Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

HOẠT ĐỘNG GIÁM sát của đoàn đại BIỂU QUỐC hội từ THỰC TIỄN TỈNH THANH hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI VIỆT HÀ

HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐỒN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HĨA

Chun ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN VĂN DUY

HÀ NỘI, năm 2021

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất
cả các mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Khoa Luật Học viện khoa học xã hội .
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Mai Việt Hà

2


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng

MỞ ĐẦU……………………………………………………………………. 3
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
1.1. Chức năng giám sát của Quốc hội và hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc
hội, Đoàn đại biểu quốc hội tỉnh.

12

1.2.Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát

31

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU
QUỐC HỘI VÀ ĐỒN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TỈNH THANH HĨA
2.1. Đặc điểm địa kinh tế, chính trị tỉnh Thanh Hóa tác động đến hoạt động
giám sát của Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa


36

2.2. Khái quát về Đại biểu Quốc hội và Đồn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa
37
2.3. Thực trạng triển khai và thực hiện hoạt động giám sát của đại biểu Quốc
hội và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa

3

39


2.4. Thực trạng cơng tác phối hợp giữa Đồn đại biểu Quốc hội với các cơ quan
hữu quan

46

2.5. Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội
và Đoàn đại biểu Quốc hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

50

CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
VÀ ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TỈNH THANH HÓA
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát của Đại biểu
Quốc hội và Đoàn Đại biểu Quốc hội

58


3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và
Đoàn Đại biểu Quốc hội tại tỉnh Thanh Hóa
KẾT LUẬN

64
73

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ĐBQH: Đại biểu Quốc hội
HĐND: Hội đồng nhân dân
UBND: Ủy ban nhân dân

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Giám sát là một trong những chức năng cơ bản của Quốc hội. Giám sát là
việc Quốc hội sử dụng các phương tiện và cơng cụ của mình để tìm hiểu chính
sách, pháp luật do Quốc hội ban hành được thực thi ra sao, các cơ quan Nhà
nước thực hiện như thế nào, trên cơ sở đó để bảo vệ lợi ích của đất nước, của
nhân dân và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà
nước, thể hiện vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, bảo đảm tôn
trọng và phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Như vậy, có thể khẳng định hoạt
động giám sát của Quốc hội có vai trị vơ cùng quan trọng, làm cho Quốc hội
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Việc nghiên cứu về quyền giám sát và hoạt động giám sát của Quốc hội
Việt Nam đã được quan tâm từ nhiều năm nay. Song chủ yếu mới chỉ tập trung

nghiên cứu về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội mà chưa đi sâu nghiên
cứu về hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội. Trong khi, theo quy
định, chủ thể hoạt động giám sát của Quốc hội bao gồm: Đoàn đại biểu Quốc
hội; Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội; Ủy ban Thường vụ Quốc
hội; Quốc hội”.
Thực tiễn từ khi triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về hoạt
động giám sát của Quốc hội cho thấy, kể từ khi Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội có hiệu lực thì hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung Đồn đại
biểu Quốc hội nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực, đã tập trung vào
những vấn đề mà cử tri quan tâm, góp phần ổn định chính trị, thúc đẩy kinh tế,
xã hội ngày càng phát triển.
Từ thực tiễn hoạt động giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh
Hóa thời gian qua cho thấy, hiệu quả của công tác giám sát phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, tuy nhiên cũng còn tồn tại nhiều bất cập. Cho nên nếu đề ra và thực hiện
được đồng bộ các giải pháp phù hợp thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng giám
sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội. Do đó, việc nghiên cứu đề tài "Hoạt động giám
5


sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa" là cần thiết, nhằm
đánh giá những kết quả đã đạt được cũng như những điểm còn hạn chế để nâng
cao hoạt động giám sát của Quốc hội và hoạt động của Quốc hội, giữ vững, tăng
cường lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, các cấp, các
ngành.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua, hoạt động giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội được
nhiều người quan tâm nghiên cứu với những cách tiếp cận khác nhau, ở phạm vi
lớn trên quy mô cả nước cho đến những phạm vi nhỏ hơn như địa bàn tỉnh. Có
một số đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ và nhiều luận văn Tiến sĩ, Thạc sĩ với chủ

đề liên quan, tiêu biểu có thể kể một số nghiên cứu sau:
- Ông Thị Mai (2016), Tổ chức và hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn
Đại biểu Quốc hội, qua thực tiễn áp dụng pháp luật tại tỉnh Quảng Nam, Luận
văn thạc sĩ Chính trị học tại Học viện Chính trị khu vực III. Luận văn đã xây
dựng các khái niệm cơ bản như khái niệm, chế định pháp lý, đồng thời làm rõ
bản chất và hệ quả pháp lý của mỗi hình thức hoạt động trong thực tiễn áp dụng
và từ đó kiến nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này mà
các quy định hiện hành chưa đề cập tới.
- Phạm Văn Sơn (2016), Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp lý về đại
biểu Quốc hội, Đoàn ĐBQH tỉnh ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ tại Trường Đại
học Nam Cần Thơ, Luận văn đã xây dựng các khái niệm cơ bản như khái niệm
chế định pháp lý về đại biểu Đoàn ĐBQH tỉnh ở Việt Nam, chế định pháp lý về
giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội, đồng thời làm rõ bản chất và vai trị pháp
lý của giám sát của Đồn Đại biểu Quốc hội. Luận văn đã làm rõ cơ sở xã hội lịch sử của việc giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội và chỉ ra những yếu tố cơ
bản ảnh hưởng tới việc giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội nhằm bảo đảm
cho nghĩa vụ đại biểu ở nước ta hiện nay. Luận văn đã đề xuất ba nhóm giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật về giám sát của Đoàn Đại biểu
Quốc hội nhằm bảo đảm cho nghĩa vụ đại biểu của Đoàn ĐBQH tỉnh.

