫn chi phối sáng tác của họ, làm họ khó có thể bứt phá, thay
đổi một cách triệt để.
Nhìn một cách bao quát, mỗi thời đại văn học luôn tạo ra thế hệ tác giả/
nhà thơ riêng của nó và cùng với thế hệ tác giả ấy là lớp độc giả tương ứng. Đó
là lớp tác giả - độc giả của hệ hình tư duy sáng tạo và tiếp nhận mà thời đại ấy
tạo ra. Do đó, việc nghiên cứu thế hệ tác giả là một hướng nghiên cứu triển
vọng, giúp cho việc phân định, đánh giá kết quả nghiên cứu lịch sử văn học
được khách quan, khoa học.
1.1.1.3. Nhà thơ thế hệ Đổi mới
Trên cơ sở giới thuyết về khái niệm thế hệ tác giả/ thế hệ nhà thơ nói
trên, chúng tơi sẽ tiếp tục trình bày về khái niệm then chốt của luận án - nhà
thơ thế hệ Đổi mới. Khái niệm này đã được một số nhà phê bình, nghiên cứu
đề cập đến. Sau đây, chúng tơi xin lược trích một số ý kiến tiêu biểu.
Trong bản đề dẫn Hội thảo Thế hệ nhà văn sau 1975 (do Trường Đại học
Văn hóa Hà Nội tổ chức, 2016), nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn đặt câu hỏi: Thế
hệ nhà văn sau 1975, họ là ai? Và ông khẳng định: Thế hệ nhà thơ Đổi mới là:
“Thế hệ sau 1975, chủ yếu là 5x - 6x. Và, thế hệ này thực sự bước lên văn đàn


12


từ sau 1975. Nói “thực sự”, vì ngồi phần đại thể, có thể có người cầm bút từ
trước đó. Song, quãng trước, họ mới mon men mé ngoại vi, chầu rìa, thậm chí,
cịn mờ, lạc. Phải sau 1975, họ mới đĩnh đạc cất tiếng” [130, 11]. Đỗ Lai Thúy
cũng khẳng định văn học sau 1975 đã cho ra đời một "thế hệ nhà văn sau 1975".
Ông luận giải rõ hơn về thế hệ tác giả này như sau. Thứ nhất, có thể hiểu đó là
những người cầm bút/ xuất hiện/ công bố tác phẩm chỉ từ sau 1975, nhất là từ
sau Đổi mới và Mở cửa 1986. Đa số họ viết theo tinh thần của giai đoạn này.
Thứ hai, là những nhà văn của các giai đoạn trước đó nay vẫn tiếp tục sáng tác.
Một số từ giã lối viết cũ, chuyển sang viết mới, thậm chí cịn mở đầu cho viết
mới, nhưng đa số thì vẫn vẫy vùng thẩm mỹ ở vùng quen thuộc của mình. Thứ
ba là những người có các tác phẩm đã viết ở giai đoạn trước, nhưng khơng được
in, vì "vượt trước thời đại", nay họ vừa sáng tác vừa công bố những "tác phẩm
bỏ ngăn kéo" của mình. Như vậy, văn học sau 1975 gồm nhiều thế hệ cầm bút,
trong đó những nhà văn chỉ xuất hiện từ sau 1975 là quan trọng nhất” [130, 26].
Với tư cách là người sáng tác cũng là người phê bình đồng thời, đồng thế
hệ, Nguyễn Việt Chiến, trong Thơ Việt Nam, tìm tịi và cách tân (1975 - 2000),
đã định nghĩa nhà thơ thế hệ Đổi mới là “các nhà thơ thuộc thế hệ hậu chiến (xuất
hiện từ 1975 đến 1990) - đây là những gương mặt thơ tiêu biểu làm nên diện mạo
chính của thời kỳ đổi mới trong thơ Việt Nam đương đại” [13, 12]. Mai Văn Phấn
cũng đồng thuận với nhận định của các tác giả trên về độ tuổi và thời điểm xuất
hiện của các nhà thơ thế hệ Đổi mới. Ông khẳng định, nhà thơ thế hệ Đổi mới
là những nhà thơ “chủ yếu nằm ở thế hệ 5x và 6x. Tác phẩm của họ thực sự đã
có vị trí xứng đáng trong lịng người đọc với những đóng góp đáng kể vào đời
sống văn học” [138, 368].
Trong bài viết Tư duy thơ Việt Nam sau 1975 qua sáng tác của một số
tác giả thế hệ Đổi mới, Lê Hồ Quang đã nhận định:“Thế hệ nhà thơ Đổi mới”
là thuật ngữ mang tính quy ước, nhằm chỉ một thế hệ nhà thơ Việt Nam đương
đại có những đặc điểm sau: về độ tuổi, họ chủ yếu thuộc thế hệ 5x, 6x; xuất



