Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Pháp luật bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.02 KB, 65 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

TRỊNH HOÀNG MINH

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN
CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

TRỊNH HOÀNG MINH

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN
CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG

Hà Nội, năm 2021




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, NTD là một trong các chủ thể trung tâm,
có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các nhà cung
cấp. Dưới sự đổi mới không ngừng và sự tiến bộ vượt bậc của cơng nghệ,
NTD ngày càng khẳng định được vị trí, vai trị trung tâm của mình trong sự
phát triển của kinh tế - xã hội. Vì vậy, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp NTD
có thể được xem là nghĩa vụ, trách nhiệm chung của toàn xã hội. NTD cần
được bảo đảm an ninh, an toàn khi tham gia các giao dịch, trong đó có các
giao dịch trên khơng gian mạng mà ở đó, việc bảo đảm an ninh, an tồn thơng
tin cá nhân (TTCN) là vấn đề rất quan trọng.
Trong thời gian qua, TTCN nói chung và TTCN của NTD nói riêng dễ
dàng được thu thập bằng các phương tiện hiện đại, các trang mạng xã hội
cùng với vấn nạn “trộm thông tin người dùng”, “rao bán thông tin”,… làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của NTD. Thực tế cho thấy, khi thơng
tin cá nhân bị bóp méo và làm sai lệch mà được công bố rộng rãi tới cộng
đồng sẽ gây ra những tác động không nhỏ đến đời sống riêng tư của mỗi cá
nhân, khiến họ cảm thấy e ngại khi tham gia vào các giao dịch tiêu dùng, làm
ảnh hưởng đến hoạt động của nền kinh tế và trật tự xã hội. Chính vì vậy, pháp
luật về bảo vệ TTCN của NTD ra đời nhằm tạo một cơ sở pháp lý vững chắc
cho việc khắc phục những vấn nạn xâm phạm thông tin, xử lý thỏa đáng các
hành vi vi phạm, tạo tiền đề cho sự củng cố niềm tin, gắn kết giữa NTD và
các cá nhân, tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, góp phần bảo
đảm ổn định xã hội.
Ở Việt Nam thời gian qua, các quy định về bảo vệ TTCN của NTD đã
bước đầu xuất hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có Luật
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và các văn bản có liên quan. Tuy

1



nhiên, thực tiễn triển khai và áp dụng các quy định này cho thấy bên cạnh
được một số thành tựu nhất định, quy định hiện hành về bảo vệ TTCN của
NTD chưa đủ mức răn đe, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng xâm phạm quyền
của NTD đối với việc bảo đảm an ninh, an tồn TTCN của mình. Thực tiễn
cũng cho thấy, tình trạng xâm phạm thơng tin ngày càng phức tạp diễn ra
dưới nhiều hình thức tinh vi hơn trước.
Trong bối cảnh đó, tác giả chọn đề tài “Pháp luật bảo vệ thông tin cá
nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay” để làm Luận văn Thạc sĩ
Luật kinh tế với mục đích tìm hiểu pháp luật và mong muốn đóng góp một
phần cơng sức vào q trình hồn thiện quy định và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về bảo vệ TTCN của NTD ở Việt Nam, góp phần bảo đảm niềm
tin của NTD đối với các giao dịch trong nền kinh tế số đang dần được hình
thành ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam, bảo vệ TTCN của NTD là vấn đề đã bước đầu được các
nhà nghiên cứu, nhà hoạt động thực tiễn quan tâm nghiên cứu ở các quy mô
khác nhau trong những năm gần đây. Trong đó, phải kể đến một số cơng trình
tiêu biểu như sau:
- TS Nguyễn Văn Cương (2020) “Thực trạng pháp luật về bảo vệ thông
tin cá nhân ở Việt Nam hiện nay và hướng hồn thiện”, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp, số 15 (415), tr.36-tr43;
- Ngô Vĩnh Bạch Dương (2019) “Bảo vệ thông tin người tiêu dùng”,
website: lapphap.vn;
- Nguyễn Việt Hà (2016) “Pháp luật Việt Nam về bảo vệ thông tin cá
nhân của người tiêu dùng trong thương mại điện tử”, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội;
- Hồ Xuân Hải (2019) “Bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng
trong hoạt động thương mại theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật

học, Đại học Luật Đại học Huế;

2


- Trần Thị Hồng Hạnh (2018) “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin
cá nhân ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ, Học viện chính trị Quốc gia;
- Cao Xuân Quảng (2014) “Bảo vệ thông tin cá nhân trong các giao dịch
tiêu dùng”, Bản tin cạnh tranh và người tiêu dùng, số 47-2014, tr.15-tr18.
Tuy nhiên, ở Việt Nam các cơng trình nghiên cứu về bảo vệ TTCN của
NTD còn khá khiêm tốn, chỉ chủ yếu là các bài viết trên tạp chí, kỷ yếu khoa
học và nghiên cứu về nhiều phương diện, góc độ khác nhau. Hiện nay chưa có
một cơng trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và trực tiếp về hệ thống
pháp luật bảo vệ TTCN của NTD từ góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng. Tuy
vậy, các cơng trình đã nêu ở trên là các tài liệu quý giá cho người viết tham
khảo để hoàn thành đề tài “Pháp luật bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu
dùng ở Việt Nam hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm sáng tỏ các vấn đề lý luận pháp luật bảo vệ TTCN của
người tiêu dùng, đánh giá thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật bảo vệ
TTCN của NTD ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, Luận văn đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định về
bảo vệ thông tin NTD tại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, nhất là trước vấn
nạn lấy cắp thông tin và sử dụng thông tin của người tiêu dùng ngày càng trở
nên nghiêm trọng, gây ra nhiều rủi ro cho NTD.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu


Để đảm bảo mục đích trên, đề tài tập trung nghiên cứu các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu rõ một số vấn đề lý luận pháp luật về bảo vệ thông tin
của NTD;
- Đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ TTCN của NTD tại Việt Nam
hiện nay, chỉ rõ những thành tựu, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của hạn
chế, bất cập này;

