Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.95 KB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGUYỄN THỊ THANH

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGUYỄN THỊ THANH

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT

Hà Nội, năm 2021




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nay còn khá mới mẻ, nó
được hiểu theo nghĩa chuyển ngữ chính xác từ cụm từ “Corporate Social
Responsibility (CSR)”. Hiện nay CSR được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Khái
niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam vào
những năm 90 của Thế kỷ XX. Khái niệm này đến cùng với các tập đồn đa quốc
gia, cơng ty nước ngoài đến Việt Nam đầu tư, kinh doanh bằng các quy định trong
bộ tiêu chuẩn, bộ quy tắc ứng xử nội bộ, yêu cầu áp dụng cho nhà cung cấp, doanh
nghiệp sản xuất,kinh doanh, nhận gia công phải thực hiện áp dụng, thông qua việc
tuân thủ pháp luật, bộ tiêu chuẩn, bộ quy tắc ứng xử này để doanh nghiệp thực hiện
trách nhiệm với xã hội.
Qua thực tiễn cho thấy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được hiểu, được
áp dụng, tn thủ khơng thống nhất, khơng có tính bắt buộc, không thường xuyên,
mới chỉ là sự tự nguyện thực hiện trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh, sự cam
kết về chất lượng sản phẩm, tính trung thực trong quảng bá sản phẩm, cũng như bảo
đảm an toàn cho người sử dụng từ phía doanh nghiệp. Trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp đang được xem như là một trong những chiến lược kinh doanh hàng
đầu, quảng bá thương hiệu hơn là những quy định hay bắt buộc của luật pháp. Bên
cạnh đó việc nghiên cứu một cách đầy đủ về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
chưa được quan tâm đúng mực, hệ thống văn bản pháp luật chưa quy định cụ thể
làm cơ sở pháp lý cho việc tuân thủ thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Việc hiểu rõ, đầy đủ, nâng cao ý thức thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp ở nước ta hiện nay là việc làm vô cùng quan trọng và cấp thiết.
Trước các yêu cầu điều kiện để gia nhập các tổ chức thương mại, hội nhập
kinh tế quốc tế, Việt Nam đã phải sửa đổi một số các Bộ luật. Kết quả nghiên cứu,
đề xuất các giải pháp trong quá trình nghiên cứu trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp đã được cơ quan thẩm quyền lập pháp tiếp thu và đưa vào các quy định của
nhiều đạo luật trong thời gian gần đây. Tuy nhiên thực tế áp dụng vẫn tồn tại các

hạn chế, chính vì vậy Đề tài “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh
Đồng Nai” cần tiếp tục được nghiên cứu. Qua việc nghiên cứu chỉ ra những hạn

1


chế, bất cập, chưa đồng bộ, chưa thống nhất của quy định pháp luật liên quan đến
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, từ đó đề xuất ý kiến, giải pháp, định hướng,
hướng dẫn,… nhằm đề xuất giải pháp hoàn chỉnh hệ thống quy định pháp luật,
khuyến khích, nâng cao hiệu quả thực trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về cả
mặt lý luận và thực tiễn. Hướng đến kết quả tích cực là các doanh nghiệp thực hiện
trách nhiệm xã hội một cách tự nguyện, có hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được đông đảo giới nghiên
cứu, học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh, nhà quản trị, quản trị doanh nghiệp đều
tham gia nghiên cứu. Ở mỗi cấp độ nghiên cứu và lĩnh vực khác nhau trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp được phân tích và có nhiều góc nhìn khác nhau. Trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã là mơn học trong trương trình định khung của
khoa luật, khoa quản trị, kinh tế,… trong trường đại học.
Nghiên cứu về CSR trong khoảng nhưng năm 2005 đến 2015 hầu như khơng
cịn nhiều giá trị nghiên cứu nên tác giả Luận văn chỉ nêu một vài công trình nghiên
cứu những năm gần đây gồm các nghiên cứu sau:
- Lê Phước Hương, Lưu tiến Thuận “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Tổng kết một số chủ đề và định hướng nghiên cứu” Tạp chí Khoa học trường Đại
học Cần thơ 28/6/ 2017.
- My Ngân “ CSR - Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” Báo Đầu tư
online ngày 26/2/2019.
- Nguyễn Thị Phương Thảo, Nguyễn Văn Anh, Phạm Thị Thuý An

“Tác động của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp lên danh

tiếng, niềm tin, lòng trung thành của khách hàng trong ngành ngân hàng - một
nghiên cứu trên địa bàn thành phố Đà Lạt” Tạp chí Phát triển Khoa học và
Công nghệ - Kinh tế - Luật và Quản lý, tháng 3/92019.
- Nguyễn Hoàng Khởi, Dương Ngọc Thành “Trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp và hành vi tiêu dùng: Nghiên cứu định tính trong ngành nước

2


uống giải khát đóng chai khơng cồn tại thành phố Cần Thơ”, Tạp chí Khoa
học và Cơng nghệ Số 55/2019.
- Lưu Ngọc Liêm “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh hiện
nay”, Trường Đại học Lạc Hồng, Tạp chí Tài chính tháng 1/2020.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài Luận văn là trên cơ sở những đánh giá tình hình
thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong thời gian qua đề xuất giải pháp
hoàn thiện pháp luật về hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện
nay.
Nghiên cứu các quan điểm khoa học, khoa học pháp lý, khoa học kinh tế về
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, các quy phạm pháp luật hiện hành điều chỉnh
đến hoạt động của doanh nghiệp có liên quan;
Nghiên cứu những quy định, lý luận pháp lý về trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp theo hệ thống pháp luật quốc gia; pháp luật quốc tế;
Quy định của các Bộ tiêu chuẩn quốc tế về trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp;
Quy định của các Bộ quy tắc ứng xử điển hình quy định về trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp;
Phân tích một cách có hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành về
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, đánh giá thực tiễn áp dụng tại tỉnh Đồng Nai;
Kết quả thực tiễn thực hiện pháp luật về thực hiện trách nhiệm xã hội của

doanh nghiệp tại địa phương, qua đó thấy được các tồn tại, hạn chế và đưa ra đề
xuất các giải pháp đổi mới, hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật trách nhiệm xã hội đến
doanh nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Căn cứ trên các dữ liệu thu thập từ các công trình nghiên cứu, bài viết, số
liệu thống kê, tài liệu tham khảo, cáo báo cáo thực hiện trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp địa phương, tình hình thực tiễn tại tỉnh Đồng Nai được công bố gần
đây.