6


- Lê Minh Đoàn, Đổi mới tổ chức và hoạt động của ĐĐBQH và UBND các cấp,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2016. Bài viết đã nhấn mạnh đến vấn đề
cần tiếp tục làm sáng tỏ mối quan hệ quyền lực giữa bộ máy nhà nước ở trung
ương và bộ máy quyền lực nhà nước ở địa phương. Tác giả khẳng định cần phải
có các biện pháp bảo đảm để ĐĐBQH có thực quyền, tránh tính hình thức của
Đoàn ĐBQH.
- Trần Văn Nam (2017), Quy định pháp luật về giám sát của Đoàn Đại biểu
Quốc hội - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học tại Học

viện Hành chính cơ sở thành phố Hồ Chí Minh, đề tài đã triển khai nghiên cứu
gồm 3 phần; (i) là khái quát chung về giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội,
khái niệm chung, mục đích và nguyên tắc, pháp luật áp dụng giải quyết quan hệ
giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội; (ii) những quy định cụ thể của pháp luật
điều chỉnh vấn đề giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội; (iii) là thực trạng và
giải pháp của quan hệ giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội ở Việt Nam.
- Đoàn Văn Lâm (2018), Giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội và thực tiễn
thực hiện tại thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ tại Học viện Hành chính. Luận
văn đã đi sâu nghiên cứu một số vấn đề lí luận và thực trạng pháp luật Việt Nam
hiện hành về giám sát của Đồn Đại biểu Quốc hội. Phân tích thực tiễn thực
hiện pháp luật về giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội, của đại biểu Hội đồng
nhân dân tại thành phố Hà Nội; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về vấn đề này.
- Vũ Ngọc Hà (2011), Quan hệ giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội,
đại biểu Quốc hội và thực tiễn tỉnh Quảng Trị, luận văn thạc sĩ Luật học tại Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận
và quy định của pháp luật hiện hành về giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội
của đại biểu Quốc hội. Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật tại Đoàn Đại biểu
Quốc hội; từ đó đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về vấn đề này.

7


Những luận văn, luận án và cơng trình nghiên cứu trên nêu lên tầm quan
trọng của việc nghiên cứu và hoàn thiện các quy định về pháp luật giám sát của
Đoàn Đại biểu Quốc hội nhằm đảm bảo hoạt động giám sát phát huy hiệu quả
trong thực tế.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế khi
triển khai hoạt động giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội trên thực tế, và đề

xuất được được những giải pháp khả thi sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động giám sát của Đồn Đại biểu Quốc hội nói riêng và Quốc hội nói
chung.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Luận văn làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để xác định phương hướng và
nâng cao hiệu quả hoạt động của Đoàn Đại biểu Quốc hội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài đặt ra, tác giả thực hiện
những nhiệm vụ sau:
- Phân tích các khái niệm cơ bản, cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động
giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội.
- Đánh giá thực cơng tác giám sát của Đồn Đại biểu Quốc hội và hệ
thống pháp luật có liên quan ở Việt Nam hiện nay, từ đó chỉ ra những bất cập,
hạn chế trong các quy định của pháp luật.
- Đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Đoàn
Đại biểu Quốc hội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn đi sâu nghiên cứu hoạt động giám sát của Đồn Đại biểu Quốc
hội Thanh Hóa trong thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu về khơng gian: Hoạt động giám sát của Đồn Đại
biểu Quốc hội tại tỉnh Thanh Hoá.
8


Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Nghiên cứu hoạt động giám sát của
Đoàn Đại biểu Quốc hội giai đoạn 2015 - 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận nghiên cứu.
Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày, luận văn sử dụng kết hợp
phương pháp phân tích, luận giải, bình luận, đánh giá, diễn giải, so sánh, tổng
hợp, quy nạp.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài Luận văn góp phần hệ thống hóa các giải
pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Đồn Đại biểu
Quốc hội tại tỉnh Thanh Hóa trong điều kiện hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Các giải pháp và kiến nghị của đề tài luận văn trực tiếp góp phần hồn
thiện, nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh
Thanh Hóa theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn cũng có ý nghĩa
tham khảo đối với các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, Hội đồng nhân
dân các cấp, Quốc hội và đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố khác, tài liệu
tham khảo cho tổ chức, cá nhân khi nghiên cứu về chủ đề giám sát của Quốc
hội, Đoàn Đại biểu Quốc hội.
7. Cơ cấu của luận văn.
Ngoài các phần: Mục lục, danh mục các từ viết tắt, lời nói đầu, kết luận
và danh mục tài liệu tham khảo luận văn được chia làm ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động giám sát của của Đại biểu
Quốc hội và Đoàn Đại biểu Quốc hội.

9



Chương 2: Hoạt động giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội từ thực tiễn
tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
giám sát của Đồn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hố.