3


- Đề xuất các giải pháp góp phần hồn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật trong thực tiễn bảo vệ TTCN của NTD tại Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật hiện hành về
bảo vệ TTCN của NTD và thực tiễn áp dụng những quy định này để bảo vệ
thông tin cá nhân của NTD Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của đề tài này, tác giả đi sâu vào nghiên cứu, phân tích
các quy định pháp luật về bảo vệ TTCN của NTD thể hiện trong những đạo
luật quan trọng như: Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng năm 2010, Luật An tồn thơng tin mạng năm 2015, Luật An ninh
mạng năm 2018,… cùng các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan. Dựa
trên những nội dung phân tích, Luận văn đưa ra các nhận định về tính phù
hợp của pháp luật về bảo vệ thông tin của NTD với thực tiễn từ đó đề xuất các
giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật bảo vệ TTCN của NTD ở Việt Nam hiện nay.
Về thời gian, Luận văn chủ yếu nghiên cứu các vấn đề trong khoảng
thời gian từ 01/7/2011 (thời điểm Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm

2010 có hiệu lực) đến nay.
5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin (phép biện chứng duy vật).
Trong quá trình triển khai đề tài, tác giả đã sử dụng đồng bộ các
phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh.

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Thứ nhất, Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số khía cạnh lý
luận pháp luật cơ bản về bảo vệ TTCN của NTD như: khái niệm, các phương
thức bảo vệ và vai trò của pháp luật về bảo vệ TTCN của NTD.
Thứ hai, Luận văn góp phần làm sáng tỏ thực trạng pháp luật bảo vệ
TTCN của NTD tại Việt Nam hiện nay, chỉ rõ những thành tựu đã đạt được
cùng hạn chế, bất cập và chỉ rõ nguyên nhân của hạn chế, bất cập.
Thứ ba, Luận văn đề xuất các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ TTCN của NTD và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định này trong
thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội bền vững, an tồn.
Thứ tư, đề tài có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, học tập cho các sinh
viên chuyên ngành luật cũng như chuyên ngành khác có liên quan và có thể
mang tính tham khảo trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ TTCN
của NTD ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được thiết kế làm 03 phần lớn: phần mở đầu, phần nội dung
và phần kết luận. Ngồi ra cịn có một số nội dung khác như: Danh mục từ
viết tắt, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo,…
Trong đó, phần nội dung được thiết kế làm 03 chương, cụ thể:

Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân
của người tiêu dùng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người
tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
THÔNG TIN CÁ NHÂN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
1.1. Khái niệm bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng
1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng
Kinh tế thị trường ra đời gắn liền với sự phát triển của quá trình sản
xuất và lưu thơng hàng hóa, là nơi người mua và người bán có thể tiếp xúc
trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau để thực hiện các hoạt động mua bán, chuyển
nhượng, trao đổi các loại hàng hóa, dịch vụ,… tạo nên mối quan hệ hợp tác,
gắn bó mật thiết giữa các chủ thể tham gia. Các doanh nghiệp là nhà cung cấp
luôn quan tâm đến các đối tượng khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu
mua, nhu cầu sử dụng nhưng chưa được thỏa mãn và khả năng thanh tốn của
họ để tạo nên vị trí cho các sản phẩm của mình trên thị trường. Trong mối
quan hệ giữa NTD, doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức
xã hội, NTD được xem là chủ thể giữ vị trí trung tâm, có vai trị quan trọng để
cấu tạo và thực hiện các hoạt động cơ bản của thị trường, tuy nhiên họ lại là
người có mức độ hiểu biết không chuyên sâu về thị trường và hàng hóa, dịch
vụ mình đang sử dụng bằng các chủ thể cung cấp, đồng thời khơng lúc nào
cũng có điều kiện tiếp cận các thông tin về sản phẩm và biết được các thơng

tin của mình được nhà cung cấp thu thập được sử dụng để làm gì, bởi vậy đây
luôn là các đối tượng yếu thế cần được pháp luật chú trọng bảo vệ.
Hiện nay, vấn đề về bảo vệ NTD đang là mối quan tâm ở nhiều nước trên
thế giới. Dưới góc độ lý luận pháp luật, các nhà nghiên cứu, nhà làm luật đã có
nhiều cách tiếp cận, ý kiến khác nhau về khái niệm NTD, có thể kể đến như:
Theo quy định tại Điều 3 Phần 1 Chương II Bộ luật Người Tiêu dùng
(Consumer Code) năm 2014 của nước Pháp thì định nghĩa về NTD được hiểu
là “người thực hiện các giao dịch khơng vì mục đích thương mại, cơng
nghiệp, thủ cơng, các hoạt động nông nghiệp hoặc tự sản xuất”.

6


Trong hệ thống pháp luật ở Thái Lan, căn cứ Điều 3 Luật Bảo vệ người
tiêu dùng năm 1979 của nước này, “Người tiêu dùng là người mua hoặc sử dụng
hàng hóa, dịch vụ của một nhà kinh doanh, kể cả những người được chào hàng
hoặc được đề nghị mua hàng hoặc sử dụng dịch vụ của nhà kinh doanh”.
Tại Nga, trong phần khái niệm cơ bản của Luật Bảo vệ người tiêu dùng
năm 1999, sửa đổi gần nhất vào năm 2007 thì người tiêu dùng được định nghĩa
là “cá nhân người có mong muốn đặt hoặc yêu cầu hàng hóa (cơng việc, dịch
vụ) hoặc người đặt, u cầu hàng hóa cho mục đích tiêu dùng của cá nhân, gia
đình, hộ gia đình và các nhu cầu khác khơng vì mục đích kinh doanh”.
Có thể thấy, cho dù nhìn nhận ở khía cạnh nào đi nữa, các khái niệm
trên đều thống nhất xác định NTD vẫn là các đối tượng có thể là cá nhân hoặc
tổ chức khơng chỉ thực hiện hành vi mua mà phải sử dụng hàng hóa, dịch vụ
để phục vụ sinh hoạt. Nói cách khác, pháp luật các nước khi giải thích khái
niệm về NTD ln loại trừ các mục đích kinh doanh, sinh lời trong hoạt động
thương mại đối với giao dịch trên thị trường, qua đó nhà làm luật gián tiếp
thừa nhận đây là các hoạt động mua bán, sử dụng hàng hóa, dịch vụ từ nhà
cung cấp phát sinh trong lĩnh vực dân sự.