3


Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được quy định rộng, dàn trải trong
nhiều lĩnh vực. Do giới hạn và cấp độ nghiên cứu nên nội dung Luận văn này giới
hạn nghiên cứu trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong hai lĩnh vực pháp luật
lao động và bảo vệ môi trường. Thời điểm thực hiện Luận văn là thời gian chuyển
tiếp của 02 Bộ Luật Lao động 2019 và Luật Bảo vệ Mơi trường 2020 có hiệu lực
nên các quy định của 02 Luật này được nghiên cứu, phân tích và trích dẫn.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận chủ nghĩa biện chứng duy vật sử dụng trong nghiên cứu
các sự vật, hiện tượng liên quan có mối liên hệ biện chứng trong việc doanh nghiệp
thực hiện trách nhiệm với xã hội.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng để phân
tích, lập luận và tổng hợp những vấn đề lý luận về trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp.
- Phương pháp so sánh: Thực hiện so quy định pháp luật về trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp theo luật pháp Việt Nam với luật pháp quốc tế về trách nhiệm
xã hội.
- Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm: Nghiên cứu phân tích từ dữ liệu báo

cáo trách nhiệm xã hội của một số doanh nghiệp tại địa phương để đánh giá hiệu
quả thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong thời gian gần đây.
- Phương pháp hệ thống, logic, tổng hợp: Hệ thống, liên kết, tồn bộ các kết
quả nghiên cứu có liên quan và tổng hợp nhằm tìm ra kết quả nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Nội dung Luận văn này là nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp ở trình độ thạc sỹ. Kết quả nghiên cứu (sau khi được Hội đồng thông qua) sẽ
là tài liệu cho đối tượng có nhu cầu tham khảo, tìm hiểu về trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp về lao động và bảo vệ mơi trường dưới góc độ nghiên cứu khoa học
pháp lý.
Khả năng ứng dụng thực tiễn: Góp phần nâng cáo ý thức thực hành về trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lao động và bảo vệ môi trường của các doanh
nghiệp trên địa bàn Đồng Nai nói riêng, Việt Nam nói chung. Tăng cường đảm bảo

4


quyền con người về lao động và quyền được sống trong môi trường trong lành, đạt
mục tiêu chung là xã hội và doanh nghiệp phát triển bền vững.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có 03 Chương, nội dung các Chương như sau:
Chương 1 Những vấn đề lý luận về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Chương 2 Thực trạng pháp luật Việt Nam về trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp và tình hình thực hiện tại tỉnh Đồng Nai
Chương 3 Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở
Việt Nam hiện nay

5



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Khái niệm và bản chất của trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Trong những năm gần đây, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp - Corporate
Social Responsibilities (CSR) là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
luật học, kinh tế học, học sinh, sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh cũng
như nhà quản lý doanh nghiệp (DN). Tuy nhiên đến nay, khó có thể tìm thấy một
định nghĩa duy nhất về CSR. Hơn nữa, trong các ngành nghề khác nhau, ở các quốc
gia khác nhau, các khái niệm và thực hiện về CSR cũng rất khác nhau. Thực tế cho
thấy khái niệm CSR ngày càng được mở rộng để đáp ứng nhiều bên liên quan của
DN trên phạm vi toàn cầu (Bên hữu quan). Bên cạnh đó, các hoạt động thực hiện
CSR của DN đa dạng hơn cũng là xu thế thực hiện quản trị chiến lược kinh doanh
và quản trị DN của các cơng ty, tập đồn hiện nay [1].
Theo từ điển Tiếng Việt, trách nhiệm có nghĩa là điều phải làm, phải gánh
vác hoặc nhận lấy về mình, là sự ràng buộc về lời nói, hành vi của mình, bảo đảm
điều mình làm là đúng đắn và phải chịu phần hậu quả.
Xã hội là một nhóm những cá nhân liên quan đến tương tác xã hội một cách
thường xuyên hoặc một nhóm xã hội lớn hơn có chung lãnh thổ khơng gian hoặc xã
hội, thường chịu cùng thẩm quyền chính trị và các kỳ vọng văn hóa chi phối. Các xã
hội được đặc trưng bởi các mơ hình mối quan hệ (quan hệ xã hội) giữa cá nhân có
chung một nền văn hóa và thể chế đặc biệt. Một xã hội nhất định có thể được mơ tả
là tổng số các mối quan hệ như vậy giữa các thành phần của nó.
Theo nội dung Luật doanh nghiệp 2020 thì doanh nghiệp được hiểu là: Một
tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động
kinh doanh [2].

6



Trong hoạt động của mình, DN cần sử dụng lao động, các nguồn tài ngun,
khống sản, mơi trường tự nhiên, có tác động qua lại. Tác động này có thể tạo ra
các ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực đều do ý thức của DN. Chính vì thế DN phải có
ý thức về những tác động từ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và có trách
nhiệm về hành vi của mình đối với xã hội và mơi trường. DN cần dung hòa cả hai
mục tiêu này là DN tìm kiếm lợi nhuận cao nhất. DN thực hiện CSR để phát triển
lâu dài, bền vững.
Như vậy khái niệm CSR được hiểu là DN thực hiện một số trách nhiệm cụ
thể với xã hội nói chung, là một loại cam kết của DN đóng góp cho sự phát triển
kinh tế bền vững thông qua tuân thủ một số các chuẩn mực về: Bảo vệ môi trường;
trả lương công bằng; không phân biệt đối xử và bình đẳng giới; tạo sự ổn định và
phát triển cá nhân cho người lao động (NLĐ); phát triển cộng đồng, xã hội theo
cách có lợi cho cả doanh nghiệp và sự phát triển chung của xã hội, tạo sự phát triển
DN và xã hội một cách hiệu quả, bền vững; cam kết của DN đóng góp vào việc phát
triển kinh tế bền vững thơng qua các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống
của NLĐ, thành viên gia đình họ, cho cộng đồng và tồn xã hội theo cách có lợi
nhất cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội.
1.1.2 Lịnh sử hình thành, phát triển và đặc điểm của trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp
1.1.2.1 Lịch sử hình thành, phát triển của trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp
Những năm gần đây CSR đã trở thành một chủ đề nghiên cứu cho tất cả các
học giả, nhà nghiên cứu kinh tế, pháp luật, chính trị gia và học sinh, sinh viên,
nghiên cứu sinh. Nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển trách nhiệm xã hội cổ xưa
đến hiện tại để thấy vì sao trách nhiệm xã hội có ý nghĩa tích cực, vai trị quan trọng
được đơng đảo đối tượng nghiên cứu.
Trách nhiệm xã hội thời cổ đại
Giai đoạn này SCR được nhận diện qua các chuyện kể, nó chỉ là sự hỗ trợ

qua lại giữa những nhà buôn khi gặp khó khăn như câu chuyện của nhà bn bơng
nước Anh; Đạo Hindu có những lời răn dạy đạo đức về việc cho vay nặng lãi; chính