10


CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI
BIỂU QUỐC HỘI VÀ ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
1.1. Chức năng giám sát của Quốc hội và hoạt động giám sát của Đoàn đại
biểu quốc hội tỉnh.
1.1.1. Khái niệm giám sát
Theo từ điển Tiếng Việt, giám sát được hiểu là “theo dõi việc thực hiện
những điều đã cam kết, quy định”, hay là "sự theo dõi, xem xét làm đúng hoặc
sai những điều đã quy định”. Dưới góc độ nghiên cứu, có ý kiến cho rằng, giám
sát được hiểu là việc “theo dõi, xem xét, đánh giá”, bao gồm hành vi quan sát
(theo dõi, xem xét, cân nhắc) và hành vi phán quyết (đánh giá) đối với hoạt
động (hành vi) của đối tượng chịu sự giám sát. Tuy nhiên, nếu hiểu đơn giản
theo quan điểm này thì giám sát chỉ đơn thuần được xem là các hoạt động diễn
ra trong nội tại của chủ thể giám sát mà không cho thấy mối liên hệ tác động
qua lại mang tính tích cực, chủ động giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám
sát, không thể hiện được mục đích, vai trị của hoạt động giám sát là nhằm bảo
đảm các đối tượng giám sát thực hiện đúng theo các cam kết, quy định.
Giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động thường
xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và
hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm
đạt được những mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước; giám sát không
chỉ dừng lại ở việc chủ thể giám sát quan sát, phán quyết mà còn bao gồm cả

việc chủ thể giám sát bày tỏ thái độ, thực hiện các hành động để tác động lên
hành vi của đối tượng bị giám sát. Phù hợp với quan điểm này, khoản 1 Điều 2
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 đã quy định: “Giám
sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan,
tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật
về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc
yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý”. Nội hàm có thể hiểu “Giám
11


sát” là việc một chủ thể có thẩm quyền (chủ thể giám sát) nhất định theo dõi
một cách chủ động, theo trình tự, thủ tục do luật định đối với hoạt động của đối
tượng đã được xác định (chủ thể chịu sự giám sát), qua đó xem xét, đánh giá
hiệu lực, hiệu quả hoạt động cũng như việc tuân thủ pháp luật của các đối
tượng, xem có vi phạm hay khơng, những hạn chế, bất cập và nếu có thì đưa ra
biện pháp cần thiết để bảo đảm hoạt động của đối tượng đó tuân thủ các quy
định và mục đích đã đặt ra. Các biện pháp đưa ra thường dưới hình thức các u
cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý; một số chủ thể có thể trực tiếp
quyết định xử lý theo thẩm quyền luật định.
Như vậy, giám sát là sự theo dõi, quan sát mang tính chủ động, thường
xuyên của cơ quan, tổ chức hoặc nhân dân đối với hoạt động của các đối tượng
chịu sự giám sát và hướng các hoạt động đó đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt
được mục đích, hiệu quả đã xác định từ trước, bảo đảm Hiến pháp và pháp luật
được tuân thủ nghiêm chỉnh. Đồng thời, giám sát còn là quyền của nhân dân,
của tổ chức xã hội xem xét đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, của cán bộ,
công chức nhà nước trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
1.1.2. Khái niệm hoạt động giám sát
Quốc gia độc lập và thịnh vượng là khát vọng ngàn đời của dân tộc. Nếu
như cha ông ta thuở trước đã thực hiện tốt nhiệm vụ thứ nhất, thì xây dựng đất
nước giàu mạnh đang là vấn đề đặt ra đối với thế hệ hôm nay. Để thúc đẩy sự

phát triển đòi hỏi mỗi cá nhân phải là một chủ thể năng động, đầy quyết tâm và
phải có những “sợi dây” liên kết họ lại, tạo thành một hợp lực mạnh mẽ hướng
về phía trước. Sự giàu có và thịnh vượng được tạo ra từ sức lao động và trí tuệ
của nhân dân, nó khơng thể là vật phẩm do ai đó ban tặng. Nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung được xây dựng trong giai đoạn đầu của nền cộng hoà và tồn tại
trong suốt thời kỳ chiến tranh đã có những đóng góp quan trọng trong việc đáp
ứng các nhu cầu của cuộc kháng chiến giành độc lập, thống nhất đất nước, về cơ
bản phù hợp với quy luật của kinh tế thời chiến. Tuy nhiên khi đất nước ra khỏi
chiến tranh, cơ chế kinh tế kế hoạch hố tập trungđã khơng cịn phù hợp và trở
thành vật cản bước tiến của xã hội.
12


Để mở đường cho sự phát triển xã hội, Đảng ta đã phát động công cuộc
đổi mới từ năm 1986 với dung quan là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá, tập
trung sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường; xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã
và đang có sự thay đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Người dân
ngày càng tin tưởng vào nền kinh tế thị trường và triển vọng phát triển kinh tế
đất nước. Nhưng con đường tiến bộ xây dựng nền kinh tế thị trường, thoát khỏi
nghèo nàn lạc hậu, hội nhập vào thế giới văn minh đang bị cản trở bởi sự đổi
mới chậm chạp trong bộ máy nhà nước. Mơ hình Nhà nước pháp quyền khơng
những chưa được định hình mà những đổi mới trong bộ máy nhà nước hiện nay
chỉ phản ánh sự thay đổi về lượng, chưa thực sự thay đổi về chất. Trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước, trách nhiệm cá nhân chưa được đề cao, cơ
chế xin - cho vẫn còn tồn tại, thói quen quản lý và hành động theo pháp luật
chưa hình thành, ngun tắc dân chủ cịn bị vi phạm, tính cơng khai, minh bạch
thấp, tham nhũng, nhận hối lộ tràn lan. Nếu tiếp tục duy trì một bộ máy nhà
nước như vậy thì nền kinh tế thị trường năng động, hiện đại khơng thể xây dựng
được.