Ở Việt Nam, pháp luật về bảo vệ NTD được hình thành từ năm 1999
thơng qua Pháp lệnh số 13/1999/PL-UBTVQH10 ngày 27/04/1999 về Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, sau đó được điều chỉnh, thay thế bằng Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, đánh dấu sự ra đời của khung pháp lý
hoàn chỉnh để bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia sử dụng hàng hóa,
dịch vụ, tạo ra một mơi trường kinh doanh lành mạnh, tôn trọng Hiến pháp và
pháp luật, bảo vệ quyền con người. Trên cơ sở đó, Khoản 1 Điều 3 Luật
BVQLNTD quy định NTD là “người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho
mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”. Pháp luật hiện
hành thừa nhận NTD ở Việt Nam có thể là các cá nhân, tổ chức và có mối liên

7


hệ với nhà cung ứng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường thơng qua việc sử dụng
hàng hóa, dịch vụ phục vụ tiêu dùng, sự mở rộng đối tượng được xem là NTD
ở nước ta đã góp phần giúp nhiều chủ thể yếu thế trên thị trường được pháp
luật bảo vệ một cách kịp thời. Thêm vào đó, dưới góc độ ngôn ngữ học, tiêu
dùng là hoạt động sử dụng của cải vật chất để thỏa mãn các nhu cầu của đời
sống sinh hoạt hằng ngày.
Từ những phân tích trên, như vậy, ở Việt Nam, khái niệm NTD có thể
khái quát: là các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức tham gia các giao dịch dân sự
bằng việc thực hiện hoạt động mua, sử dụng các loại hàng hóa, dịch vụ khơng
nhằm mục đích thương mại mà chỉ phục vụ mục đích sử dụng, sinh hoạt cho
cá nhân, gia đình, tổ chức.
1.1.2. Khái niệm thông tin cá nhân của người tiêu dùng và bảo vệ thông
tin cá nhân của người tiêu dùng
“Thông tin cá nhân” (TTCN) không phải là thuật ngữ mới ở Việt Nam
mà thuật ngữ này đã được đề cập, sử dụng trong nhiều văn bản pháp luật khác
nhau. TTCN đã được giải thích lần đầu tiên tại Khoản 5 Điều 3 Nghị định số

64/2007/NĐ-CP về ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong hoạt động nhà nước,
theo đó, TTCN là: “thơng tin đủ để xác định chính xác danh tính một cá nhân,
bao gồm ít nhất nội dung trong những thông tin sau đây: họ tên, ngày sinh,
nghề nghiệp, chức danh, địa chỉ liên hệ, địa chỉ thư điện tử, số điện thoại, số
chứng minh nhân dân, số hộ chiếu. Những thơng tin thuộc bí mật cá nhân
gồm có hồ sơ y tế, hồ sơ nộp thuế, số thẻ bảo hiểm xã hội, số thẻ tín dụng và
những bí mật cá nhân khác.”
Sau đó, trong phạm vi áp dụng các giao dịch thương mại điện tử,
TTCN được định nghĩa tại Khoản 13 Điều 3 Nghị định 52/2013/NĐ-CP về
thương mại điện tử, theo đó, TTCN là các thơng tin góp phần định danh một
cá nhân cụ thể, gồm tên, tuổi, địa chỉ nhà riêng, số điện thoại, thông tin y tế,

8


số tài khoản, thông tin về các giao dịch thanh tốn cá nhân và những thơng tin
khác mà cá nhân mong muốn giữ bí mật. Theo Nghị định này, các thông tin
liên hệ công việc và thông tin mà cá nhân đã tự công bố trên các phương tiện
truyền thông không được xem là TTCN.
Tuy nhiên, trong Luật BVQLNTD lại không đề cập đến khái niệm
“thông tin cá nhân của NTD” mà chỉ sử dụng thuật ngữ “thông tin của người
tiêu dùng” để áp dụng chung. Hiện nay, trong các văn bản luật, định nghĩa
TTCN được đề cập một cách chính thức tại Khoản 15 Điều 3 Luật ATTTM
năm 2015, theo đó, “thơng tin cá nhân là thơng tin gắn liền với việc xác định
danh tính của một người cụ thể”. Thuật ngữ “danh tính” có thể được hiểu là
các dữ liệu về tên, tuổi, lai lịch của một người, các thơng tin này có thể đã
được cơng khai hoặc họ khơng muốn tiết lộ và giữ làm bí mật riêng. Suy rộng
ra, các TTCN phải biểu thị các thông tin gắn liền với một người, phản ánh về
các quyền dân sự hay chứa đựng các thông tin liên quan đến nhiều lĩnh vực
khác như hành chính, hình sự, giáo dục, kinh tế, y tế,… Thông thường, TTCN

là thông tin về họ tên, ngày sinh, nghề nghiệp, chức danh, địa chỉ liên hệ, địa
chỉ thư điện tử, số điện thoại, số chứng minh nhân dân/căn cước công dân, số
hộ chiếu, thông tin về hồ sơ y tế, hồ sơ nộp thuế, số thẻ bảo hiểm xã hội, số
thẻ tín dụng và những bí mật cá nhân khác.
Từ những bình luận trên, có thể hiểu TTCN của NTD là: tất cả các
thơng tin đã được cơng khai hoặc bí mật mà qua đó có thể xác định được cụ
thể danh tính của NTD, phân biệt giữa họ với một người khác.
Cũng phải khẳng định rẳng, mặc dù thuật ngữ “người tiêu dùng” trong
quy định của Luật BVQLNTD năm 2010 không chỉ bao gồm cá nhân mà có
thể bao gồm cả hộ gia đình và tổ chức, tuy nhiên, như định nghĩa về “thông
tin cá nhân” đã hàm ý kể trên, trong cụm từ “thơng tin cá nhân của NTD” thì
cụm từ “người tiêu dùng” chỉ có thể được hiểu là “cá nhân người tiêu dùng”

