BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÀI TẬP HỌC KỲ
MƠN: Luật Thương mại quốc tế
ĐỀ BÀI: 05
Chỉ ra các tiêu chí để phân biệt một biện pháp tác động
thương mại thuộc phạm vi áp dụng của Hiệp định TBT
hay SPS của WTO. Lấy ví dụ về các tranh chấp cụ thể của
WTO để làm rõ sự khác biệt đó
HỌ VÀ TÊN
MSSV
L ỚP
NHĨM
: Hà Thị Hồi Linh
: 432201
: N06 – TL3
: 01
Hà Nội, 2021
MỤC LỤC
MỤC LỤC
.......................................................................................................................................................................................
3
MỞ ĐẦU
.........................................................................................................................................................................................
4
MỞ ĐẦU
Việc phân biệt khi nào một biện pháp là TBT hay SPS là rất quan trọng đối với doanh
nghiệp vì mỗi loại biện pháp sẽ chịu sự điều chỉnh của các ngun tắc và quy định riêng
của WTO. Để phục vụ u cầu trên, em xin chọn đề tài số 05: “Chỉ ra các tiêu chí để phân
biệt một biện pháp tác động thương mại thuộc phạm vi áp dụng của Hiệp định TBT hay
SPS của WTO. Lấy ví dụ về các tranh chấp cụ thể của WTO để làm rõ sự khác biệt đó.”
NỘI DUNG
1. Khái qt về Hiệp định TBT và Hiệp định SPS của WTO
Hiệp định TBT và Hiệp định SPS của WTO là hai hiệp định quy định về những quy tắc
về rào cản kỹ thuật trong WTO. Hiệp định TBT điều chỉnh về các rào cản kĩ thuật đối với
thương mại nói chung cịn Hiệp định SPS điều chỉnh về một loại rào cản riêng biệt, đó là
các biện pháp kiểm dịch động thực vật. Hai hiệp định này, bản thân nó khơng cấm việc áp
dụng các rào cản kĩ thuật đối với thương mại. Thay vào đó, chúng đặt ra các điều kiện cho
việc áp dụng các rào cản đó.1 Tuy nhiên vì cả 2 Hiệp định TBT và SPS đều nhằm mục đích
ngăn chặn các rào cản thương mại khơng cơng bằng nên đơi khi một sản phẩm nhập khẩu
có thể áp dụng cả quy định kỹ thuật theo điều Hiệp định TBT lẫn biện pháp vệ sinh dịch
tễ theo Hiệp định SPS, để phân biện được hai loại biện pháp tác động thương mại này,
cần xem xét các tiêu chí riêng, xuất phát từ mục đích và tính chất của biện pháp. Các biện
pháp SPS hướng tới mục tiêu cụ thể là bảo vệ cuộc sống, sức khỏe con người, vật ni,
động vật thơng qua việc đảm bảo vệ sinh thực phẩm và ngăn chặn dịch bệnh (Điều 1 –
phụ lục A Hiệp định SPS). Trong khi các biện pháp TBT hướng tới nhiều mục tiêu chính
sách khác nhau (các u cầu về an ninh quốc gia; ngăn ngừa các hành vi lừa đảo; bảo vệ
sức khoẻ và sự an tồn cho con người, cuộc sống và sức khoẻ cho độngthực vật; bảo vệ
mơi trường).2
2. Các tiêu chí để phân biệt một biện pháp tác động thương mại thuộc phạm vi
áp dụng của Hiệp định TBT hay Hiệp định SPS của WTO
2.1. Về đối tượng áp dụng
Phạm vi áp dụng của các biện pháp TBT rộng hơn các biện pháp SPS. Hiệp định SPS áp
dụng trên cơ sở tất cả các biện pháp mà mỗi nước thành viên WTO sử dụng để bảo vệ đời
sống hay sức khỏe con người và động thực vật trong lãnh thổ của nước mình khỏi các rủi
ro, bao gồm: nguồn gốc các rủi ro tới đời sống hay sức khỏe động vật: sự xâm nhập, hình
thành hay lan truyền của sâu hại (gồm cả cỏ dại), bệnh hại, sinh vật truyền bệnh hoặc gây
1
Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Thương mại quốc tế song ngữ, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
Để thực hiện được mục tiêu của mình, Hiệp định SPS đưa ra các quy tắc cơ bản về tiêu chuẩn an tồn thực phẩm và sức khỏe động,
thực vật và cho phép các quốc gia tự thiết lập tiêu chuẩn riêng của mình. Hiệp định TBT quy định các quy tắc về xây dựng, chấp nhận và
áp dụng 03 loại biện pháp kỹ thuật gồm các quy định kỹ thuật (những u cầu kỹ thuật có giá trị áp dụng bắt buộc), tiêu chuẩn kỹ thuật
(các u cầu kỹ thuật được một tổ chức được cơng nhận chấp thuận nhưng khơng có giá trị áp dụng bắt buộc) và quy trình đánh giá sự phù
hợp.