Hoạt động của Đồn Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội và mối liên hệ
giữa đại biểu với cử tri đang là một vấn đề bức xúc hiện nay. Hầu hết mọi người
dân đều khơng nhớ và khơng biết mình có người đại diện. Những cơ chế, quan
niệm, giá trị cũ kỹ và cả những mâu thuẫn nội tại của pháp luật đang cản trở sự
vận hành và phát triển của nền dân chủ đại diện.Giám sát được hiểu rộng hơn
bởi để thực hiện được hoạt động giám sát thì khơng chỉ có chủ thể tiến hành và
đối tượng chịu giám sát, nhất là giám sát mang tính chất quyền lực nhà nước
như giám sát của Quốc hội và giám sát của ĐĐBQH, ĐBQH. Đối tượng tác
động còn gồm cả các đối tượng khác như cơng dân, cơ quan, tổ chức có liên
quan như người được mời tham gia hoạt động giám sát, cơ quan, tổ chức phải
cung cấp thông tin liên quan… Do đó, việc đánh giá hoạt động giám sát có ý
nghĩa chính trị pháp lý, theo Cuốn Từ điển Quản lý cơng, thì hoạt động là mối
quan hệ tác động qua lại giữa con người và thế giới (khách thể) để tạo ra sản
13


phẩm cả về phía thế giới và cả về phía con người (chủ thể). ... Đây là quá trình
mà tâm lí của con người (của chủ thể) được bộc lộ, được khách quan hố trong
q trình làm ra sản phẩm. Như vậy, hoạt động là quá trình tác động qua lại
tích cực giữa con người với thế giới khách quan mà qua đó mối quan hệ thực
tiễn giữa con người với thế giới khách quan được thiết lập. Trong mối quan hệ
đó có hai q trình diễn ra đồng thời và bổ sung cho nhau, thống nhất với nhau
là quá trình đối tượng hố và q trình chủ thể hố.
Dưới góc độ trình tự thì hoạt động giám sát điều chỉnh từ giai đoạn chuẩn
bị, tiến hành giám sát và sau khi hành vi giám sát kết thúc (việc đưa ra hậu quả
pháp lý của hoạt động giám sát). Hoạt động về giám sát của Đoàn Đại biểu
Quốc hội, Đại biểu Quốc hội trước đây, khi mà vai trò của cơ quan dân cử chưa
được coi trọng, thường chỉ dừng ở quy định Đoàn Đại biểu Quốc hội, Đại biểu
Quốc hội giám sát ai và bằng hình thức nào, vì vậy trong thực tế, Đoàn Đại biểu
Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khó thực hiện quyền giám sát.

Với sự phát triển của xã hội, sự phát triển hình thức dân chủ, vị trí cơ
quan đại diện của nhân dân được đề cao, theo đó, hoạt động quy định về hoạt
động giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội càng chặt chẽ,
đầy đủ, từ quy định về quyền giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội, Đại biểu
Quốc hội, trình tự, thủ tục tiến hành giám sát, hậu quả pháp lý hoạt động giám
sát đến việc điều chỉnh các mối quan hệ giữa chủ thể giám sát và các đối tượng
có liên quan. Từ quan điểm đó, có thể hiểu khái niệm hoạt động về giám sát của
Đoàn Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội như sau:
Hoạt động về giám sát là quá trình pháp lý chính đáng thực hiện các quy
phạm do nhà nước ban hành vào các quan hệ xã hội phát sinh trong q trình
Đồn Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội giám sát; bao gồm các hoạt động:
dự kiến chương trình giám sát, triển khai hoạt động giám sát và quyết định hậu
quả pháp lý của hoạt động giám sát.
1.1.3. Chức năng giám sát của Quốc hội
Giám sát là một hình thức để Quốc hội thể hiện tính đại diện cao nhất của
Nhân dân, nó có mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động lập pháp. Để pháp luật được
14


thực thi trong đời sống, không thể thiếu hoạt động giám sát, hay nói cách khác,
tính hiệu quả của pháp luật trong một chừng mực nhất định phụ thuộc vào hiệu
quả của hoạt động giám sát. Đây được hiểu là việc theo dõi các hoạt động của
hành pháp có hiệu quả, minh bạch và trung thực hay không, để đảm bảo các
quyết định phê duyệt ngân sách của Quốc hội được thực hiện đúng mục đích đề
ra và có hiệu quả. Theo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân năm 2015, chủ thể giám sát bao gồm Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội,
đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các
Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng
nhân dân. Giám sát tối cao là việc Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt

động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền xử lý. Giám sát tối cao được thực hiện tại kỳ họp Quốc hội.
Giám sát của Quốc hội bao gồm giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát
của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Hoạt động giám sát có ý
nghĩa quan trọng trong đảm bảo quyền lực tối cao của Nhân dân. Chính vì vậy
Hiến pháp các nước đều ghi nhận điều này mà khơng phụ thuộc vào hình thức
chính thể. Tuy nhiên, giám sát của Quốc hội khác với giám sát của hệ thống
hành pháp, tư pháp. Điều này xuất phát từ việc hoạt động theo nguyên tắc tập
thể, Quốc hội không giám sát tất cả các hoạt động của BMNN và cá nhân mà
thực hiện giám sát các vấn đề ở tầm vĩ mơ, tập trung vào hoạt động của Chính
phủ và các thành viên. Đối với các trường hợp khác thường là những sai phạm
nghiêm trọng, kéo dài của tư nhân, tập đoàn nhà nước được giao thực hiện chức
năng công quyền, gây bức xúc trong dư luận. Do vậy, giám sát của Quốc hội là
hình thức mang tính đặc trưng riêng của hệ thống cơ quan đại diện thông qua
các công cụ giám sát của cơ chế làm việc tập thể và thường mang tính chất
chính trị, đó là chất vấn, giải trình, điều trần và những hình thức tương tự.