7


sách “Zakat” của Hồi Giáo là một hình thức bắt bố thí và đóng thuế tơn giáo bắt
buộc, đó là khoản tiền bằng 2,5% tổng thu nhập mà người giàu phải đóng góp để
giúp đỡ cho người nghèo [3].
Trách nhiệm xã hội khoảng những năm 1800
Giai đoạn này có hai học giả nghiên cứa về CSR là: John H. Patterson và tỷ
phú John D. Rockefeller.
- John H. Patterson đưa ra khái niệm về phúc lợi xã hội trong ngành công
nghiệp
- John D. Rockefeller lập nên một quỹ từ thiện [4].
Trách nhiệm xã hội khoảng năm 1950 đến năm 1970 của thế kỷ XX
Giai đoạn này CSR được nhận diện dưới góc độ đạo đức của doanh nhân,
thương nhân. Trách nhiệm xã hội của người làm kinh doanh, trách nhiệm của doanh
nhân, thương nhân đối với xã hội thông qua hoạt động kinh doanh của mình.
Giai đoạn này có các học giả nghiên cứu về CSR như:
- Howard R. Bowen

tác giả cuốn sách “Social Responsibilities of the

Businessmen - trách nhiệm xã hội của doanh nhân”;
- M. Friedman, 1962;
- Hayek, 1944;
- Levitt, 1958;
- Mc Guire, 1963;
- Eells & Walton, 1963

- Manne & Wallich, 1972.
Khái niệm CSR ở giai đoạn này dựa trên hai cơ sở đó là: Cơ sở khế ước xã
hội (Social Contract Theory) và tác nhân đạo đức (Moral Agency Theory).
Khoảng năm 1970 đến 1990 của thế kỷ XX
CSR ở giai đoạn này được nghiên cứu sâu rộng hơn, là một học thuyết được
xã hội quan tâm. CSR ở giai đoạn này đã được giáo sư Archie Carroll đã lồng ghép
vào đó 04 đặc điểm: “ kinh tế; đạo đức; pháp lý và từ thiện, sau đó ơng phát triển
thành mơ hình Kim tự tháp về trách nhiệm xã hội của DN [5].

8


Có những điều luật về CSR đầu tiên trên thế giới như: Sullivan Code [6].
Năm 1986, điều luật về đảm bảo sức khỏe và an toàn lao động được giới thiệu tới
cơng chúng Responsible Care [7].
Trong giai đoạn này có các học giả nghiên cứu về CSR:
- Preston & Post, 1975;
- Sethi, 1975;
- Caroll ,1979;
- Wartick và Cochran ,1985;
- Wood, 1991.
Nổi bật của giai đọan này có mơ hình Kim tự tháp bốn tầng với bốn nội dung
của CSR gồm: Kinh tế; pháp luật; đạo đức và lòng từ thiện của Caroll. Wartick và
Cochran bổ sung bằng việc lập quy trình phân tích để xác định các vấn đề liên quan.
Sau đó, Wood tích hợp quy trình và nội dung, hoàn thiện thành một bộ quy tắc cam
kết.
Khoảng năm 1990 đến 2010
Giai đoạn này khái niệm về các Bên hữu quan - stakeholders [8] được đề cập.
Bên hữu quan là một cá nhân hoặc nhóm cá nhân có thể gây ảnh hưởng hoặc bị ảnh
hưởng bởi các hoạt động của DN, là bên mà DN phải có trách nhiệm.

Vào những năm 1990, CSR đã được hệ thống hóa thành các tiêu chuẩn như
ISO 14001 và SA 8000, ISO26000,... những bản hướng dẫn như Hướng dẫn chủ
động báo cáo toàn cầu (Global Reporting Initiative - GRI) hay những điều lệ quản
trị công ty như Cadbury và King và những Bộ quy tắc ứng xử (BQT) của các tập
đồn, cơng ty đa quốc gia [9].
Khoảng thời gian này thế giới xuất hiện hàng loạt các chỉ dẫn, quy định, điều
lệ, tiêu chuẩn về CSR được ban hành, hơn 100 bộ tiêu chuẩn (BTC), BQT về CSR,
trong số đó có thể tìm thấy trong cuốn: “Từ A đến Z những điều cần biết về CSR”
(The A to Z of corporate social responsibilities).
Từ năm 2010 đến nay
Giai đoạn này nổi bật có khái niệm mới về CSR là CSV - Create the value
share - Creating Shared Value - Tạo lập giá trị chia sẻ được hai giáo sư Mark

9


Kramer và Michael Porter (2011) đưa ra đã chứng minh được tính hiệu quả. CSV là
cách tiếp cận mới trong việc thực hiện CSR, giúp tăng cường vai trò của DN trong
việc giải quyết các vấn đề xã hội, tăng cường khả năng cạnh tranh, đồng thời thúc
đẩy sự tiến bộ của những điều kiện kinh tế xã hội, đem lại lợi ích cho cả cộng đồng
và DN một cách bền vững. Một số tập đoàn như dược phẩm Novartis, IBM, Nestle,
Google, … đã thực hiện CSR theo mơ hình này [10].
Đặc biệt hơn đã bắt đầu xuất hiện khái niệm CSR mới - CSR 2.0 (Corporate
Sustainability Responsibility - trách nhiệm bền vững của doanh nghiệp) trên cơ sở
kế thừa và phát triển khái niệm CSR 1.0. của John D. Rockefeller.
Như vậy CSR đã không ngừng phát triển từ sơ khai, trở thành một hình thức
thiện nguyện, hỗ trợ người lao động, cộng đồng đến học thuyết về quản trị kinh
doanh, quản trị DN. CSR như một làn sóng mạnh mẽ đang trỗi dậy trên thế giới
trong học thuyết về quản trị DN, triết lý kinh doanh của các công ty, tập đoàn suốt
nhiều thập kỷ qua. CSR đã được nghiên cứu đầy đủ, toàn diện từ học thuyết đến