13

hiện và gây chú ý trên thi đàn vào thời Đổi mới (sau 1986); có những cách tân
quyết liệt trong quan niệm và thi pháp... Xét về mặt lịch sử, có thể nói đây là
thế hệ trung gian nối kết giữa thế hệ nhà thơ chống Mỹ và thế hệ tác giả “thơ
trẻ” sau này (“thơ trẻ” cũng là một thuật ngữ quy ước, nhằm chỉ thế hệ nhà thơ
sinh sau 1975, sống và viết trong thời bình). Là thế hệ trung gian nhưng đồng
thời cũng là “thế hệ Đổi mới”, ý thức về vị trí lịch sử đặc biệt của mình giúp họ
sớm xác định mục tiêu cách tân thi ca và nhanh chóng nắm bắt những cơ hội
sáng tạo mà thời đại mở cửa và hội nhập đã mang lại. Đây là một thế hệ tác giả
khá đa dạng, phức tạp và vẫn đang vận động, sáng tạo” [130, 77].
Như vậy, để định danh lớp tác giả thơ Việt Nam giai đoạn hậu chiến và
Đổi mới, một số nhà nghiên cứu đã sử dụng những cái tên như: nhà thơ Đổi
mới, nhà thơ sau Đổi mới, thế hệ nhà thơ Đổi mới, thế hệ nhà văn sau 1975,
thế hệ nhà văn hậu chiến… Những cách định danh này đều dựa trên những căn
cứ nhất định, tuy nhiên, theo chúng tơi, chúng đều có một số điểm bất ổn, chưa
thực thuyết phục. Chẳng hạn, cách định danh thế hệ nhà văn sau 1975, thế hệ
nhà văn hậu chiến hàm nghĩa xác định thế hệ này bằng các mốc lịch sử. Mặc
dù lịch sử ln có tác động mạnh mẽ đến văn học song sự vận động, phát triển
và các dấu mốc của văn học không thể đồng nhất với các sự kiện lịch sử. Hoặc
cách định danh nhà thơ Đổi mới có thể đưa đến sự nhầm lẫn, ngộ nhận rằng
những thế hệ nhà thơ trước đó khơng đổi mới, mặc dù trên thực tế khơng phải
như vậy.
Do đó, chúng tôi quyết định sử dụng thuật ngữ “nhà thơ thế hệ Đổi mới”
để định danh đối tượng nghiên cứu của mình. Cách định danh này trước hết
nhằm nhấn mạnh tính cộng đồng, tính tập thể về mặt lịch sử - mĩ học của một
lớp nhà thơ cầm bút trong giai đoạn từ sau 1986 đến nay. Từ “đổi mới” trong
khái niệm “nhà thơ thế hệ Đổi mới” được dùng theo tên gọi một phong trào xã
hội của Việt Nam xuất hiện vào giữa những năm 80 của thế kỉ XX (phong trào

Đổi mới đất nước, được khởi xướng từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần


14

thứ VI), nhằm xác định thế hệ cầm bút này trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể,
khác với hoàn cảnh lịch sử - xã hội của các thế hệ cầm bút đã xuất hiện trước
và sau đó (ví dụ thế hệ nhà thơ chống Pháp, thế hệ nhà thơ chống Mỹ…), chứ
không mang hàm nghĩa định giá. Đây là lớp tác giả có chung đặc điểm về lứa
tuổi, thời gian xuất hiện, quan điểm mĩ học và thi pháp thể hiện. Trong luận án,
ở một số trường hợp (ví dụ trong một số tiểu mục hoặc lập luận), để tránh trùng
lặp, dài dịng, chúng tơi sẽ chọn cách diễn đạt rút gọn là thế hệ Đổi mới, nhưng
vẫn với hàm ý chỉ đối tượng nói trên.
Trên cơ sở tham khảo, tổng hợp ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước,
chúng tôi xin đề xuất cách hiểu khái niệm “nhà thơ thế hệ Đổi mới” trong luận
án như sau:
“Nhà thơ thế hệ Đổi mới” là một cách định danh mang tính quy ước,
nhằm chỉ thế hệ nhà thơ Việt Nam xuất hiện và thành danh chủ yếu vào thời kỳ
Đổi mới (sau 1986). Về độ tuổi, họ chủ yếu thuộc thế hệ 5x, 6x. Về thời điểm
xuất hiện, họ chủ yếu sáng tác và thành danh từ khoảng sau 1986 đến 2000.
Sáng tác của họ thể hiện quan niệm và thi pháp sáng tạo mới, khác biệt so với
các thế hệ nhà thơ trước đó. Đó là kiểu tư duy thuộc hệ hình hiện đại và hậu
hiện đại. Thế hệ nhà thơ này hội tụ khá nhiều cá tính nghệ thuật riêng biệt, độc
đáo, gây chú ý, ảnh hưởng, tác động khá mạnh mẽ trong giới sáng tác và độc
giả. Họ được “điểm danh” bởi các nhà phê bình nhạy bén, được ghi nhận, nhắc
nhớ, tôn vinh của những người sáng tạo đồng thời, đồng lứa, có ảnh hưởng, tác
động tới những cây bút đồng thời hoặc kế tiếp... Đây là một thế hệ sáng tác có
đội ngũ đơng đảo, sức sáng tạo dồi dào, mạnh mẽ. Nhiều tác giả của thế hệ này
vẫn đang trong thời kỳ sáng tác sung sức và có những đóng góp nổi bật cho thơ
Việt Nam đương đại.

1.1.2. Tiêu chí nhận diện nhà thơ thế hệ Đổi mới
1.1.2.1. Xác định tiêu chí nhận diện nhà thơ thế hệ Đổi mới
Theo chúng tơi, có thể nhận diện nhà thơ thế hệ Đổi mới theo những tiêu


15

chí dưới đây.
Trước hết là tiêu chí về độ tuổi. Trừ một số trường hợp đặc biệt, hầu hết
mỗi thế hệ đều có sự gần gũi nhau về khung độ tuổi. Nếu thế hệ chống Pháp là
+/- 2x, thế hệ chống Mỹ hầu hết là 3x - 4x, thì thế hệ Đổi mới chủ yếu là 5x 6x. Về mặt lịch sử, thế hệ nhà thơ Đổi mới được xem là thế hệ trung gian giữa
thế hệ thơ kháng chiến chống Mỹ 1945 - 1975 với thế hệ thơ sau này (những
người sinh sau 1975, sống và sáng tác trong thời bình).
Thứ hai, tiêu chí về thời gian xuất hiện. Các nhà thơ thế hệ Đổi mới chủ
yếu sáng tác và công bố tác phẩm từ sau 1986. Tuy nhiên, một số trường hợp
ngoại lệ đã cầm bút từ giai đoạn trước đó. Số lượng sáng tác của các nhà thơ
thế hệ Đổi mới được công bố và được độc giả chú ý đón nhận đặc biệt tập trung
trong khoảng hơn 10 năm sau Đổi mới. Trong thời gian này (khoảng từ 1986 2000), thi đàn Việt Nam đánh dấu sự nở rộ của hàng loạt các tác phẩm, tác giả
với những bút pháp mới, những cách viết, kỹ thuật mới mẻ. Cho đến nay, nhiều
tác giả thuộc thế hệ này vẫn tiếp tục viết với nhiều tìm tịi, sáng tạo.
Thứ ba, tiêu chí về tính cách tân trong hình thức, kỹ thuật thơ các tác giả
thế hệ Đổi mới. Thơ của các tác giả thế hệ Đổi mới, nhìn chung, thể hiện tư
tưởng và nỗ lực cách tân hình thức, kỹ thuật thơ một cách mạnh mẽ. Đó là ý
thức phản truyền thống, vượt ra khỏi những quy phạm, những “cái gì đã cũ”,
“cái gì khơng thật”… để đạt đến những giá trị sáng tạo mới. Thơ của các tác
giả này thường hướng đến những tìm tịi thi pháp theo hướng chủ nghĩa hiện
đại và hậu hiện đại.
Trên đây là một số tiêu chí nhận diện thế hệ nhà thơ Đổi mới. Việc nhận
diện này nhằm đem đến sự khu biệt (có tính chất tương đối) đối với các thế hệ
thơ ca trước và sau đó trong lịch sử phát triển thơ ca Việt Nam hiện đại.