15


Hoạt động giám sát của Quốc hội thường được thực hiện chủ yếu tại các
kỳ họp thông qua việc tiến hành các phiên hỏi - đáp; thực hiện chất vấn; tiến
hành phiên điều trần tại các ủy ban và Hội đồng dân tộc. Trong trường hợp cần
thiết, nhiều quốc gia quy định Quốc hội có thể thành lập các ủy ban đặc biệt để
giám sát các vấn đề quan trọng. Ngay tại nước Mỹ, nơi sự phân quyền diễn ra
triệt để thì ngồi quyền lập pháp, Quốc hội có nhiều quyền quan trọng tiêu biểu
như giám sát hoạt động của Chính phủ, quyền điều tra thơng qua việc thành lập
một số cơ quan, giao những nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể. Các cơ quan này có

trách nhiệm báo cáo với Quốc hội những công việc mà hệ thống hành pháp
đang thực hiện.
Đối với Đại biểu Quốc hội, các hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp nhận đơn
thư khiếu nại, tố cáo cũng là phương thức thu thập thông tin, kiểm chứng tính
khả thi và hiệu quả thực thi pháp luật tại cơ sở. Từ đó đại biểu yêu cầu các cơ
quan hữu quan trả lời kiến nghị; giám sát q trình hậu kiến nghị, bỏ phiếu tín
nhiệm của Quốc hội đối những chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn
nhằm thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Để đảm bảo tính chuyên
sâu các vấn đề tài chính, ngân sách Quốc hội các nước thường thành lập nhóm
cơ quan chun mơn như Thanh tra Quốc hội, Kiểm toán lập pháp (Kiểm toán
Nghị viện), cơ quan Bảo hiến. Số lượng các cơ quan chuyên môn này phụ thuộc
vào nội dung vấn đề mà Quốc hội thấy cần phải giám sát. Sau khi thành lập, các
cơ quan này độc lập với cả lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ngay cả Quốc hội
cũng không trực tiếp đứng ra điều hành mà chỉ ban hành văn bản luật quy định
chức năng, quyền hạn và cung cấp tài chính. Các cơ quan này có trách nhiệm
báo cáo cho Quốc hội những nội dung theo yêu cầu giám sát.
Tóm lại, là cơ quan đại diện cao nhất, Quốc hội có các hình thức thực thi
thể hiện tính chất đại diện cao nhất mà khơng một cơ quan tổ chức nào có được.
Các hình thức đó được tiến hành mang tính chất chính trị, do tập thể thực hiện
để tìm tiếng nói thống nhất theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Nhờ các
hình thức thực thi đó, Quốc hội thực hiện được quyền lực của mình, thực hiện
được vai trị đại diện trên các phương diện lập pháp, quyết định và giám sát tối
16


cao. Nhờ đó hồn thành sứ mệnh chính trị mà Nhân dân giao phó, trở thành chủ
thể gắn bó, trung thành, bảo vệ tốt nhất cho quyền và lợi ích của Nhân dân.
1.4. Địa vị pháp lý của Đại biểu quốc hội và Đoàn đại biểu quốc hội trong
hoạt động giám sát.
1.4.1. Vị trí, vai trị của Đại biểu Quốc hội trong hoạt động giám sát.

Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015
tại Điều 47 quy định các hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội
1. Đại biểu Quốc hội giám sát thông qua các hoạt động sau đây:
a) Chất vấn những người bị chất vấn quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 4
của Luật này;
b) Giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát việc thi hành pháp
luật;
c) Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của cơng dân.
2. Đại biểu Quốc hội tự mình tiến hành hoạt động giám sát hoặc tham gia
hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội; tham gia Đoàn giám sát của
Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội
tại địa phương khi có yêu cầu.
Như vậy, trước hết, đại biểu Quốc hội phải là người được cử tri lựa chọn
qua bầu cử có đơng đảo ứng cử viên có năng lực tham gia, mang tính cạnh tranh
cao và được tổ chức theo những trình tự thủ tục chặt chẽ, đảm bảo tính chính
xác, minh bạch, cơng khai. Chỉ khi đó, người thắng cử mới cảm nhận được hết
giá trị và vinh dự của người chiến thắng, mới có được niềm tự hào và động cơ
mạnh mẽ trong hành động, đồng thời chịu trách nhiệm cá nhân trước cử tri đã
bầu ra mình. Đại biểu Quốc hội phải giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân
thơng qua những hình thức tiếp xúc cử tri đa dạng, phong phú. Đại biểu Quốc
hội có văn phịng làm việc riêng, là nơi tiếp nhân dân và có bộ phận giúp việc.
Đại biểu Quốc hội phải chứng minh sự cần thiết của mình đối với nhân dân.
Ngoài những vấn đề lớn lao liên quan đến quốc kế dân sinh, tương lai dài hạn
của dân tộc, đại biểu Quốc hội phải quan tâm giúp đỡ nhân dân giải quyết
những khó khăn, bức xúc hiện tại của cuộc sống. Từ việc giúp giải quyết khiếu
17


nại, tố cáo, hướng dẫn, giải thích pháp luật, chính sách đến những công việc từ
thiện, giúp đỡ người nghèo, người có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, đứng ra kêu