2
bệnh; cũng như các chất phụ gia, chất gây ơ nhiễm (gồm dư lượng thuốc trừ sâu, thuốc thú
y và chất ngoại dư), các độc tố, hay sinh vật gây bệnh trong thức ăn chăn ni; nguồn gốc
các rủi ro tới đời sống hay sức khoẻ thực vật: sự xâm nhập, hình thành hay lan truyền của
sâu hại (gồm cả cỏ dại), bệnh hại, sinh vật truyền bệnh ho ặc gây bệnh; nguồn gốc của
các rủi ro tới đời sống và sức khỏe con người bắt nguồn từ các chất phụ gia, chất gây ơ
nhiễm, độc tố hay sinh vật gây bệnh trong thức ăn hay đồ uống; các bệnh lan truyền qua
động vật, thực vật hoặc các sản phẩm của chúng; hoặc sự xâm nhập, hình thành hay lan
truyền của sâu hại.
Các biện pháp TBT có thể bao gồm bất kỳ nội dung nào, từ an tồn xe hơi đến các thiết
bị tiết kiệm năng lượng, đến hình dạng của hộp thực phẩm, áp dụng cho tất cả các sản
phẩm3, nơng nghiệp và cơng nghiệp.4 Liên quan đến sức khỏe con người, các biện pháp
TBT có thể bao gồm các hạn chế về dược phẩm hoặc ghi nhãn thuốc lá. Hầu hết các biện
pháp liên quan đến kiểm sốt dịch bệnh ở người đều tn theo Hiệp định TBT, trừ khi các
biện pháp đó liên quan đến các bệnh lây truyền từ thực vật hoặc động vật (chẳng hạn như
bệnh dại). Về thực phẩm, các u cầu về nhãn mác, cơng bố và các mối quan tâm về dinh
dưỡng, các quy định về chất lượng và đóng gói thường khơng được coi là các biện pháp vệ
sinh hoặc kiểm dịch động thực vật và do đó thường phải tn theo Hiệp định TBT. Mặt
khác, các quy định về vi sinh vật có hại trong thực phẩm, hoặc đặt mức dư lượng thuốc trừ
sâu hoặc thuốc thú y cho phép, hoặc xác định các chất phụ gia thực phẩm được phép, thuộc
Hiệp định SPS. Một số u cầu về đóng gói và ghi nhãn, nếu liên quan trực tiếp đến sự an
tồn của thực phẩm, cũng phải tn theo Hiệp định SPS.5
2.2. Về cách thức áp dụng
2.2.1. Bằng chứng khoa học
Trong Hiệp định TBT, việc sử dụng bằng chứng khoa học sẽ phụ thuộc vào mục tiêu
mà các quy định kỹ thuật được thơng qua, các biện pháp TBT có thể được áp dụng và duy
trì khơng dựa vào bằng chứng khoa học như các biện pháp nhằm bảo vệ người tiêu dùng
chống lại các hành vi lừa đảo hoặc trường hợp an ninh quốc gia. Trong khi theo Hiệp định
SPS, các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật phải đáp ứng đủ các u
cầu về bằng chứng khoa học, khơng được phép tồn tại '‘khơng có đầy đủ các bằng chứng
khoa học” (Điều 2.2 SPS), trừ trường hợp áp dụng biện pháp tạm thời.