9


chứ không bao gồm “tổ chức”. Do vậy, trong nghiên cứu này, thuật ngữ
“người tiêu dùng” trong tên đề tài nghiên cứu chỉ được hiểu và giới hạn là cá
nhân người tiêu dùng.
Khi tham gia giao dịch trên thị trường, trừ các giao dịch trực tiếp sử
dụng tiền mặt mà các bên tham gia giao dịch không cần hỏi người mua hàng
hóa, dịch vụ là ai, đa phần NTD buộc phải cung cấp một số thơng tin cá nhân
của mình (như các thông tin về họ tên, địa chỉ liên lạc v.v..) cho tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ để thực hiện giao dịch (nhất là trong các
giao dịch mà giữa các bên hình thành một hợp đồng dưới hình thức văn bản,
trong đó có các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ qua mạng Internet).
Những thông tin về khách hàng thường được các cá nhân, tổ chức kinh doanh
thu thập, lưu trữ, quản lý cẩn thận và cần được giữ kín, bảo mật một cách chặt
chẽ bởi lẽ nó khơng chỉ đáp ứng cho một giao dịch được xác lập trước mắt mà
tạo điều kiện để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với khách hàng cũ của mình

thơng qua việc khai thác dữ liệu khách hàng đang có sẵn, đảm bảo giữ vững
thị phần. Thơng qua lưu trữ thơng tin khách hàng, thay vì phải nghiên cứu tìm
kiếm cách quảng bá, tiếp thị sản phẩm ra thị trường, doanh nghiệp chỉ cần sử
dụng dữ liệu có sẵn tiến hành liên lạc với khách hàng cũ, duy trì mối quan hệ
bạn hàng ổn định. Tuy nhiên, mục tiêu tất cả các chủ thể kinh doanh hướng
đến là lợi nhuận, họ không thể nào đầu tư một khoản chi lớn để bảo mật thông
tin khách hàng, cũng như không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng cạnh
tranh với nhau, các tổ chức kinh tế này thường có xu hướng liên kết, thỏa
hiệp, hợp tác với nhau, chia sẻ thông tin về khách hàng – tài nguyên quý báu
trong quá trình kinh doanh – để tìm được lợi nhuận cao hơn, để mở rộng thị
phần, doanh nghiệp cũng cần điều tra, thu thập thông tin để đánh giá được thị
hiếu, khuynh hướng mua sắm của khách hàng để từ đó có điều chỉnh thích
hợp hoạt động kinh doanh của mình tới khách hàng tiềm năng. Do đó, dưới

10


khía cạnh kinh tế, các TTCN của NTD là nguồn dữ liệu vô cùng quý giá, củng
cố năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường.
Thực tế, không một ai mong muốn những thơng tin của mình bị lộ, bị
lọt vào tay của người khác khi không biết họ sử dụng để làm gì và khơng thể
dự đốn các hậu quả tác động đến mình ra sao. Do đó, việc dễ dàng thu thập
được các TTCN của NTD đã đặt ra vấn nạn “trộm thông tin người dùng”,
“rao bán thông tin”,… làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của NTD,
gây ra những tác động không nhỏ đến đời sống riêng tư của mỗi cá nhân, tác
động xấu đến hoạt động của nền kinh tế và trật tự xã hội, đặt ra yêu cầu cấp
thiết về hoạt động ngăn chặn, khắc phục bảo vệ TTCN của NTD.
Như vậy, bảo vệ TTCN của NTD là việc áp dụng các biện pháp nhằm
đảm bảo tính bảo mật thơng tin riêng tư về NTD, tránh việc lộ, lọt thông tin
dẫn đến tình trạng lạm dụng, sử dụng bất hợp pháp TTCN của NTD trong bất

kì hoạt động, trên bất kì phương diện nào, đồng thời góp phần ngăn chặn, xử
lý các hành vi xâm phạm đến quyền được bảo hộ về đời sống riêng tư, bí mật
cá nhân của con người, bảo vệ TTCN của NTD được an toàn.

1.1.3. Các phương thức bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng
Theo quy định của pháp luật, bảo vệ quyền lợi NTD (bao gồm bảo vệ
TTCN của NTD) là trách nhiệm chung của Nhà nước và toàn thể xã hội, nên
cần được triển khai một cách đồng bộ, kịp thời trên nhiều phương diện và có
sự phối hợp thực hiện của các chủ thể tham gia. Trong đó, hoạt động bảo vệ
TTCN của NTD trước hết được thực hiện bằng việc xây dựng và áp dụng các
quy định pháp luật về bảo vệ TTCN của NTD.
Nhà nước là tổ chức đặc biệt thực hiện các chức năng quản lý và duy trì
trật tự xã hội bằng Hiến pháp, pháp luật nên trách nhiệm bảo vệ TTCN nói
chung và bảo vệ TTCN của NTD nói riêng trước hết thuộc về Nhà nước.
Cùng với những biến đổi của nền kinh tế thị trường, nhất là trước tác động