1.2.2.2. Xác định tiêu chí nhận diện sự đổi mới, cách tân trong thơ của
thế hệ nhà thơ Đổi mới
Để nhận diện sự đổi mới, cách tân trong thơ Việt Nam sau 1986, theo


16

chúng tơi có thể dựa trên một số tiêu chí như sau:
Một là, họ cùng kiến tạo nên một kiểu tư duy và hệ giá trị thẩm mĩ mới,
hiện đại. Sau 1975, đất nước bước vào giai đoạn hậu chiến và Đổi mới. Thực
tiễn đời sống kinh tế - xã hội nhiều biến động của đất nước, sự mở cửa giao lưu
thương mại và kinh tế, văn hóa của Việt Nam với thế giới; sự phát triển của
khoa học công nghệ, đặc biệt là sự xuất hiện, phát triển của internet và các trang
liên mạng… tất cả đã buộc văn nghệ sỹ không thể tiếp tục nghĩ và viết như
trước nữa. Hàng loạt các cây bút của thế hệ Đổi mới đã ra sức vượt thốt khỏi
hệ hình thi pháp cũ, và bằng tư duy và bút pháp phi sử thi, họ đã gây nên tiếng
vang với Lối nhỏ của Dư Thị Hoàn, Củi lửa của Dương Kiều Minh, Từ nước,
ngày sinh lại của Nguyễn Lương Ngọc, Sự mất ngủ của lửa của Nguyễn Quang
Thiều… Tuy nhiên, thay vì đứng riêng lẻ, độc lập; họ luôn nỗ lực cùng đồng
hành, tìm ra tiếng nói thẩm mĩ chung của thế hệ. Trong số những hiện tượng
thơ này, có khơng ít các tác giả vừa là nhà thơ vừa là nhà phê bình xuất sắc
(Inrasara, Mai Văn Phấn, Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều…). Bên
cạnh việc tiếp thu, học hỏi các hiện tượng thơ đa dạng của Việt Nam và thế
giới, họ đọc thơ của nhau, ghi nhận và đánh giá các sản phẩm của nhau. Họ trao
đổi, tiếp thu, trau dồi và học hỏi với tinh thần cầu thị tích cực, nhằm đưa thơ
mình và thơ của thế hệ mình đến đích cao hơn trong hoạt động sáng tạo. Có thể
nói, bằng sự tương tác, kết nối đầy ý thức ấy, họ đã cùng nhau tạo nên tính
“cộng đồng thẩm mĩ” của thế hệ nhà thơ thời Đổi mới.
Hai là sự cách tân, đổi mới về mặt thi pháp. Có thể thấy, thơ giai đoạn
này đã phá vỡ thế “độc tôn” của hệ thống thi pháp chủ nghĩa hiện thực xã hội

chủ nghĩa trước đó. Sau 1986, nhiều trào lưu, khuynh hướng, phương pháp sáng
tác cùng tồn tại. Cá tính sáng tạo của nhà thơ được chú ý, coi trọng. Điều đó đã
làm nên cuộc cách tân thi pháp hết sức mạnh mẽ trong thơ giai đoạn này. Thay
vì thứ ngơn ngữ đơn giọng, mang tính “đồng phục”, các nhà thơ thế hệ Đổi mới
đã sản sinh ra những lớp ngôn ngữ đa giọng, đa sắc, “gây hấn”, “thách thức”


17

gay gắt với mĩ cảm truyền thống. Thay vì kiểu kết cấu đóng kín thường thấy
trong thơ trước đây, giờ đây phổ biến trong thơ là lối kết cấu mở. Với lối kết
cấu này, các nhà thơ thường có xu hướng giấu mặt triệt để cái tơi trữ tình, đẩy
đối tượng mô tả lên bề mặt văn bản; gia tăng các khoảng trắng khoảng trống
trong lời thơ, bài thơ;… Từ đó, thơ “chắp cánh” cho trí tưởng tượng, “vẫy gọi”
những cách lý giải khác nhau của người đọc, nâng cao vai trò đồng sáng tạo
của họ. Việc tiếp xúc thường xuyên với những tác phẩm mới góp phần tạo nên
thói quen và thị hiếu đọc mới, giúp mở rộng, đa dạng nhãn quan tiếp nhận và
gout thẩm mĩ của độc giả, qua đó, dần hình thành nên một lớp độc giả mới,
tương thích với lớp tác giả hiện đại.
1.1.2.3. Xác định tiêu chí nhận diện tác giả tiêu biểu của thế hệ Đổi mới
Nhận diện những tác giả tiêu biểu là xem xét những thành tựu cá nhân
nổi bật trong bối cảnh sáng tạo của cả một thế hệ đông đảo. Họ phải là những
người tiên phong, thể hiện tinh thần cách tân mạnh mẽ, và sau hết, gặt hái những
thành công nhất định, được sự ghi nhận của người đọc, giới chun mơn, phê
bình đánh giá tích cực. Dĩ nhiên, việc xem xét, đánh giá các hiện tượng thơ này
cần phải xuất phát trên nền bối cảnh lịch sử, văn hóa, văn học cụ thể.
Có thể nói, sau 1986 trong thơ Việt Nam đã xuất hiện một lực lượng sáng
tác khá đông đảo. Các nhà thơ với ý thức cách tân, khao khát đổi mới đã giúp
cho diện mạo thơ Việt trở nên phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, chính điều này
đã khiến cho việc đánh giá, chọn lọc những cá nhân xuất sắc, tiêu biểu càng trở