2.2.2. Áp dụng ngun tắc MFN
Hiệp định TBT quy định các quy định kỹ thuật áp dụng cho sản phẩm phải được áp
dụng trên cơ sở MFN đối với hàng hóa nhập khẩu từ tất cả các nguồn (Điều 2.1 TBT). Đối
với Hiệp định SPS, các biện pháp có mục đích ngăn ngừa việc xâm nhập của các loại dịch
3
Michael Blakeney, “SPS and TBT Agreements”.
Tuy nhiên, các quy định của Hiệp định TBT khơng áp dụng cho các biện pháp kiểm dịch độngthực vật.
5
WTO, "The WTO Agreements Series: Sanitary and Phytosanitary Measures",
/>4
và sâu bệnh gây ra bởi động thực vật vào các nước Thành viên sẽ được phép khơng áp
dụng ngun tắc MFN. Các biện pháp SPS nhằm đảm bảo an tồn thực phẩm phải được áp
dụng trên cơ sở MFN.
2.2.3. Tn theo các tiêu chuẩn quốc tế
Trong Hiệp định SPS, việc sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế là bắt buộc, chỉ trừ trường
hợp lựa chọn một biện pháp khác có mức độ bảo vệ cao hơn được chứng minh một cách
khoa học và dựa trên đánh giá rủi ro có thể xảy ra, lý do duy nhất cho việc khơng sử dụng
các tiêu chuẩn như vậy về an tồn thực phẩm và bảo vệ sức khỏe động vật/thực vật là các
luận cứ khoa học xuất phát từ việc đánh giá các rủi ro sức khỏe tiềm ẩn (Điều 3.3 SPS).
Điều này khác biệt với biện pháp TBT khi các thành viên có thể đặt ra các biện pháp TBT
sai lệch so với các tiêu chuẩn quốc tế vì các lý do như cách thức tiêu chuẩn quốc tế khơng
hiệu quả hoặc khơng phù hợp cho việc thực hiện các mục tiêu hợp pháp của mình (Điều
2.4 TBT).
2.2.4. Các biện pháp tạm thời
Hiệp định SPS cho phép các nước áp dụng các biện pháp SPS trên cơ sở tạm thời như
một biện pháp đề phịng khi có lan truyền dịch bệnh nhưng khơng có đủ bằng chứng khoa
học (Điều 5.7 SPS). Hiệp định TBT khơng có bất kỳ điều khoản nào về biện pháp tạm
thời.
3. Phân tích các tranh chấp cụ thể của WTO để làm rõ sự khác biệt giữa biện
pháp tác động thương mại thuộc phạm vi áp dụng của Hiệp định TBT với biện pháp
tác động thuộc phạm vi áp dụng của Hiệp định SPS
3.1. Khái qt về các vụ tranh chấp
* Vụ tranh chấp “Cá ngừ Cá heo” giữa Mexico và Hoa Kỳ6
Đây là vụ tranh chấp liên quan đến biện pháp dãn nhãn của Hoa Kỳ đối với sản phẩm
cá ngừ nhập khẩu của Mexico. Cơ quan GQTC của WTO đã giải quyết vụ kiện như sau7:
Về việc xác định biện pháp dán nhãn “An tồn cho cá heo” lên sản phẩm cá ngừ có
phải là “quy định kỹ thuật”: ban hội thẩm cho rằng biện pháp của Hoa Kỳ là các quy định
kỹ thuật theo Hiệp định TBT vì các quy định này chỉ định và áp đặt các điều kiện mà một
6
Tóm tắt vụ tranh chấp: Năm 1999, Mexico và Hoa Kỳ đã ký hiệp định về chương trình Bảo tồn Cá heo Quốc tế (AIDCP) nhằm mục
đích cung cấp một chương trình bảo vệ cá heo trong vùng biển Đơng Thái Bình Dương và hướng dẫn được dán nhãn đối với các sản phẩm