gọi, huy động nguồn lực xã hội xây điện, đường, những cơng trình phúc lợi v.v..
Những hoạt động này tuy nhỏ so với nhiệm vụ nặng nề của đại biểu Quốc hội
những có ý nghĩa sâu sắc giúp nhân dân gần gũi hơn với người đại diện của
mình, sẵn sàng chia xẻ những tâm tư, nguyện vọng, hay đề xuất những sáng
kiến hồn thiện chính sách. Đó là những gì người đại biểu rất cần nhưng họ chỉ
có được khi họ thực sự gần gũi và thiết thực cho người dân. Sự cần thiết của đại
biểu đối với nhân dân, với xã hội được thể hiện qua sự quan tâm của nhân dân
tới người đại diện của mình. Trong Nhà nước pháp quyền, Văn phòng đại biểu
Quốc hội phải là nơi nhân dân ghi nhớ và tìm đến khi gặp khó khăn, vướng mắc
về chính sách và pháp luật hoặc có những đề xuất, kiến nghị với Nhà nước. Đại
biểu Quốc hội cần có mối quan hệ tốt với các cơ quan thơng tin đại chúng, biết
sử dụng báo chí như một phương tiện để bày tỏ chính kiến của mình về một vấn
đề cụ thể, vận động, thuyết phục người khác cùng ủng hộ sáng kiến của mình.
Thực tiễn hoạt động của Quốc hội cho thấy khi quyền lực của đại biểu Quốc
hội, của Quốc hội, qua kênh thông tin đại chúng, được gắn kết với ý chí, nguyện
vọng, dư luận của nhân dân sẽ được cộng hưởng và trở nên vơ cùng mạnh mẽ.
Chính những ý nghĩa trên khi thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát, Đại biểu Quốc
hội thực hiện công tác lập pháp phải đi đôi với giám sát việc tổ chức thực hiện,
thi hành pháp luật thì mới có hiệu quả. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi đại biểu
Quốc hội phải phát huy vai trò tích cực của mình để quyền giám sát của Quốc
hội được thực hiện, góp phần đảm bảo tính tối thượng của pháp luật. Hoạt động
giám sát bắt đầu từ việc tiếp cận, khai thác, xử lý thông tin. Đại biểu Quốc hội
cần chủ động đa dạng hố nguồn thơng tin, không lệ thuộc vào thông tin một
chiều từ các báo cáo, giải trình của cơ quan hành pháp. Ngồi ra, các đại biểu
cần phát triển quan hệ hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu, tổ chức
nghề nghiệp v.v. để có các thơng tin chun sâu về vấn đề, làm tăng hiệu quả
của công tác giám sát. Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội cần diễn ra
thường xuyên, với các hình thức chất vấn đa dạng, phong phú, không chỉ diễn ra
18



tại phiên họp tồn thể Quốc hội mà cịn tại các Uỷ ban, dưới sự chứng kiến và
đưa tin của tổ chức thơng tấn, báo chí. Chất vấn phải gắn liền với bỏ phiếu tín
nhiệm mới đảm bảo hiệu quả giám sát. Bỏ phiếu tín nhiệm là một quyền năng
quan trọng của Quốc hội, Quốc hội chỉ sử dụng như một giải pháp cuối cùng
sau khi các chất vấn, kiến nghị của mình khơng được đối tượng chất vấn tiếp
thu hoặc thực hiện không đạt kết quả theo yêu cầu của Quốc hội. Bỏ phiếu tín
nhiệm do vậy là quá trình xác định trách nhiệm cá nhân. Nhà nước pháp quyền
trao cho đại biểu Quốc hội quyền khởi động thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm, giúp đại
biểu Quốc hội hồn thành nhiệm vụ giám sát của mình, đồng thời địi hỏi đại
biểu Quốc hội chịu trách nhiệm cá nhân về việc sử dụng quyền năng đó trước
Quốc hội và trước cử tri.
1.4.2. Vị trí, vai trị của Đồn Đại biểu Quốc hội trong hoạt động giám sát
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015
tại Điều 48 quy định các hoạt động giám sát của Đồn đại biểu Quốc hội, theo
đó, Đồn đại biểu Quốc hội tổ chức hoạt động giám sát thông qua các hoạt động
sau đây: (i) Giám sát chuyên đề việc thi hành pháp luật ở địa phương; (ii) Giám
sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân mà đại biểu Quốc
hội, Đoàn đại biểu Quốc hội đã chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền giải quyết; (iii) Cử đại biểu Quốc hội trong Đoàn đại biểu Quốc hội tham
gia Đoàn giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc,
Ủy ban của Quốc hội tại địa phương khi có u cầu.
Đồn đại biểu Quốc hội tổ chức để đại biểu Quốc hội trong Đoàn đại biểu
Quốc hội thực hiện giám sát tại địa phương. Đại biểu Quốc hội lập chương trình
giám sát hằng năm của mình và gửi đến Đoàn đại biểu Quốc hội. Đoàn đại biểu
Quốc hội căn cứ vào chương trình giám sát của từng đại biểu Quốc hội, chương
trình giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy
ban của Quốc hội, tình hình thực tế của địa phương, đề nghị của Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh và ý kiến, kiến nghị của cử tri tại địa phương
lập chương trình giám sát hằng năm của Đoàn đại biểu Quốc hội và báo cáo Ủy

ban thường vụ Quốc hội. Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức thực hiện các hoạt
19