thực hành trên thực tế áp dụng. Kết quả CSR đã mang lại hiệu quả cao cho DN và
xã hội.
1.1.2.2 Nhân tố tác động đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Kết quả nghiên cứu và thực tiễn cho thấy các nhân tố tác động đến CSR
gồm:
- Nhận thức về sự hữu ích của CSR
Nhân tố nhận thức về sự hữu ích của CSR có nghĩa là khi có được sự hiểu
biết về CSR cũng như các lợi ích mà nó mang lại cho DN và xã hội sẽ làm tăng khả
năng thực hiện CSR trong DN.
- Sự tham gia của các Bên hữu quan
Nhân tố sự tham gia của các Bên hữu quan có nghĩa là ngồi ý chí chủ quan
của mình, DN cịn chịu sự ảnh hưởng từ Bên hữu quan trong q trình hoạt động
của mình. Theo đó, để tranh thủ được sự chấp nhận và ủng hộ của xã hội, việc áp
dụng CSR sẽ là một trong những công cụ hữu hiệu giúp DN quản trị các mối quan
hệ với các Bên hữu quan.
- Đặc điểm của DN, nhu cầu phát hành báo cáo CSR

10


Các yếu tố thuộc về đặc điểm DN cũng là các tác nhân ảnh hưởng đến việc
thực hiện CSR trong DN theo hướng DN càng lớn, càng có khả năng áp dụng cao
hoặc các DN hoạt động trong các lĩnh vực sử dụng càng nhiều tài nguyên, ảnh
hưởng môi trường càng chịu nhiều áp lực thực hiện CSR hơn.
Nhân tố nhu cầu phát hành báo cáo CSR của DN có nghĩa là: Để đảm bảo
mục tiêu hoạt động của DN là phù hợp với các yêu cầu của xã hội, các DN cần phải
công bố các thông tin trong hoạt động của mình với xã hội đặc biệt là các thông tin
về CSR. Nhu cầu phát hành các báo cáo CSR sẽ thúc đẩy, ràng buộc các DN thực
hiện CSR trong DN.
- Tác động của các quy định pháp lý

Nhân tố các quy chuẩn pháp lý có nghĩa là sự có sẵn của các hướng dẫn, quy
định pháp lý sẽ là ràng buộc để các DN tuân thủ trong quá trình hoạt động của
mình, từ đó thúc đẩy DN quan tâm hơn đến việc thực hiện CSR trong DN để kiểm
sốt và đảm bảo các hoạt động của mình là phù hợp và tuân thủ đầy đủ các quy
chuẩn đó.
1.1.3 Bản chất, vai trị và lợi ích trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Bản chất trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Bản chất CSR là một cam kết đơn phương của DN. Thông qua việc thực hiện
các trách nhiệm kinh tế, trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm từ
thiện, DN thực thi CSR. DN khi thiếu một trong các trách nhiệm này thì DN sẽ
khơng được xem là DN có trách nhiệm với xã hội, khơng thực hiện CSR.
Kim tự tháp CSR được thiết lập theo quan điểm của giáo sư Archie Carroll
công bố vào năm 1991, theo mơ hình Kim tự tháp này CSR có các loại trách nhiệm
nằm ở các tầng khác nhau và thứ tự ưu tiên thực hiện sẽ lần lượt từ dưới đáy lên
đỉnh. Kim tự tháp CSR được và trở thành công cụ được sử dụng rộng rãi.

11


Kim tự tháp mô tả một trật tự các trách nhiệm cùng nhau tạo nên CSR theo
lý thuyết của Caroll
Trách nhiệm kinh tế của DN là sản xuất, kinh doanh, tìm lợi nhuận. Đây là
trách nhiệm nền tảng, quan trọng nhất của DN và là cơ sở, khả năng để DN thực
hiện các trách nhiệm còn lại trên Kim tự tháp CSR.
Trách nhiệm pháp lý là DN phải thực hiện các quy định của pháp luật liên
quan đến hoạt động của DN. DN tuân thủ pháp luật là yêu cầu cơ bản nhất của
CSR, bên cạnh đó DN cịn phải tự nguyện thực thi các cam kết đơn phương của
mình mà luật pháp không quy định, không bắt buộc. DN thực hiện trách nhiệm pháp
lý hình sự, dân sự, hành chính và các trách nhiệm pháp lý khác.
Trách nhiệm đạo đức của DN là những hành vi, hoạt động của DN được xã

hội kỳ vọng, mong đợi, nó khơng phải là quy định pháp luật, không phải là nghĩa vụ
pháp lý của DN, nó có giá trị cao hơn mặc dù không phải là quy định bắt buộc.
trách nhiệm đạo đức chính là nền tảng của DN thực hiện nghĩa vụ pháp lý, DN thực
trách nhiệm vụ đạo đức là để DN có thể được xã hội tơn trọng và được chấp nhận.
Trong thực tế trách nhiệm đạo đức được hiểu đồng nghĩa với đạo đức kinh doanh,
cam kết của DN đối với xã hội.

12


Trách nhiệm từ thiện của DN bao gồm những hành vi, hoạt động của DN
mang tính hỗ trợ, nhân văn, từ thiện. Trách nhiệm từ thiện thể hiện mong muốn
cống hiến cho xã hội của DN. DN ngồi tìm kiếm lợi nhuận cịn có trách nhiệm
mang lại điều tốt đẹp, nhân văn cho xã hội.
Vai trò trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Vai trò của CSR gồm: Vai trò kinh tế, vai trò xã hội và điều chỉnh luật pháp.
Vai trị kinh tế của CSR
CSR góp phần điều chỉnh hành vi của DN khi thực hiện tốt trách nhiệm xã
hội, sẽ cải thiện tình hình tài chính, giảm chi phí hoạt động, nâng cao uy tín, quản lý
rủi ro và giải quyết khủng hoảng tốt hơn, thúc đẩy cam kết với NLĐ, quan hệ tốt
với cộng đồng, tăng năng suất…, tạo điều kiện cho DN tiếp cận, mở rộng với thị
trường thế giới, giúp nâng cao uy tín DN. CSR giúp DN tăng giá trị thương hiệu,
tăng doanh thu, thu hút các đối tác, nhà đầu tư.
CSR có mối liên hệ tích cực đến lãi đầu tư, tài sản và mức tăng doanh thu.
CSR sẽ tạo ra cơ sở thành công cho tất cả các hoạt động kinh doanh quan trọng của
tổ chức. CSR giúp các DN giảm thiểu chi phí sản xuất thơng qua các phương pháp
sản xuất an toàn, tiết kiệm, nguồn nhân lực ổn định. DN thành cơng nhất chính là
các DN nhận thấy được vai trị quan trọng của CSR và áp dụng vào thực tiễn sản
xuất, kinh doanh.
Vai trò xã hội của CSR