cá ngừ được đánh bắt ở vùng biển này. Tiêu chuẩn kỹ thuật của Hiệp định AIDCP khơng chặt chẽ bằng tiêu chuẩn của DPCIA – cụ thể,
hiệp định AIDCP chỉ u cầu việc chứng minh yếu tố “khơng có tác động tiêu cực đáng kể”. Về vấn đề này, năm 2002 Bộ Thương Mại
Hoa Kỳ đã khuyến nghị tiêu chuẩn “khơng có tác động tiêu cực đáng kể” là đủ để đáp ứng các mục tiêu của Hoa Kỳ trong việc bảo vệ mơi
trường sống của cá heo. Tuy nhiên tịa liên bang khu vực 9 của Hoa đã bác các khuyến nghị của bộ thương mại Hoa Kỳ. Vì vậy, kể từ năm
2009 Hoa Kỳ đã khơng áp dụng các tiêu chuẩn dán nhãn theo quy định tại AIDCP. Thay vào đó, nước này áp dụng các tiêu chuẩn cụ thể hơn
của DPCIA. Các doanh nghiệp làm đồ hộp và các nhà phân phối Hoa Kỳ đã chuyển sang mua các sản phẩm có dán nhãn “An tồn cho cá
heo”, qua đó hồn tồn ngăn cản khả năng tiếp cận thị trường Hoa Kỳ của sản phẩm cá ngữ Mexico. Mexico sau đó đã khiếu nại các biện
pháp của Hoa Kỳ bao gồm: (i) nội dung của DPCIA, (ii) việc áp dung các quy định của DPCIA trong quy trình dán nhãn; (iii) quyết định của
Tịa liên bang Hoa Kỳ về hủy bỏ quyết định của Bộ Thương mại Hoa Kỳ.
7
Trần Việt Dũng, Nguyễn Thị Lan Hương , “Vấn đề bảo vệ mơt trường và hiệp định TBT trong khn khổ WTO qua vụ tranh chấp
Hoa Kỳ cá ngừ II” , tạp chí Khoa học pháp lý (3/2013), tr. 63 72.
sản phẩm có thể được dãn nhãn an tồn với cá heo và các quy định này cấm việc ghi nhãn
có thơng tin về cá heo nếu các điều kiện được quy định khơng được đáp ứng;
Về việc xác định sự phân biệt đối xử trong biện pháp dán nhãn: cơ quan phúc phẩm
cho rằng Hoa Kỳ đã áp dụng biện pháp trên một cách khơng cơng bằng khi chỉ áp dụng các
quy định dán nhãn “An tồn cho cá heo” khắt khe với sản phẩm cá ngừ đánh bắt tại vùng
ETP, nhưng rất lỏng lẻo với quy định dán nhãn sản phẩm cá ngừ được đánh bắt ngồi khu
vực này, cho thấy rằng quy định dán nhãn đã tạo ra sự phân biệt đối xử đối với sản phẩm
cá ngừ Mexico và trái với quy định tại Điều 2.1 Hiệp định TBT;
Về việc xác định biện pháp dán nhãn của Hoa Kỳ có tn thủ tiêu chuẩn quốc tế: Ban
hội thẩm cho rằng tiêu chuẩn kỹ thuật quy định tại AIDCP là tiêu chuẩn quốc tế, Hoa Kỳ
đã khơng sử dụng tiêu chuẩn quốc tế có liên quan làm cơ sở cho quy định dãn nhãn của
mình. Tuy nhiên, tiêu chuẩn của Hoa Kỳ bảo vệ cá heo trong vùng biển ETP tốt hơn tiêu
chuẩn của AIDCP do đó nó được xem là hiệu quả hơn để đạt được mục tiêu mà Hoa Kỳ
theo đuổi. Lập luận của Ban hội thẩm đã bị bác bỏ bởi Cơ quan phúc thẩm vì Cơ quan
phúc thẩm cho rằng AIDCP khơng phải là tiêu chuẩn quốc tế vì khơng đáp ứng các điề
kiện tại Mục 4 Phụ lục 1, Hiệp định TBT và Quyết định của Ủy ban TBT.