động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội và tổ chức để đại biểu Quốc hội
trong Đoàn đại biểu Quốc hội thực hiện chương trình giám sát của mình. Hằng
năm, Đồn đại biểu Quốc hội có trách nhiệm báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc
hội về việc thực hiện chương trình giám sát của Đồn đại biểu Quốc hội và của
các đại biểu Quốc hội trong Đoàn.
Như vậy, Đoàn Đại biểu Quốc hội tiến hành giám sát thông qua các
phương thức: Tổ chức Đoàn giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội, tổ chức để
các Đại biểu Quốc hội trong Đoàn thực hiện việc giám sát thi hành pháp luật ở
địa phương; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giám sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương
trả lời về những vấn đề mà Đoàn Đại biểu Quốc hội, các Đại biểu Quốc hội
quan tâm; cử đại biểu Quốc hội trong Đoàn tham gia Đoàn giám sát của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội khi có yêu
cầu.
1.1.5. Hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội và Đoàn Đại biểu Quốc hội
1.1.5.1.Đối tượng giám sát
Chức năng giám sát của Quốc hội đóng vai trị quan trọng trong đời sống
chính trị và trong việc khẳng định vị thế, vai trò của Quốc hội. Hiến pháp năm
2013 đã tạo một bước tiến mới trong việc phân công rõ ràng hơn nhiệm vụ của
Quốc hội và Chính phủ, là cơ sở quan trọng cho lập pháp kiểm soát quyền lực
của hành pháp. Tuy vậy, sẽ thiếu hiệu quả nếu chỉ dừng ở việc sửa đổi các quy
định của pháp luật mà khơng tính đến việc tăng cường các biện pháp bảo đảm
cho hoạt động giám sát hiệu lực, hiệu quả.
Có thể thấy đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội là các cơ quan nhà
nước chịu sự giám sát trực tiếp của Quốc hội như Chủ tịch nước, Chính phủ,

Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm tốn nhà
nước. Trong bộ máy nhà nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đại biểu
Quốc hội và Đoàn Đại biểu Quốc hội được xác định thuộc cơ quan đại biểu cao
nhất của Nhân dân, đồng thời là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Bên cạnh
20


thẩm quyền lập hiến, lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước thì Đại biểu Quốc hội và Đồn Đại biểu Quốc hội nước ta cịn có thẩm
quyền tham gia giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước cùng
với Quốc hội.
Pháp luật hiện hành quy định Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban thường
vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội
và đại biểu Quốc hội xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân
chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Ngoài ra, chất vấn là
một hoạt động giám sát, trong đó đại biểu Quốc hội nêu những vấn đề thuộc
trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tồ án nhân dân tối
cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và yêu cầu những người này
trả lời.
Giám sát của Quốc hội thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc
hội. Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội,
Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng
Kiểm toán nhà nước (Khoản 1, Điều 80, Hiến pháp 2013). Theo chức năng,
nhiệm vụ của mình, giám sát việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật do nhiều cơ
quan nhà nước tiến hành như Hội đồng nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân…Nhưng sự giám sát của Quốc hội là sự giám sát cao nhất bởi: Nhà nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì

nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Mà Quốc hội là do
nhân dân cả nước trực tiếp bầu ra vì vậy Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân đồng thời là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Các cơ quan
nhà nước khác như Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, có chức năng, quyền hạn được luật định nhưng đều phải có trách nhiệm
báo cáo trước Quốc hội và chịu sự giám sát của Quốc hội. Mục đích việc thực
hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội đó là nhằm đảm bảo cho những quy
21


định của Hiến pháp và pháp luật được thi hành triệt để, nghiêm chỉnh và thống
nhất. Quốc hội giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm bảo đảm cho
các cơ quan này hoàn thành nhiệm vụ, quyền hạn đã được quy định, làm cho bộ
máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, có hiệu lực và hiệu quả, chống những biểu
hiện tham nhũng, quan liêu.
Đoàn Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội thực hiện quyền giám sát đối
với toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước bao gồm hoạt động theo dõi
tính hợp hiến và hợp pháp đối với nội dung các văn bản do các cơ quan nhà
nước chịu sự giám sát trực tiếp của Đoàn Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội
ban hành, cũng như tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động thực tiễn của các
cơ quan nhà nước trung ương và địa phương nếu thấy cần thiết thuộc thẩm
quyền.
Như vậy, có thể thấy đối tượng chịu sự giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội,
Đại biểu Quốc hội là các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát trực tiếp của Đoàn
Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội như chủ tịch nước, chính phủ, Tịa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, và
các cơ quan khác theo luật định .
1.5.2. Nội dung
Hoạt động giám sát là một trong ba nhiệm vụ quan trọng của Đoàn Đại biểu
Quốc hội, Đại biểu Quốc hội được pháp luật quy định. Theo quy định tại Điều

43, Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 thì Đoàn Đại biểu Quốc hội, Đại biểu
Quốc hội thực hiện nhiệm vụ giám sát tại địa phương; tham gia và phối hợp với
Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội trong các hoạt động giám sát tại địa
phương; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của cơng
dân mà đại biểu Quốc hội, Đồn Đại biểu Quốc hội đã chuyển đến cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền giải quyết; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân hữu quan cung cấp thơng tin, báo cáo về những vấn đề mà Đồn Đại biểu
Quốc hội, Đại biểu Quốc hội quan tâm.

22


Đại biểu Quốc hội lập chương trình giám sát hằng năm của mình và gửi
đến Đồn đại biểu Quốc hội. Đồn đại biểu Quốc hội căn cứ vào chương trình
giám sát của từng đại biểu Quốc hội, chương trình giám sát của Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, tình hình
thực tế của địa phương, đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
tỉnh và ý kiến, kiến nghị của cử tri tại địa phương lập chương trình giám sát
hằng năm của Đoàn đại biểu Quốc hội và báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức thực hiện các hoạt động giám sát của Đoàn đại
biểu Quốc hội và tổ chức để đại biểu Quốc hội trong Đoàn đại biểu Quốc hội
thực hiện chương trình giám sát của mình. Hằng năm, Đồn đại biểu Quốc hội
có trách nhiệm báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc thực hiện chương
trình giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội và của các đại biểu Quốc hội trong
Đồn. Theo chương trình cơng tác hàng năm, Đồn Đại biểu Quốc hội chủ trì tổ
chức các cuộc khảo sát, giám sát tại địa phương để các Đại biểu Quốc hội
nghiên cứu nắm tình hình, thu thập tài liệu giúp cho việc thảo luận và tham gia
quyết định những vấn đề quan trọng tại kỳ họp Quốc hội hoặc tìm hiểu tình hình
thi hành chính sách, pháp luật ở địa phương.
Việc thực hiện chức năng giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội, Đại biểu