11


ngày một mạnh mẽ của các công nghệ số và không gian mạng, hệ thống pháp
luật về bảo vệ TTCN của NTD từng bước hình thành và phát triển, được ghi
nhận trong các đạo luật như: Hiến pháp, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng năm 2010, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017), Luật An tồn thơng tin mạng năm 2015, Luật An
ninh mạng năm 2018, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016,…
Thông qua các văn bản pháp luật, một số cách thức bảo vệ TTCN của
NTD được áp dụng cụ thể đó là:
Một là, quy định nghĩa vụ/trách nhiệm pháp lý của chủ thể thu thập, xử
lý lưu trữ TTCN của NTD. Đây là cách thức áp dụng với hầu hết các ngành
nghề, lĩnh vực kinh doanh, qua đó việc thu thập, xử lý các TTCN của NTD

bởi các cơ quan, tổ chức và cá nhân phải tuân thủ u cầu, quy trình pháp luật
quy định. Có thể thấy TTCN là những gì thuộc về quyền về đời sống riêng tư
của một người nào đó, vì vậy, các phương pháp thu thập, xử lý lưu trữ TTCN
của NTD phải được sự đồng ý của chính người này, trừ trường hợp người đứng
đầu cơ quan nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình được phép
yêu cầu cung cấp thơng tin trong trường hợp cần thiết vì lợi ích, sức khỏe của
cộng đồng theo quy định của luật có liên quan mà khơng cần có sự đồng ý của cá
nhân đó và một số trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Quyền về đời sống riêng tư của mỗi cá nhân là bất khả xâm phạm, được
Nhà nước công nhận và bảo vệ bằng Hiến pháp, pháp luật, nên việc thực hiện
phương thức thu thập, xử lý, lưu trữ thông tin phải đáp ứng quy định pháp
luật. Đây là giới hạn xác định về điều kiện thực hiện các hành vi thu thập
TTCN để tránh các trường hợp lộ, lọt thông tin không mong muốn, gây ảnh
hưởng tiêu cực đến đời sống riêng tư của NTD.
Hai là, buộc các chủ thể thu thập thông tin phải dụng các biện pháp kỹ
thuật về an tồn thơng tin. Áp dụng các biện pháp an tồn thơng tin là một

12


trong các điều kiện bắt buộc để bảo vệ TTCN của NTD, nhất là đối với những
thông tin trên môi trường mạng. Để bảo đảm an tồn thơng tin mạng thì tổ
chức, căn cứ quy định tại Điều 19 Luật ATTTM 2015, cá nhân xử lý TTCN
có trách nhiệm áp dụng biện pháp quản lý, kỹ thuật phù hợp và cần áp dụng
biện pháp khắc phục, ngăn chặn trong thời gian sớm nhất khi xảy ra hoặc có
nguy cơ xảy ra sự cố an tồn thơng tin mạng. Các dữ liệu cá nhân của NTD
cần được bảo đảm an toàn để chống lại các rủi ro có thể xảy ra như bị trộm, bị
tiết lộ, bị sử dụng trái phép, bị tiêu hủy, bị sửa đổi bổ sung...
Các biện pháp bảo vệ hệ thống thông tin để đảm bảo an tồn thơng tin
mạng được quy định áp dụng bao gồm:

- Ban hành quy định về bảo đảm an tồn thơng tin mạng trong thiết kế,
xây dựng, quản lý, vận hành, sử dụng, nâng cấp, hủy bỏ hệ thống thông tin.
- Áp dụng biện pháp quản lý, kỹ thuật theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật an tồn thơng tin mạng để đề phịng, chống nguy cơ, khắc phục sự cố an
tồn thông tin mạng.
- Kiểm tra, giám sát việc tuân thủ quy định và đánh giá hiệu quả của các
biện pháp quản lý và kỹ thuật được áp dụng.
- Giám sát an tồn hệ thống thơng tin.
Ba là, bảo vệ TTCN của NTD thông phương thức hợp đồng dân sự.
Thông qua hoạt động mua, sử dụng các loại hàng hóa, dịch vụ nhằm phục vụ
sinh hoạt, NTD tham gia xác lập các giao dịch dân sự với cá nhân, tổ chức
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và thường phải cung cấp một số TTCN liên
quan để thực hiện giao dịch.
Trong lĩnh vực dân sự, các hợp đồng cần được thiết lập theo quy định
của BLDS và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trên cơ sở đó, căn cứ
Điều 38 BLDS 2015 thì đời sống riêng tư, bí mật cá nhân là bất khả xâm
phạm và được pháp luật bảo vệ. Việc thu thập, lưu trữ, sử dụng, công khai

13


thơng tin này phải được người đó đồng ý. Bởi vậy, bên cung ứng hàng hố,
dịch vụ có trách nhiệm bảo mật thông tin và không được sử dụng thông tin đó
cho mục đích của riêng mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác. Đồng
thời, dựa trên những quy định tại Điều 387 BLDS thì khi một bên nhận được
thơng tin bí mật của bên kia trong q trình giao kết hợp đồng, có trách nhiệm
bảo mật thơng tin và khơng được sử dụng thơng tin đó cho mục đích riêng của
mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác, bên vi phạm mà gây ra thiệt hại
có trách nhiệm phải bồi thường, cho nên NTD có thể yêu cầu các điều khoản
về bảo mật thông tin, bồi thường thiệt hại khi giao kết hợp đồng dân sự trên

cơ sở tự nguyện và thống nhất thỏa thuận của các chủ thể tham gia, tuân thủ
pháp luật và bảo đảm kịp thời, bảo vệ tối ưu quyền lợi của bản thân.
Bốn là, bảo vệ TTCN của NTD bằng các phương thức giải quyết tranh
chấp. Khi phát sinh mâu thuẫn về quyền và lợi ích của các bên dẫn đến tranh
chấp, NTD có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội
khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật BVQLNTD
và các quy định pháp luật khác có liên quan. NTD có thể tự mình bảo vệ hoặc
u cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm
tùy theo mức độ và tính chất của sự việc. Đồng thời, Tòa án, Trọng tài thương
mại là cơ quan tài phán có trách nhiệm tơn trọng, bảo vệ quyền của các chủ
thể, thực hiện hoạt động tố tụng để giải quyết các trường hợp tranh chấp, vi
phạm phát sinh.