* Vụ tranh chấp giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ về xuất khẩu táo8
Đây là vụ tranh chấp liên quan đến việc cấm nhập khẩu táo từ các vườn có xuất hiện
hiện tượng bạc cháy lá dưới hình thức áp dụng các biện pháp kiểm dịch thực phẩm, u
cầu các vườn xuất khẩu phải được kiểm tra 3 lần 1 năm để phát hiện bệnh và các vườn
khơng đáp ứng u cầu phải được phát hiện trong vịng 500 mét khu vực xung quanh vườn
của Nhật Bản, CQGQTC đã đưa ra những kết luận sau9:
Nhật Bản bằng cách duy trì các biện pháp kiểm dịch thực vật đối với táo nhập khẩu
từ Hoa Kỳ đã vi phạm Điều 2.2 của Hiệp định SPS là khơng duy trì các biện pháp kiểm
dịch thực vật "mà khơng có đủ bằng chứng khoa học". Nhật Bản đã khơng có bằng chứng
cho thấy táo xuất khẩu từ Hoa Kỳ có triệu chứng truyền bệnh bạc lá cháy đến Nhật Bản.
Ngược lại, các bằng chứng khoa học của Hoa Kỳ cho thấy một khi đã trưởng thành, táo
khơng có triệu chứng lây truyền bệnh. Do đó, khơng có bằng chứng để Nhật Bản duy trì
việc kiểm dịch.
8
Tóm tắt vụ tranh chấp: Kể từ năm 1994, Nhật Bản đã áp dụng các hạn chế về kiểm dịch táo nhập khẩu từ Hoa Kỳ vào Nhật Bản
để ngăn ngừa bệnh bạc lá cháy. Bất chấp các cuộc đàm phán song phương với các nhà khoa học của Bộ Nơng Nghiệp Hoa Kỳ (USDA) vào
tháng 10 năm 2001, Nhật Bản đã từ chối thay đổi hạn chế nhập khẩu táo từ Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã cố gắng tìm một giải pháp mang tính khoa
học để giải quyết vấn đề này. Khơng may, Nhật Bản từ chối thay đổi sự hạn chế nhập khẩu, bất chấp các bằng chứng khoa học về sự an
tồn của táo nhập khẩu từ Hoa Kỳ. Việc Nhật Bản áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu táo từ Hoa Kỳ làm cho doanh thu từ táo xuất
khẩu sang Nhật Bản suy giảm. Ngày 01/03/2002, Hoa Kỳ gửi đơn u cầu tham vấn với Nhật Bản về việc Nhật Bản áp dụng các biện
pháp hạn chế táo nhập khẩu từ Hoa Kỳ. Trong đó, Hoa Kỳ cáo buộc các biện pháp của Nhật Bản là khơng phù hợp với Điều 2.2, 2.3, 5.1,
5.2, 5.3, 5.6, 6.1, 6.2 và 7 và Phụ lục B của Hiệp định SPS.
9
Ngơ Thị Minh Phương (2015), “Nghiên cứu việc áp dụng Hiệp định SPS vào giải quyết tranh chấp liên quan đến vụ SD245 giữa
Nhật Bản và Hoa Kỳ và bài học rúi ra cho Việt Nam”, Khóa luận tốt nghiệp chun ngành: Thương mại quốc tế, Trường Đại học Ngoại
Thương.