CSR cũng là cam kết đạo đức của giới kinh doanh về sự đóng góp cho sự
phát triển xã hội bằng cách nâng cao đời sống của lực lượng lao động, gia đình họ,
đồng thời nó mang lại các chính sách an sinh, phúc lợi, từ thiện cho cộng đồng, xã
hội, bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên, năng lượng, giúp xã hội
ổn định và phát triển bền vững.
Vai trò của CSR đến điều chỉnh pháp luật
Qua việc thực hiện CSR, chính sách CSR trở thành một nội dung quan trọng
để tham chiếu cho xây dựng, điều chỉnh chính sách pháp luật, dẫn đường, định
hướng cho các sửa đổi, bổ sung của pháp luật. Chính phủ thúc đẩy thực hiện CSR
tạo ra mơi trường pháp luật hồn chỉnh, một sân chơi bình đẳng cho các DN về:
Cung cấp thơng tin, tư vấn, hướng dẫn và ban hành các cơ chế, chính sách khuyến

13


khích, tạo điều kiện cho các DN thực hiện tốt hơn các yêu cầu của Bộ luật Lao
động, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư; Luật Bảo vệ mơi trường,...
Lợi ích trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
DN thực hiện CSR có được danh tiếng bên trong lẫn bên ngồi. Cả chính phủ
và DN đều cần đảm bảo tăng trưởng kinh tế trên cơ sở sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên để có thể đáp ứng nhu cầu của thế hệ hôm nay nhưng không gây hại cho
thế hệ sau. CSR khơng chỉ là đạo đức kinh doanh mà cịn là cam kết của mỗi cá
nhân, mỗi tổ chức nhằm góp phần cải thiện cộng đồng nơi họ sinh sống, hoạt động.
Tăng lợi nhuận, tính bền vững, mang lại lợi ích tài chính trực tiếp thông qua
cắt giảm chi phí năng lượng, năng lượng thay thế, nguyên vật liệu, nâng cao tính
hiệu quả của q trình sản xuất, chuỗi cung ứng, giảm thuế, duy trì năng suất và
tăng trưởng.
Xây dựng thương hiệu, danh tiếng, được khách hàng công nhận DN có trách
nhiệm đạo đức hay từ thiện với thơng điệp rằng bạn cam kết thực hiện trách nhiệm
với cộng đồng, với xã hội như đã hứa. Từ đó xây dựng sự tin tưởng cho khách hàng

về sản phẩm của mình, có lợi thế hơn đối thủ cạnh tranh, sẽ khẳng định thương hiệu
DN và gia tăng lợi nhuận.
Thu hút và giữ chân nhân tài. Thực hiện CSR sẽ tạo ấn tượng cho NLĐ là
một “nhà tuyển dụng được yêu thích”. Mọi người sẽ muốn làm việc cho DN khi
tham gia, họ sẽ cảm thấy tự hào, có mục đích, muốn được cống hiến, gắn bó và
muốn ở lại. Điều đó có nghĩa là DN có quyền lựa chọn những ứng viên tốt nhất cho
vị trí tuyển dụng.
1.1.4 Các khía cạnh trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Khía cạnh kinh tế
Khía cạnh kinh tế của DN trong thực hiện CSR là: Sản xuất hàng hóa, dịch
vụ mà xã hội cần, với một mức giá có thể duy trì tồn tại DN; làm thỏa mãn nghĩa vụ
của DN với các nhà đầu tư; tìm kiếm nguồn cung ứng lao động; phát hiện những
nguồn tài nguyên mới, thúc đẩy tiến bộ công nghệ, phát triển sản phẩm; phân phối
các nguồn sản xuất như hàng hoá và dịch vụ trong hệ thống xã hội với lợi ích kinh
tế cao nhất, đạt lợi nhuận cho DN cao nhất.

14


Khía cạnh kinh tế của DN đối với NLĐ là đảm bảo quyền con người về lao
động, được tự do, bình đẳng, cơng bằng trong việc tìm việc làm; nhận thù lao; cơ
hội việc làm, phát triển nghề; chuyên môn; mơi trường lao động an tồn, vệ sinh;
đảm bảo quyền con người tại nơi làm việc.
Đối với người tiêu dùng, trách nhiệm kinh tế của DN là cung cấp hàng hố
và dịch vụ, chất lượng, an tồn sản phẩm, định giá, thông tin về sản phẩm (quảng
cáo), phân phối, bán hàng và cạnh tranh đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng.
Khía cạnh pháp lý
Khía cạnh pháp lý CSR là DN phải thực hiện đầy đủ những quy định pháp
luật, chịu trách nhiệm pháp lý liên quan đến hoạt động của DN.
Ở khía cạnh này DN chịu trách nhiệm pháp lý gồm:

- Trách nhiệm pháp lý hình sự;
- Trách nhiệm pháp lý dân sự;
- Trách nhiệm pháp lý hành chính;
- Trách nhiệm pháp lý khác liên quan đến hoạt động của DN.
Khía cạnh đạo đức
Khía cạnh đạo đức CSR là những hành vi, hoạt động DN thực hiện cao hơn
quy định luật pháp. Thể hiện DN thực nhiện trách nhiệm đạo đức của DN trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh, cam kết chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ đối
với xã hội.
Khía cạnh đạo đức của một DN thường được thể hiện và DN cam kết thực
hiện trong: Triết lý kinh doanh; giá trị đạo đức; sứ mệnh và chiến lược của DN.
Khía cạnh từ thiện
Đây là những trách nhiệm điều chỉnh bằng lương tâm. Đối với khía cạnh này
là những hành vi, hoạt động thể hiện những mong muốn đóng góp, cống hiến cho
cộng đồng xã hội cụ thể trên những phương diện:
- Nâng cao chất lượng cuộc sống; tăng phúc lợi, đảm bảo an sinh;
- San sẻ gánh nặng, cứu trợ kịp thời,...
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và phát triển nhân cách NLĐ.
1.2 Nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

15


CSR là cam kết đơn phương của DN, là hoạt động tự nguyện có tầm nhìn về
phát triển bền vững cho DN và xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam hội
nhập kinh tế quốc tế, gia nhập các tổ chức thương mại quốc tế, nếu DN Việt Nam
khơng tn thủ trách nhiệm xã hội thì sẽ khơng thể tiếp cận được với thị trường thế
giới. Việt Nam gần đây đã sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động, Luật Bảo vệ mơi
trường, Bộ Luật Hình sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư,...nhằm có sự quy định
tương đối đồng bộ với tiêu chuẩn quốc tế về CSR.