Quốc hội được thể hiện bằng các hoạt động, đó là: tổ chức làm việc giữa Đoàn
Đại biểu Quốc hội với lãnh đạo các ngành trong khối nội chính: Tồ án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, Thanh tra tỉnh, Công an tỉnh, Sở Tư pháp về sự
phối, kết hợp trong việc cung cấp thơng tin, báo cáo tình hình, phối hợp giám
sát những vấn đề bức xúc nổi lên trong công tác xét xử, giam giữ, tạm giữ, tạm
tha, các vụ việc vi phạm pháp luật khác...Tổ chức các hội nghị chuyên đề liên
quan đến việc thi hành pháp luật, trước hết là những vụ việc nổi cộm ở địa
phương; vấn đề mà những văn bản pháp lý cịn có những nội dung khác nhau,
chưa phù hợp với thực tiễn cần phải điều chỉnh, sửa đổi. Tổ chức khảo sát về
hiệu quả và tác dụng của việc thi hành các đạo luật và các nghị quyết của Quốc
hội tại địa phương và cơ sở, như khảo sát về các luật thuế, luật ngân sách, luật
đầu tư nước ngoài, luật khiếu nại, tố cáo... thực hiện các chương trình dự án
23


được Quốc hội thơng qua... Trên cơ sở đó, đề xuất những vấn đề mà các văn
bản pháp lý còn có những nội dung chưa phù hợp với thực tiễn cần phải điều
chỉnh, sửa đổi. Tổ chức cho ĐBQH nghe Uỷ ban nhân dân tỉnh và các ngành
báo cáo tình hình kinh tế - xã hội và tình hình thực hiện các nghị quyết trọng
tâm của Quốc hội để nắm được tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an
ninh - quốc phịng, về tình hình thực hiện nghị quyết của Quốc hội.
Tổ chức các cuộc khảo sát, giám sát ở cơ sở để giúp Đại biểu Quốc hội
nắm được tình hình thực thi pháp luật, những khó khăn, vướng mắc trong q
trình tổ chức triển khai thực hiện.
Để hoạt động giám sát của Đoàn Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội
ngày càng hiệu quả, chất lượng, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội được
Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XI, Luật hoạt động giám
sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 đã quy định cụ thể về cơ chế thực hiện
giám sát, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức bị giám sát, hậu quả pháp lý của việc
giám sát. Đồng thời cũng đã quy định rõ cơ chế bảo đảm điều kiện cần thiết,

như bộ phận tham mưu giúp việc, kinh phí để thực hiện hoạt động giám sát.
- Về thẩm quyền giám sát, chủ thể thực hiện quyền giám sát: Theo quy
định tại Điều 1 của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội: “Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Quốc hội thực
hiện quyền giám sát tối cao của mình tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động
giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc
hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội”. Để cụ thể hoá hơn nữa quy
định này, Điều 3 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội đã quy định về thẩm
quyền giám sát đối với từng chủ thể.
- Về căn cứ thực hiện quyền giám sát của Quốc hội: Quốc hội là cơ quan
có quyền lập hiến, lập pháp và quyền giám sát tối cao nhưng trong hoạt động
của mình Quốc hội cũng phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật vì Quốc hội
cũng là một cơ quan nằm trong bộ máy nhà nước chứ không phải là một tổ chức
đứng trên nhà nước. Do đó để đảm bảo tính khách quan trong hoạt động giám
sát, bảo đảm cho Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao theo đúng quy định
24


của Hiến pháp và pháp luật, khi thực hiện chức năng giám sát của mình, Quốc
hội phải có những căn cứ nhất định: Thứ nhất, căn cứ vào những quy định của
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Ủy ban thường vụ
Quốc hội. Thứ hai, căn cứ vào nội dung văn bản đã ban hành của các cơ quan
nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội và căn cứ vào thực tế hoạt động của
những cơ quan nhà nước đó.
1.1.5.3.Hình thức giám sát
Thứ nhất, hoạt động giám sát thông qua việc xem xét báo cáo Quốc hội,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan khác của Quốc hội thực hiện chức
năng giám sát bằng cách xem xét, thẩm tra báo cáo công tác hằng năm, nửa năm
và báo cáo chuyên đề của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước. Quốc hội, các

cơ quan của Quốc hội có thể u cầu các thành viên của Chính phủ, Tịa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước trực tiếp
đến báo cáo hoặc báo cáo bằng văn bản hay cung cấp các tài liệu mà Quốc hội
và các cơ quan của Quốc hội quan tâm. Cùng với việc tổng hợp các ý kiến của
cử tri và qua hoạt động giám sát của các đại biểu Quốc hội là cơ sở để đánh giá
việc thi hành pháp luật.
Thứ hai, hoạt động giám sát thông qua kiểm tra việc ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật. Với việc thực hiện chức năng này, Quốc hội và Ủy ban
Thường vụ Quốc hội có quyền hủy bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành các văn bản
trái với quy định của Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết của Quốc hội, của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ví dụ, như Giám sát Việc thực hiện chính sách,
pháp luật về thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững
trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2012-2018, Đoàn Đại
biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa đề nghị Quốc hội ưu tiên bố trí nguồn lực thực
hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững nhằm đảm bảo
nguồn lực được phê duyệt tại Nghị quyết số 100/2015/QH13 ngày 12/11/2015
phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 20162020. Đề nghị Quốc hội xem xét, sửa đổi Luật Đầu tư công theo hướng đẩy
25


×