Những biện pháp kiểm dịch thực vật của Nhật Bản cũng khơng phải là những biện
pháp tạm thời hợp lý vì các biện pháp này kèm theo nhiều hơn điều kiện cần thiết để duy
trì mức độ an tồn của Nhật Bản.10 (theo Điều 5.7 của Hiệp định SPS)
Các biện pháp kiểm dịch thực vật khơng phải là dựa trên đánh giá rủi ro trong ý nghĩa
của Điều 5.1 của Hiệp định SPS. Phân tích nguy cơ dịch hại cây trồng năm 1999 của Nhật
Bản khơng đưa ra bất kỳ bằng chứng hay phân tích nào về khả năng dịch bạc lá cháy có
thể truyền qua táo. Theo đó, phân tích này chỉ kết luận “Khơng thể phủ nhận rằng bệnh
bạc lá có thể truyền qua táo tươi”. Vì vậy khơng có nền tảng khoa học cho thấy táo nhập
khẩu từ Hoa Kỳ có nguy cơ rủi ro. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu nguy cơ do cơn trùng gây
ra của Nhật Bản khơng xác định được hiệu quả của các biện pháp SPS áp dụng trong việc
giảm thiểu mối nguy dịch bệnh.11
3.2. Kết luận rút ra từ các vụ tranh chấp
Qua từng vụ tranh chấp riêng biệt về việc áp dụng biện pháp SPS và TBT, có thể thấy
hai loại biện pháp này có những khác biệt như sau:
Thứ nhất, về phạm vi áp dụng, từ hai vụ tranh chấp trên đã cho thấy phạm vi áp dụng
của biện pháp TBT và SPS có sự khác biệt, nếu trong vụ tranh chấp “Cá ngừ cá heo”,
biện pháp dán nhãn của Hoa Kỳ nhằm mục đích bảo vệ cuộc sống và sức khỏe của cá heo
và rộng hơn là bảo vệ mơi trường, hệ sinh thái. Trong khi các biện pháp của Nhật Bản
trong vụ tranh chấp xuất khẩu táo hướng tới việc ngăn chặn dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe
con người từ những nguy cơ qua đường thực phẩm.
Thứ hai, về việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế, trong vụ tranh chấp “Cá ngừ cá heo”,
mặc dù Hoa Kỳ đã khơng tn theo tiêu chuẩn quốc tế làm cơ sở cho quy định dán nhãn của
mình theo lập luận của Ban hội thẩm 12 nhưng quy định dãn nhãn của Hoa Kỳ vẫn khơng bị
cho là vi phạm Hiệp định TBT vì tiêu chuẩn của Hoa Kỳ bảo vệ cá heo trong vùng biển
ETP tốt hơn tiêu chuẩn của AIDCP do đó nó được xem là hiệu quả hơn để đạt được mục
tiêu mà Hoa Kỳ theo đuổi. Điều này có sự khác biệt rõ ràng với việc áp dụng biện pháp
SPS trong vụ tranh chấp về xuất khẩu táo giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ, việc khơng tn theo
tiêu chuẩn quốc tế của Nhật Bản bị coi là vi phạm Hiệp định SPS vì Nhật Bản khơng đưa
ra được cơ sở khoa học xác đáng về việc tiêu chuẩn của Nhật Bản cao hơn tiêu chuẩn
quốc tế.
Thứ ba, về việc áp dụng dựa trên bằng chứng khoa học, một biện pháp SPS chỉ được
áp dụng nếu đáp ứng đủ các u cầu về bằng chứng khoa học hợp lý và khách quan, trong
vụ tranh chấp về xuất khẩu táo giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ, các biện pháp hạn chế đối với
táo nhập khẩu từ Hoa Kỳ của Nhật Bản đều bị coi là vi phạm Hiệp định SPS vì khơng có
10
Các biện pháp thay thế của Nhật Bản bao gồm: chỉ nhập khẩu những trái táo chín khơng có dấu hiệu bệnh từ Washington hoặc
Oregon, quả khơng có triệu chứng phải được thu hoạch cách một cây bị bệnh 10 mét và phải được xử lý bằng chlorine.
11
Theo Cơ quan phúc thẩm, một đợt đánh giá rủi ro mà chỉ ra “các biện pháp mà khơng đánh giá hay lường trước đầy đủ hiệu quả của
họ trong việc giảm thiểu nguy cơ dịch hại” thì khơng “đạt đượt u cầu thứ ba” cho một đợt đánh giá rủi ro.
12
Lập luận của Cơ quan phúc thẩm cho thấy tiêu chuẩn của AIDCP khơng được coi là tiêu chuẩn quốc tế.