1.1.4. Vai trò của hoạt động bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng
Quan hệ pháp luật giữa NTD và cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ, sản
phẩm thường phát sinh trong lĩnh vực dân sự, kinh tế. Trong mối quan hệ này,
NTD thường ở vị trí yếu thế cần được pháp luật bảo vệ để tạo nên sự công
bằng trong quan hệ giữa các thành viên trong xã hội. Do đó, bảo vệ thơng tin
cá nhân của NTD cũng góp phần duy trì sự công bằng ấy trong các quan hệ
trên thị trường. Cụ thể:

14


Thứ nhất, bảo vệ TTCN của NTD góp phần đảm bảo tốt hơn quyền con
người.
Với tư cách là một trong các chủ thể của pháp luật, NTD luôn được pháp
luật bảo vệ, tạo cơ hội để thực hiện các quyền con người, quyền cơng dân và
hưởng lợi ích chính đáng của mình, góp phần đảm bảo bình đẳng, cơng bằng
trong xã hội.

Quyền con người vốn là các quyền tự nhiên, sẵn có của tất cả mọi người
trong xã hội và được pháp luật quốc gia, pháp luật quốc tế ghi nhận, bảo vệ,
tạo điều kiện để người đó phát huy các quyền vốn có của mình. Ở Việt Nam,
mọi hành vi xâm phạm lợi ích của cơng dân, vi phạm quyền con người đều là
hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng và cần được kịp thời xử lý nghiêm
minh, đặc biệt là quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân và bí mật gia đình, được bảo vệ về danh dự, nhân phẩm, uy tín của mỗi
người. Do đó, hoạt động bảo vệ TTCN của NTD là một trong những cách
thức góp phần đảm bảo một trong những quyền cơ bản nhất mà mỗi người
được hưởng, được pháp luật thừa nhận, bảo hộ bởi các quy định pháp luật, tạo
hành lang pháp lý để đảm bảo cơ chế bảo vệ quyền về đời sống riêng tư của
con người nói chung, quyền được bảo vệ của NTD nói riêng, thể hiện tính
cơng bằng, nghiêm minh của pháp luật, xử lý nghiêm minh các hành vi vi
phạm pháp luật. Trên cơ sở đó, bảo vệ TTCN của NTD góp phần bảo đảm
thực hiện quyền con người, đặc biệt là quyền được bảo đảm an toàn về TTCN
của NTD, góp phần tạo ra sự bình đẳng, độc lập giữa các cá nhân, tổ chức
trong xã hội.
Thứ hai, bảo vệ TTCN của NTD góp phần xây dựng nền kinh tế phát
triển bền vững và duy trì ổn định, trật tự xã hội.
NTD là giữ vai trò trung tâm trong mối quan hệ giữa các chủ thể tham
gia vào thị trường, góp phần thúc đẩy q trình sản xuất, lưu thơng hàng hóa,

15


dịch vụ, phát triển nền kinh tế. Bảo vệ NTD là trách nhiệm chung của Nhà
nước và toàn xã hội. Thông qua hoạt động bảo vệ TTCN của NTD, các cá
nhân, tổ chức cung cấp sản phẩm, dịch vụ có trách nhiệm thực hiện tốt quá
trình thu thập, xử lý thơng tin khách hàng, tránh tình trạng doanh nghiệp liên
kết chia sẻ TTCN của người khác mà khơng có sự đồng ý của họ, tạo môi

trường cạnh tranh lành mạnh, cơng bằng với các chủ thể kinh doanh khác, góp
phần ổn định thị trường, tạo động lực để phát triển hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Bên cạnh đó, các cơ quan, tổ chức được nhà nước giao trách nhiệm
bảo vệ NTD, quản lý thị trường thông qua hệ thống pháp luật về bảo vệ
TTCN của NTD có điều kiện phát huy vai trị, nhiệm vụ đảm nhận. Qua đó,
căn cứ vào hành vi, mức độ vi phạm mà áp dụng các biện pháp bảo vệ NTD
một cách chính đáng, thực hiện tốt cơng tác bảo vệ các lợi ích cộng đồng, an
ninh quốc gia, đảm bảo trật tự xã hội, thúc đẩy hoạt động của thị trường và sự
phát triển an toàn, bền vững của nền kinh tế.
Thứ ba, bảo vệ TTCN của NTD giúp nâng cao trách nhiệm của cơ
quan nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi NTD.
Hoạt động bảo vệ TTCN của NTD đáp ứng các yêu cầu khách quan của
xã hội, nhu cầu được bảo vệ đời sống riêng tư, quyền cơ bản mà mỗi người đều
được tôn trọng và bảo vệ, đây là các yêu cầu hợp pháp và phù hợp với thực tiễn.
Do đó, pháp luật bảo vệ TTCN của NTD được chú trọng, xây dựng trên cơ sở
nguyên tắc đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, phù hợp với yêu cầu khách
quan, bảo đảm quyền dân chủ và hài hòa lợi ích giữa các lực lượng xã hội. Bằng
sự thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước qua các thời
kỳ về quyền con người, hoạt động bảo vệ TTCN của NTD được thực hiện trên cơ
sở quy định pháp luật, đảm bảo sự công bằng xã hội, tránh được những xung đột
về mặt lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường, góp phần ổn định xã hội và quá
trình phát triển của nền kinh tế thị trường.