Về cơ bản các quy định về CSR đã được tiếp thu và quy định cụ thể trong
từng lĩnh vực nhằm bảo đảm CSR được thực thi, gồm:
- Các quy định pháp luật bắt buộc phải tuân thủ liên quan đến CSR.
- Các cam kết đơn phương về trách nhiệm xã hội của DN thể hiện trong bộ
quy tắc ứng xử và tuân thủ các bộ tiêu chuẩn quốc tế về CSR.
Như vậy cho thấy nguồn của CSR bao gồm: Hệ thống pháp luật quốc gia; các
bộ tiêu chuẩn quốc tế về CSR (BTC); bộ quy tắc ứng xử (BQT) của DN.
1.2.1. Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp theo pháp luật quốc gia
DN thực hiện CSR trước hết là phải tuân thủ các quy định pháp luật liên
quan, tự nguyện thực hiện các cam kết đơn phương của DN. DN thực hiện CSR
trong một khuôn khổ thể hiện ở cụm từ “ được pháp luật qui định” trong phạm vi
quốc gia, địa phương có trụ sở DN hoạt động. Pháp luật mà DN tuân thủ bao gồm:
Văn bản luật, nghị định, thông tư, văn bản quy phạm pháp luật của địa phương nơi
DN có trụ sở. Vì thế nội dung về trách nhiệm của DN trong hệ thống pháp luật gồm:
- Nhóm Luật liên quan đến hoạt động của DN gồm: Luật Doanh nghiệp;
Luật Thuế; Luật Kế tốn; Luật Đầu tư,...
- Nhóm luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của DN trong lĩnh vực lao
động: Bộ Luật Lao động; Luật Bảo Hiểm xã hội; Luật An toàn vệ sinh lao động;
Luật Việc làm; Luật Học nghề;...
- Nhóm quyền và nghĩa vụ của DN đối với người tiêu dùng: Luật Cạnh tranh;
Luật Sở hữu trí tuệ; Luật Thương mại; Luật Bảo vệ mơi trường;...
- Nhóm khác quy định đối với từng lĩnh vực kinh doanh đặc thù của DN;
Bên cạnh đó pháp luật qui định trách nhiệm pháp lý của DN bao gồm:

16


- Trách nhiệm về dân sự;
- Trách nhiệm về hành chính;
- Trách nhiệm về hình sự;

- Trách nhiệm pháp lý khác theo pháp luật quy định.
Khi DN vi phạm, phải chịu trách nhiệm pháp lý bằng các chế tài do luật quy
định.
Thực tế pháp luật Việt Nam hiện hành đã tiếp thu, sửa đổi, bổ sung nhiều
CSR vào quy định pháp luật, cụ thể gần đây Việt Nam đã sửa đổi bổ sung nhiều đạo
luật: Bộ Luât Lao động, Luật bảo vệ mơi trường 2020, Bộ Luật Hình sự 2017, Bộ
Luật Dân sự 2015, Luật Doanh nghiệp 2020,... Quy định trực tiếp có nội dung quy
định tại Mục II Phụ lục VI ban hành kèm theo Nghị định 81/2015/NĐ-CP ngày 18
tháng 09 năm 2015 thì trách nhiệm xã hội của DN (có vốn nhà nước và vốn góp chi
phối) được thể hiện một cách cụ thể trên các yếu tố, các mặt, như:
- Bảo vệ mơi trường;
- Đóng góp cho cộng đồng xã hội;
- Thực hiện tốt trách nhiệm với nhà cung cấp;
- Bảo đảm lợi ích, an tồn cho người tiêu dùng;
- Quan hệ tốt với người lao động.
DN thực hiện CSR là các nội dung cam kết mà pháp luật khơng quy định, nó
là các cam kết đơn phương của DN, DN cam kết tuân thủ các BTC quốc tế, BQT
nội bộ.
1.2.2 Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế
Các bộ chỉ dẫn, BTC về CSR tuy không phải là quy định pháp luật quốc gia
nhưng lại có tính áp dụng và tn thủ tuyệt đối tại các DN, tập đồn, cơng ty hiện
nay tham gia sản xuất, kinh doanh, xuất hàng đến các quốc gia thành viên của
AFTA, CPTTP,... Tùy ngành nghề sản xuất, quốc gia, loại ngành hàng sản xuất, gia
công, loại hình, quy mơ, sản phẩm, dịch vụ cung cấp, u cầu kiểm tốn, cơng khai
thơng tin, u cầu của khách hàng mà DN áp dụng BTC, BQT khác nhau.
Các BTC quốc tế thường có nội dung mở và chi tiết, có lợi cho NLĐ hơn so
với quy định của pháp luật quốc gia, chủ yếu quy định về: Kinh tế; đạo đức; quyền

17



con người về lao động; quyền con người sống trong môi trường trong lành; bảo tồn,
bảo vệ môi trường; sử dụng nguyên tài nguyên thay thế; điều kiện làm việc; các quy
tắc ứng xử nơi làm việc; an sinh xã hội; không phân biệt, đối xử; các hành vi bị
nghiêm cấm…Các quy định này thực tế không phải là luật nhưng được DN tn thủ
như luật định.
Ngồi ra DN có thể thực hiện CSR của mình bằng cách đạt được các chứng
chỉ quốc tế do tuân thủ, áp dụng hiệu quả các quy định của BTC, BQT. Hiện nay có
khoảng hơn 100 bộ tiêu chuẩn về CSR. Dưới đây là một số BTC tiêu biểu, điển
hình, phổ biến mà các DN đang áp dụng tại Việt Nam.
-

Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) - Organization for

Economic Co-operation and Development. OCDE là một diễn đàn dành cho chính
phủ của các nền kinh tế thị trường phát triển nhất thế giới cùng nhau bàn bạc giải
quyết các vấn đề kinh tế của bản thân họ và của thế giới [11]. Tổ chức này có Bộ
chỉ dẫn về quản trị DN (xuất bản lần đầu vào năm 1976 và gần đây nhất được cập
nhật vào năm 1999, 2011, 2013) bao gồm có các khuyến nghị về CSR.
- Các cơng ước về lao động của Tổ chức lao động quốc tế -ILO International Labour Organization [12]. Đến nay Việt Nam đã phê chuẩn 25 công
ước của ILO bao gồm 7/8 (Công ước số: 29, 98, 100, 105,111, 138,182) Công ước
cơ bản về lao động của ILO và theo lộ trình đàm phán của Chính phủ Việt Nam sẽ
phê chuẩn cơng ước thứ 87 vào năm 2023.
- Hướng dẫn GRI G4 [13] là Bộ tiêu chuẩn báo cáo phát triển bền vững hợp
nhất GRI 2016 của Tổ chức Sáng kiến báo cáo tồn cầu (GRI - Global Reorting
Initiative) gồm các tiêu chí: Kinh tế; mơi trường và tiêu chí xã hội.
+ Tiêu chí về kinh tế: Hiệu quả hoạt động kinh tế; sự hiện diện trên thị
trường; tác động gián tiếp, thông lệ mua sắm, chống tham nhũng, hành vi cản trở
cạnh tranh.
+ Tiêu chí về mơi trường: Vật liệu; năng lượng; nước; đa dạng sinh học;

chất thải; nước thải; khí thải; đánh giá của nhà cung cấp về vấn đề môi trường; tuân
thủ về môi trường.

18


+ Tiêu chí xã hội gồm: Việc làm; mối quan hệ quân hệ quản trị, lao động; đa
dạng và cơ hội bình đẳng; khơng phân biệt đối xử; tự do lập hội và thương lượng
tập thể; thông lệ về an ninh; quyền của người bản địa; đánh giá về Quyền con
người; cộng đồng địa phương; đánh giá nhà cung cấp về mặt xã hội; chính sách
cơng; an tồn và sức khỏe của khách hàng; tiếp thị và nhãn hàng; quyền bảo mật
thông tin khách hàng; đối xử với NLĐ; việc làm bền vững; trách nhiệm đối với sản
phẩm...
Hiện nay còn có hơn 100 Bộ tiêu chuẩn về CSR, có thể kế đến các bộ tiêu
chuẩn điển hình được DN áp dụng tuân thủ nhiều nhất gồm: ISO 14000 về môi
trường, ISO 22000, ISO 9001, ISO 45001 về an toàn thực phẩm, chế biến thủy sản
... Các bộ tiêu chuẩn về CSR áp dụng chung cho mọi loại hình DN như: ISO 9000,
ISO 26000, hoặc các quy định chung về hướng dẫn thực hành CSR như: SA 8000,
BSCI,

ISO

2600,

ETI,

ECOVADIS,

C-TPAT,


WRAP,

EICC-RBA,

FAIRTRADE...
1.2.3 Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo bộ quy tắc ứng xử của
doanh nghiệp
Bên cạnh các BTC về CSR thì cịn có các BQT được nhiều DN áp dụng,
tuân thủ. BQT là những cam kết tự nguyện của DN. Một DN muốn kiến tạo, duy
trì, quản trị văn hóa ứng xử nơi cơng cộng có hiệu quả và bền vững thì nhất định
phải có quy định hệ thống, có hiệu lực cao, được NLĐ chấp nhận một cách tự giác.
BQT thường chứa đựng chi tiết các nội dung như một luật nội bộ của DN, nội dung
gồm: Quan hệ lao động, môi trường; bảo vệ người tiêu dùng, đối với khách hàng;
đảm bảo tuân thủ pháp luật; văn hóa nội bộ; chế độ đãi ngộ nhân viên; đảm bảo
tiêu chuẩn xã hội; hành vi đúng đạo đức; chống tham nhũng; sản phẩm của DN,...
BQT là các tuyên bố về chính sách hành động, tiêu chuẩn đạo đức mà DN
cam kết thực hiện. BQT thường được xây dựng thành các bộ quy chế áp dụng trong
phạm vi nội bộ DN hoặc cũng có thể là các điều khoản được quy định lồng ghép
vào các hợp đồng của DN khi tham gia thị trường, ràng buộc đối tác của mình thực
hiện.

19


Tùy vào loại hình DN sản xuất, lĩnh vực kinh doanh, cung cấp dịch vụ, yêu
cầu của đối tác, ... mà DN tuân thủ các BQT điển hình cho từng lĩnh vực.
Các BQT điển hình về CSR phổ biến được nhiều DN áp dụng và tuân thủ hiện nay
như: BQT MANGO (quy định về xã hội, lao động, môi trường cho DN may của
tập đoàn Mango; BQT H&M; BQT PRIMARK 2019, MSC CoC,... cùng nhiều
BQT nội bộ khác của DN ban hành hoặc từ khách hàng yêu cầu xây dựng và yêu

cầu DN tuân thủ, Bên hữu quan thực hiện giám sát.
Đặc điểm chung nhất của các Bộ Tiêu chuẩn, BQT về CSR này thường bao
gồm các nội dung chi tiết: Lao động trẻ em, không thuê mướn lao động trẻ em; lao
động cưỡng bức, sức khỏe; an toàn - vệ sinh lao động; tự do lập hội và thương
lượng tập thể; phân biệt đối xử; thực hành kỷ luật lao động; giờ làm và tiền cơng;
nhân quyền; chính sách lao động, luật pháp và quy tắc nơi làm việc; mơi trường;
chính sách cạnh tranh lành mạnh; các vấn đề về người tiêu dùng; sự tham gia phát
triển cộng đồng; ngăn cấm quấy rối tình dục và ngược đãi; bồi thường và phúc lợi;
thực hiện đúng quy định về thuế quan.
BQT là các cam kết đơn phương của DN có tính áp dụng, tuân thủ cao
nhưng lại hạn chế về giá trị pháp lý, vì các lý do sau:
- BQT có giá trị như là bộ cẩm nang hướng dẫn nội bộ, luật lệ, cam kết áp
dụng, tuân thủ trong phạm vi nội bộ của DN.
- BQT là một tuyên bố đơn phương của DN đến xã hội, đến cộng đồng, đối
tác, khách hành các giá trị của mình. Khi DN thực hiện tốt BQT sẽ nhận được các
hiệu quả tích cực từ xã hội như: Nâng cao hình ảnh, giá trị thương hiệu của DN; đề
cao giá trị tư cách DN của mình; trở thành cơng cụ tiếp thị hiệu quả khi giá trị của
DN đến với người tiêu dùng, xã hội; giảm thiểu rủi ro tài chính gắn liền với các
khoản phạt hành chính hoặc chi phí tố tụng khi DN vơ tình vi phạm. Khi DN thực
hiện các cam kết đơn phương trong BQT có chứa đựng các quy định về đạo đức là
đã thực hiện CSR. Nó mang tính tự giác thực hiện của DN, chưa có cơ chế giám sát
việc thực hiện hay các quy định chế tài nếu không thực hiện.
1.3. Phát triển bền vững và cách tiếp cận trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp

20


Chúng ta đang ở năm đầu Thập kỷ thứ ba của Thế kỷ 21, chưa bao giờ
tương lai phát triển kinh tế thế giới lại phụ thuộc nhiều vào những gì mà DN đang

làm ngày hơm nay. CSR gắn bó chặt chẽ với nguyên tắc phát triển bền vững, DN
đưa ra quyết định không chỉ dựa trên các yếu tố tài chính như lợi nhuận hay cổ tức
mà cịn dựa trên hệ quả xã hội, môi trường trước mắt và lâu dài. CSR có vai trị
quan trọng trong việc kiểm sốt các nguy cơ phát triển ngồi tầm dự báo, đáp ứng
nhu cầu của thế hệ hiện tại, đồng thời đảm bảo rằng các nguồn lực của các thế hệ
tương lai khơng bị đe dọa.
CSR ngày càng đóng vai trị quan trọng trong việc phát triển bền vững của
DN đảm bảo tính hiệu quả, tuân thủ pháp luật và thực hiện đạo dức kinh doanh ở
các nền kinh tế khác nhau. Ở Việt Nam, mục tiêu phát triển bền vững ngày càng
nhận được sự quan tâm đặc biệt, trở thành yêu cầu cấp thiết của DN và xã hội.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 - 2020 được thơng qua
tại Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XII [14] với quan điểm phát triển bền vững.
Trách nhiệm xã hội của DN Việt Nam hiện nay cần hướng về những mục đích
phát triển bền vững này của đất nước.
Chính phủ và DN đều cần đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững trên cơ sở
sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên để có thể đáp ứng nhu cầu của thế hệ hôm
nay nhưng không gây hại cho thế hệ mai sau. Trong xu hướng toàn cầu hóa, phát
triển bền vững khơng chỉ là phát triển kinh tế mà còn là vừa phát triển vừa giải
quyết các vấn đề xã hội và mơi trường. Nên có thể nói DN phát triển bền vững là
cách tiếp cận CSR, thông qua thực hiện CSR hiệu quả giúp DN phát triển bền
vững. Vì DN hoạt động, phát triển khơng thể tách rời mơi trường, có sự tương
quan tỷ lệ thuận trong phát triển bền vững của DN và hiệu quả của hoạt động bảo
tồn, sử dụng hợp lý nguồn tài ngun, bảo vệ mơi trường, đối xử tốt, có chế độ
chăm lo đời sống NLĐ,...
Các tập đoàn đa quốc gia (multi-national corporation) hay các DN có
thương hiệu mạnh đều áp dụng một cách có hệ thống BTC, BQT về CSR và coi đó
như một sự cam kết của DN đối với cộng đồng, với người tiêu dùng. DN tuân thủ
thực hiện CSR để trở thành một hình mẫu kinh doanh lí tưởng để đảm bảo trở

21



thành một hệ thống có sức cạnh tranh cao, phát triển bền vững. DN phát triển bền
vững để tiếp cận CSR hay DN thực hiện SCR để phát triển bền vững đều là tất
yếu.
Đối với DN vừa, nhỏ và siêu nhỏ muốn phát triển bền vững có cơ hội tiếp
cận CSR, có thể thực hiện được các bộ tiêu chuẩn, BQT là rất khó. Vậy những DN
nhỏ, vừa, siêu nhỏ có nên thực hiện CSR? Câu trả lời là nên! Bởi những DN
khơng tn thủ CSR sẽ có thể kém cạnh tranh trong tiếp cận thị trường quốc tế
nhất là các thị trường phát triển.Thực hiện CSR về trung hạn và dài hạn sẽ đạt
được những lợi ích: Giảm chi phí, tăng doanh thu, tăng giá trị thương hiệu, giảm tỷ
lệ nhân viên thôi việc, tăng năng suất, thêm cơ hội tiếp cận những thị trường mới,
tạo dựng hình ảnh với khách hàng, sự gắn bó, hài lịng của NLĐ, thu hút lao động
có chun mơn cao.
Trong q phát triển bền vững đó, CSR sẽ tập trung vào 2 xu hướng:
- Doanh nghiệp cần thông qua sản phẩm, dịch vụ của mình tạo ra những xu
thế, hành vi và phong cách sống bền vững trong xã hội
- Đổi mới, sáng tạo trong q trình thích nghi với mơi trường kinh doanh.
Thay đổi, sáng tạo sẽ tạo ra những nguồn lực dồi dào và bền vững cho DN.
Trong quá trình phát triển bền vững tiếp cận CSR đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn
của Chính phủ, của các tổ chức xã hội, người tiêu dùng, của các nhà khoa học và
đặc biệt là sự đóng góp của cộng đồng DN trong và ngồi nước. Nhận thức rõ vấn
đề này Phịng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã thành lập Hội đồng
Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam. Một trong những nội dung cơ
bản của Hội đồng là phát triển bền vững thông qua việc thực hiện CSR.
1.3.1 Tiếp cận quyền con người về lao động
Quyền lao động là một trong những quyền cơ bản của con người. Việc đảm
bảo quyền lao động cho công dân là một tiêu chí đánh giá sự tiến bộ của chế độ xã
hội.
Trong pháp luật quốc tế về quyền con người có hai Công ước chủ chốt:

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) và Cơng ước về
quyền kinh tế, xã hội văn hóa (ICESCR) [15] chứa đựng những nội dung cơ bản,

22


×