đủ bằng chứng khoa học cho thấy t áo xuất khẩu từ Hoa Kỳ có triệu chứng truyền bệnh
bạc lá cháy đến Nhật Bản. Vấn đề về bằng chứng khoa học liên quan đến Hiệp định SPS
ln ln là vấn đề phức tạp, địi hỏi quốc gia muốn áp dụng biện pháp SPS phải chứng
minh rõ ràng và cụ thể. Tương tự, trong vụ tranh chấp “Cá ngừ cá heo”, vì mục tiêu bảo
vệ mơi trường nên các biện pháp của Hiệp định AIDCP và DPCIA đều phải dựa trên bằng
chứng khoa học để cho thấy nó bảo vệ được cá heo. Mục đích của u cầu “phải dựa trên
bằng chứng khoa học” nhằm tránh những rào cản thương mại khơng cần thiết đối với các
biện pháp bảo vệ cuộc sống, sức khỏe động – thực vật. Tuy nhiên, vì phạm vi áp dụng
rộng hơn nên một số biện pháp TBT khơng cần căn cứ khoa học vì có thể khơng liên quan
đến mục tiêu của quy định nhằm chống lại các hành vi man trá hay do ngun nhân quốc
gia.
Thứ tư, về biện pháp tạm thời, nếu khơng có đủ bằng chứng, SPS cho phép các nước áp
dụng các biện pháp SPS trên cơ sở tạm thời như một biện pháp phịng ngừa, trong vụ tranh
chấp về xuất khẩu táo, Nhật Bản đã cho rằng những biện pháp kiểm dịch của mình là biện
pháp tạm thời khi khơng có đủ bằng chứng khoa học, tuy nhiên CQGQTC cho rằng những
biện pháp này kèm theo nhiều hơn điều kiện cần thiết để duy trì mức độ an tồn của Nhật
Bản. Hiệp định TBT khơng quy định gì về biện pháp tạm thời.
KẾT LUẬN
Bài viết đã chỉ ra các tiêu chí cơ bản để phân biệt một biện pháp tác động thương mại
thuộc phạm vi áp dụng của Hiệp định TBT hay Hiệp định SPS của WTO thơng qua các
tranh chấp cụ thể. Từ việc hiểu rõ về sự khác nhau giữa hai loại biện pháp, các doanh
nghiệp sẽ bảo vệ quyền lợi của mình trong lĩnh vực thương mại quốc tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản pháp luật:
1. Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT);
2. Hiệp định áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS).
Tài liệu tham khảo:
1. Bibek Debroy (2005), “The SPS and TBT Agreements – Implications for Indian Policy”,
ICRIER.
2. Trần Việt Dũng, Nguyễn Thị Lan Hương , Vấn đề bảo vệ mơt trường và hiệp định
TBT trong khn khổ WTO qua vụ tranh chấp Hoa Kỳ cá ngừ II, tạp chí Khoa học pháp lý
(3/2013), tr. 63 – 72;
3. Michael Blakeney, “SPS and TBT Agreements”.
4. Ngơ Thị Minh Phương (2015), “Nghiên cứu việc áp dụng Hiệp định SPS vào giải
quyết tranh chấp liên quan đến vụ SD245 giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ và bài học rúi ra cho
Việt Nam”, Khóa luận tốt nghiệp chun ngành: Thương mại quốc tế, Trường Đại học
Ngoại Thương;
5. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), “Giáo trình Luật Thương mại quốc tế song
ngữ”, Nxb. Thanh niên, Hà Nội;
6.
The WTO Agreements Series: Sanitary and Phytosanitary Measures:
(Tham kh ảo ngày
01/04/2021);
7. IIC, Technical Barriers to Trade Part 2: Basic principles of the Agreement on Technical
Barriers to Trade (Contd):
/>
encounteredinexportmarketsPart23/#:~:text=Following%20are%20some%20examples
%20to,to%20protect%20human%2Fanimal%20health (Tham khảo ngày 01/04/2021).
8. Understanding the WTO Agreement on Sanitary and Phytosanitary Measures:
/>