16


Để đảm bảo cho việc thực hiện các quy định pháp luật cũng như phát
huy vai trò quản lý xã hội, Nhà nước trao quyền thực hiện, quản lý công tác
bảo vệ quyền lợi của NTD cho các cơ quan các cấp, qua đó hoạt động bảo vệ
NTD nói chung và TTCN của NTD nói riêng đều được tiến hành được thực

hiện dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Căn cứ Điều 34
Nghị định số 99/2011/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Luật BVQLNTD thì Bộ
Cơng thương, Cục quản lý cạnh tranh (nay là Cục Cạnh tranh và Bảo vệ
người tiêu dùng), UBND cấp tỉnh, Sở Công thương, UBND cấp huyện là cơ
quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD, tiến hành một số hoạt động
như: thẩm định, giám sát các hoạt động của tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi
NTD, hoạt động hòa giải tranh chấp giữa NTD và cá nhân, tổ chức kinh
doanh. Qua đó, tạo điều kiện để bảo đảm an tồn về TTCN của NTD, triển
khai các cơng tác tư vấn, hỗ trợ nhằm tuyên truyền, phổ biến pháp luật nâng
cao ý thức về bảo vệ quyền lợi NTD, đặc biệt là những thông tin thuộc về cá
nhân, mang tính riêng tư của NTD, đồng thời củng cố nghiệp vụ của cơ quan
nhà nước để bảo vệ NTD một cách nhanh chóng, kịp thời, tạo điều kiện để
thực thi quyền con người, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong cơng tác bảo vệ TTCN của NTD ở Việt Nam. Tăng
cường sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong hoạt động tiến hành
thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý hành vi vi phạm pháp
luật về bảo vệ quyền lợi NTD.
Muốn những thông tin này được bảo mật, an tồn, các tổ chức, cơ quan
có thẩm quyền cũng cần có những biện pháp tích cực để bảo vệ TTCN của
NTD. Thông qua kết quả hoạt động bảo vệ TTCN của NTD, có thể đánh giá
được cách thức hoạt động và hiệu quả làm việc của các cơ quan này khi được
Nhà nước giao phó nhiệm vụ, thống kê thành tựu đạt được và nhận xét về hạn
chế còn tồn đọng, nguyên nhân cần khắc phục, nhất là sự hợp tác của các cơ

17


quan này đơi lúc cịn chậm thực hiện vì sự thiếu trách nhiệm cũng như động
cơ hợp tác. Từ đó tạo cơ chế bảo vệ TTCN góp phần phù hợp với tiêu chuẩn
pháp lý trong nước và quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói

chung và quyền TTCN của NTD nói riêng, tạo hành lang pháp lý đối với các
cơ chế thực thi pháp luật, chống lại các hành vi vi phạm quyền riêng tư của
con người.
Thứ tư, bảo vệ TTCN của NTD giúp điều chỉnh hành vi cá nhân, tổ chức
tiến hành thu thập thông tin một cách có trách nhiệm.
Các tổ chức, cá nhân kinh doanh tiến hành thu thập TTCN của NTD rất
nhiều. Hầu như khi tham gia vào bất kể giao dịch nào, NTD cũng cần cung
cấp TTCN. Do đó, việc xây dựng các quy định pháp luật và thực hiện hoạt
động bảo vệ quyền của NTD đối với các TTCN là vô cùng cần thiết, buộc các
chủ thể tham gia vào quan hệ phải tơn trọng các quyền, lợi ích của các chủ thể
khác, nhất là không thực hiện hành vi xâm phạm đến quyền lợi của NTD.
Thông thường, quy định pháp luật thường mang tính bắt buộc chung đối với
các đối tượng tham gia, thu hút sự tham gia tích cực của toàn thể xã hội,
cưỡng chế thi hành để đảm bảo thực hiện đối với các hành vi vi phạm, đồng
thời hoạt động của các cá nhân, tổ chức kinh doanh trong công tác bảo vệ
NTD đặt dưới sự giám sát, kiểm tra của Nhà nước thông qua các cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền. Từ đó, cơng tác bảo vệ TTCN của NTD được thực hiện
tốt hơn thông qua việc áp dụng pháp luật, tạo cơ sở cho sự bảo đảm thực hiện
quyền con người, quyền công dân đối với TTCN, đảm bảo lợi ích của cá nhân
khi họ chia sẻ thơng tin của mình. Việc thu thập thơng tin một cách dễ dàng
bằng nhiều cách thức khác nhau sẽ mang lại một giá trị lợi nhuận cao hơn cho
các doanh nghiệp, tuy nhiên lợi nhuận này phải hình thành từ cơ sở hợp pháp
và hợp lý, không thể đem thông tin cá nhân của một người ra để rao bán, trục
lợi mà khơng hề có sự đồng ý của họ, hành vi này là xâm phạm nghiêm trọng

18


quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân của mỗi cơng dân. Vì vậy, việc xây dựng hành lang pháp lý và triển khai

hoạt động hoạt động bảo vệ TTCN của NTD là hết sức quan trọng.
1.2. Khung pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu
dùng ở Việt Nam
Ở Việt Nam thời gian qua, các quy định về bảo vệ TTCN của NTD đã
bước đầu xuất hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống pháp luật
điều chỉnh quan hệ bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam nói chung và bảo vệ
TTCN của NTD nói riêng đều thể hiện các nguyên tắc, định hướng xây dựng
pháp luật từ việc thể chế hóa, tổng thể các quy định của Nhà nước, chứa đựng
các quy phạm pháp luật có tính chun ngành dành cho việc điều điều chỉnh
quan hệ pháp luật phát sinh, bảo đảm thống nhất cho sự vận hành của các
quan hệ xã hội. Dựa vào các văn bản này, Tịa án hoặc người có thẩm quyền
xem xét căn cứ để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên, chẳng hạn: văn
bản quy phạm pháp luật, nguyên tắc pháp lý, tập quán và thông lệ, án lệ và
những học thuyết pháp lý.
Mỗi loại quan hệ xã hội đều có hành lang pháp lý riêng, khung pháp lý
điều chỉnh hoạt động bảo vệ TTCN của người tiêu dùng tại Việt Nam bao
gồm các văn bản:
Thứ nhất, các văn bản do Quốc hội ban hành:
- Hiến pháp: Hiến pháp là đạo luật gốc, nguồn luật quan trọng điều chỉnh
hoạt động bảo vệ TTCN của NTD và có hiệu lực pháp lý cao nhất, là đạo luật
cơ bản của Nhà nước ta thể hiện sự thể chế hóa quan điểm, đường lối cách
mạng của Đảng về xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc. Quyền con người
được pháp luật chú trọng bảo vệ, ghi nhận trong Hiến pháp qua các thời kỳ,
Điều 50 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận ở nước CHXHCN Việt Nam, các
quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được tôn trọng,

19


thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và Luật.