nên khó khăn hơn. Mặt khác, các ý kiến nhận xét, đánh giá phụ thuộc rất nhiều
vào tầm nhìn, năng lực đọc của người đánh giá, nghĩa là khá chủ quan. Song,
theo chúng tôi, việc nhận diện những gương mặt thơ tiêu biểu của giai đoạn này
có thể dựa vào một số tiêu chí sau đây:
Trước hết, dựa trên thái độ, ý thức cách tân của các tác giả đối với thơ
ca đương đại. Thái độ, ý thức ấy buộc phải được cụ thể hóa, đi liền trong các
tun ngơn về thơ, những bài phỏng vấn hoặc trong chính tác phẩm của nhà


18

thơ. Chẳng hạn, nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc khi đề cập đến thái độ dám dấn
thân, vượt thoát khỏi những gì đã cũ của thơ ca trước đó, đã được ông cụ thể
hóa bằng một tuyên ngôn thơ nổi tiếng:“đập vụn mình ra mà ghép lại/ Nung
chảy mình ra mà tìm lõi/ Xé toang mình ra mà kết cấu” (Hội họa lập thể). Thái
độ, tinh thần ấy một mặt thể hiện trách nhiệm của người viết đối với nghề, đối
với thơ ca nhưng mặt khác, chính nó thể hiện tư duy sáng tạo, phơng nền văn
hóa và tầm tri thức của tác giả. Nó đặc biệt có ý nghĩa đối với thơ ca đương đại,
trong bối cảnh hội nhập và giao lưu quốc tế hiện nay, khi nhu cầu học hỏi, tiếp
thu và khả năng sáng tạo đáp ứng những đòi hỏi của hiện thực đời sống được
đặt lên hàng đầu.
Hai là, sáng tạo của họ phải mang tính mới, thể hiện được tư tưởng, mĩ
học riêng, và nhờ đó, có ảnh hưởng, tác động tích cực tới đời sống văn học.
Cái nhìn mới xuất phát từ hiện thực bên trong và bên ngồi, tạo được niềm đồng
cảm từ phía người đọc. Nó được thể hiện thơng qua sự phản ánh chân thực đời
sống, giúp người đọc nhận thấy một phần của các mối quan hệ người, cách ứng
xử của bản thân trước bối cảnh xã hội, thời đại. Cái nhìn mới cho phép nhà thơ
khái quát những nội dung phản ánh ở chiều sâu, đồng thời nâng lên thành những
nội dung phổ quát được nhiều người quan tâm. Đây cũng là yếu tố khiến sáng
tác của các tác giả này có những ảnh hưởng, tác động tích cực tới những tác giả

đồng thời và thế hệ kế tiếp.
Dĩ nhiên, về vấn đề cái mới trong sáng tạo cũng cần được nhận thức và
lý giải một cách biện chứng. Xét về bản chất, sáng tạo ln địi hỏi phải làm ra
cái mới. Tuy nhiên, mới chưa hẳn đồng nghĩa với hay. Điều này càng đúng khi
nhìn từ lý thuyết tiếp nhận, khi tùy thuộc vào năng lực và quan điểm của độc
giả, cách đánh giá về mức độ và giá trị của cái mới lại càng khác biệt và do đó,
hết sức phức tạp. Mặt khác, cái mới trong sáng tạo, khi ra đời, bao giờ nó cũng
hiện diện như một sự khiêu khích, thách thức, đối đầu với hệ giá trị cũ, đã ổn
định. Do đó, khơng phải ngay từ khi mới xuất hiện, cái mới đã được dễ dàng


×