Theo Hiến pháp năm 2013, Nhà nước đảm bảo và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người
quyền công dân để mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện. Điều 21 Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Mọi người
có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật
gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thơng tin về đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an tồn.”
Do đó, mọi người đều có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình
thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm sốt, thu
giữ trái luật thư tín, điện thoại và các hình thức trao đổi thơng tin riêng tư của
người khác. Đây là các cơ sở quan trọng cho việc ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật về bảo vệ TTCN của NTD ở Việt Nam.
- Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010: Đây là luật chuyên
ngành quy định trực tiếp những nội dung về hoạt động bảo vệ NTD nói chung
và bảo vệ TTCN của NTD nói riêng từ những nguyên tắc cơ bản trong hoạt
động bảo vệ quyền lợi NTD, quyền và nghĩa vụ của các bên, giải quyết tranh
chấp liên quan đến hoạt động bảo vệ TTCN của NTD. Luật BVQLNTD với
tư cách là luật chuyên ngành điều chỉnh toàn bộ các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình các chủ thể thực hiện hoạt động bảo vệ TTCN của NTD, đặc
biệt là về thông tin thuộc về riêng tư của họ, công cụ để thực hiện quyền quản
lý nhà nước về bảo vệ TTCN của NTD.
- Bộ luật Dân sự năm 2015: BLDS năm 2015 có các quy định tại Điều
32, Điều 34 và Điều 38 ghi nhận cá nhân có quyền được bảo vệ về hình ảnh,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí
mật gia đình. Bên cạnh đó, các quan hệ phát sinh trong hoạt động bảo vệ NTD
phải đảm bảo các nguyên tắc theo quy định chung của Bộ luật Dân sự về thiết

20



lập các quan hệ pháp luật dân sự theo nguyên tắc bình đẳng, thiện chí, trung
thực và tơn trọng bảo vệ quyền dân sự, phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp,
tơn trọng lợi ích Nhà nước, lợi ích cộng đồng và quyền lợi hợp pháp của
người khác, nguyên tắc tuân thủ pháp luật và nguyên tắc hòa giải.
- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: quy định về trình tự thủ tục đối với
các vụ kiện nhằm bảo vệ quyền lợi của NTD, trong đó chủ thể có quyền khởi
kiện không chỉ là các cá nhân, tổ chức mà cịn có sự tham gia của tổ chức xã
hội bảo vệ quyền lợi NTD. Cụ thể, Khoản 3 Điều 187 Bộ luật này quy định
“tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền đại diện
cho người tiêu dùng khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích cơng cộng
theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”. Thông qua đó, lợi
ích hợp pháp của NTD được pháp luật chú trọng bảo vệ kịp thời, tránh khỏi
các tác động tiêu cực của xã hội.
- Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012: luật này quy định về xử phạt
hành chính cũng như một số biện pháp xử lý hành chính đối với cá nhân, tổ
chức vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD.
- Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017): thông qua việc
hình sự hóa các hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền lợi của NTD về
các thông tin cá nhân được ghi nhận trong Bộ luật Hình sự hiện hành, cụ thể
Điều 159 quy định về tội xâm phạm bí mật hoặc an tồn thư tín, điện thoại,
điện tín hoặc hình thức trao đổi thơng tin riêng tư khác của người khác; Điều
288 về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thơng tin mạng máy tính, mạng viễn
thơng. Ngồi ra, tại Mục 2 Chương XXI của Bộ luật này quy định về các tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông, quyền lợi của
NTD được pháp luật chú trọng bảo vệ thông qua các quy định chế tài xử lý
các hành vi có thể làm xâm hại quyền lợi chính đáng của các chủ thể này và
cản trở hoạt động bảo vệ thông tin cá nhân, tạo điều kiện phát huy tối đa

21



quyền con người, cụ thể: sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho các công
cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng trái pháp luật; phát tán chương trình tin học
gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện
tử; xâm phạm trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thơng hoặc phương
tiện điện tử của người khác; sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; thu thập, tàng trữ,
trao đổi, mua bán, cơng khai hóa trái phép thơng tin về tài khoản ngân hàng.
- Luật Trọng tài thương mại năm 2010, Bộ Luật tố tụng hình sự, Luật An
tồn thơng tin mạng năm 2015, Luật An ninh mạng năm 2018, Luật Viễn
thông năm 2006, Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Luật Công nghệ thông tin
năm 2006… Đây là các văn bản pháp luật quy định về hoạt động bảo vệ
TTCN của NTD trong một số trường hợp cụ thể, có tính chất kỹ thuật và bổ
trợ trong việc góp phần xác định trách nhiệm của các bên tham gia quan hệ
bảo vệ NTD, các biện pháp bảo đảm an toàn và bảo vệ quyền của NTD về
thông tin cá nhân của họ, xác định cơ sở để giải quyết các tranh chấp và giải
quyết các vấn đề khác phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình áp dụng pháp
luật, bảo vệ kịp thời quyền lợi chính đáng của NTD, đặc biệt là về đời sống
riêng tư, TTCN của họ, tạo điều kiện phát huy quyền con người một cách tối
đa, phù hợp với các tiêu chuẩn của pháp luật quốc gia và quy chuẩn quốc tế.
Thứ hai, các văn bản dưới luật do Chính phủ và các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng và các luật khác có liên quan đến hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD.
Trong đó, Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 về quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVQLNTD. Nghị định
này quy định chi tiết về bảo vệ NTD trong giao dịch cá nhân với hoạt động
thương mại độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh, hợp đồng
giao kết với NTD và điều kiện giao dịch chung, giải quyết yêu cầu bảo vệ

22



×