Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An Giang (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.24 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM QUỐC VƯƠNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM QUỐC VƯƠNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG

Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC MINH

HÀ NỘI, 2021


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính nói
riêng là cơng cụ quan trọng trong hoạt động hoạt động quản lý nhà nước nhằm
duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý hành chính nhà nước. Đây cũng là một
vấn đề liên quan đến đời sống hàng ngày của nhân dân, của tổ chức và hoạt
động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đã được Đảng, Nhà nước và toàn
xã hội quan tâm, nhằm từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Để góp phần phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh An Giang, thời
gian qua, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đã ban
hành các Nghị quyết, cơ chế chính sách, tăng cường cải cách hành chính, tạo
mơi trường đầu tư minh bạch, thuận lợi để các cá nhân, doanh nghiệp hoạt động
sản xuất, kinh doanh.
Do có đặc điểm là tỉnh biên giới và trong thời kỳ đẩy mạnh việc thực
hiện các dự án đầu tư cơng trình xây dựng, cơ sở hạ tầng, các khu dân cư... nên
tình hình vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm hành chính trong các lĩnh
vực quản lý nhà nước như: tài nguyên, khoáng sản, đất đai, xây dựng, quản lý
bảo vệ biên giới, hải quan, lĩnh vực thương mại, kinh doanh, mua bán, vận
chuyển hàng cấm, hàng nhập lậu... diễn biến phức tạp. Trước tình hình đó, các
cơ quan chức năng của tỉnh cũng đã xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các
chương trình, kế hoạch tăng cường cơng tác thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện,
xử lý đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm.
Việc thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An Giang
đã được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo, lãnh đạo các
Sở, Ban Ngành tỉnh và Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn
tỉnh được thực hiện khá tốt, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã
hội, tạo lập mơi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh công bằng, thúc đẩy kinh tế xã hội của tỉnh An Giang ngày càng phát triển.
1



Tuy nhiên, trong q trình triển khai thực hiện chính sách xử phạt vi
phạm hành chính tại tỉnh An Giang đã phát sinh những khó khăn, vướng mắc
cần phải có những giải pháp khắc phục để nâng cao hiệu quả cơng tác xử phạt
vi phạm hành chính. Do đó, đề tài nghiên cứu Thực hiện chính sách xử phạt vi
phạm hành chính tại tỉnh An Giang là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn quan trọng trong cơng tác quản lý hành chính nhà nước cũng như
trong thực tiễn thực hiện nhiệm vụ xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An
Giang.
Để góp phần tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong các quy định của
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nêu trên, bảo đảm việc xử lý vi phạm
hành chính kịp thời, đúng quy định pháp luật, hạn chế vi phạm hành chính trên
địa bàn tỉnh An Giang là yêu cầu bức xúc hiện nay. Từ thực tiễn của bản thân
trong quá công tác và xuất phát từ những yêu cầu về lý luận và thực tiễn nêu trên,
bản thân lựa chọn nội dung đề tài: “Thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành
chính tại tỉnh An Giang” để nghiên cứu, góp phần tăng cường tính hiệu lực, hiệu
quả quản lý Nhà nước lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An Giang.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua tìm hiểu được biết hiện nay có một số đề tài luận văn thạc sĩ và tài liệu,
cơng trình khoa học liên quan đến cơng tác xử phạt vi phạm hành chính như:
Luận văn thạc sĩ Luật học“Áp dụng pháp luật trong xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ của lực lượng cảnh sát giao
thơng Cơng an thành phố Hải Phịng” của tác giả Đỗ Ngọc Dũng (2019), Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh [5]. Luận văn đã nêu những vấn đề cơ
bản về xử phạt vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thơng đường bộ và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác xử
phạt vi phạm hành chính trên địa bàn thành phố Hải Phịng và kiến nghị để
hồn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ.

2



Luận văn thạc sĩ Luật học “Thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
lĩnh vực đất đai tại quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ” của tác giả Võ Hồi
Phong (2019), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh [11]. Luận văn đã nêu
những vấn đề cơ bản về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai và đề
xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính trên
địa bàn quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ và kiến nghị để hoàn thiện pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Một số cơng trình nghiên cứu và cơng trình khoa học liên quan cơng tác
xử lý vi phạm hành chính như:“Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp
luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của tác giả Cao Vũ Minh [6];
"Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính theo quy định hiện hành " của tác giả
Bùi Thị Đào - Hoàng Thị Lan Phương [7] ;“Một số vướng mắc về áp dụng thẩm
quyền xử phạt và giải pháp hồn thiện thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính” của
tác giả Trương Quang Sáng [9]; “Hoàn thiện quy định về xử phạt vi phạm hành
chính”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật của Bộ Tư pháp [13]; “Phân biệt vi phạm
hành chính và tội phạm” của tác giả Nguyễn Hồng Việt [36]; “Hồn thiện khái
niệm vi phạm hành chính trong Luật Xử lý vi phạm hành chính” của tác giả
Nguyễn Hoàng Việt [38] …
Các nghiên cứu trên chỉ tập trung về xử lý vi phạm hành chính nói
chung, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong một số lĩnh vực cụ thể,
chưa có cơng trình nào nghiên cứu về thực hiện chính sách xử phạt vi phạm
hành chính. Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Thực hiện chính sách xử phạt vi
phạm hành chính tại tỉnh An Giang” mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn, góp
phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính tại
tỉnh An Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu


3


Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách xử phạt
vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh An Giang. Từ đó, đề xuất giải pháp hồn
thiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An Giang.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nêu trên, nội dung của Luận văn cần giải quyết
các nhiệm vụ sau đây:
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách xử phạt vi phạm hành chính;
Phân tích thực trạng thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính từ
thực tiễn tỉnh An Giang từ năm 2016 đến năm 2020, qua đó nêu ra những vấn
đề hạn chế, vướng mắc; phân tích nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính;
Đề xuất các giải pháp cụ thể để hồn thiện chính sách xử phạt vi phạm
hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu cơng tác xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh
An Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu việc thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính
trên tại tỉnh An Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Đề tài giới hạn việc nghiên cứu
việc thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An Giang.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Các số liệu thu thập và phân tích về
đối tượng nghiên cứu được thực hiện trong giai đoạn 2016 – 2020.
Phạm vi nghiên cứu về mặt nội dung: Luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu việc thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An Giang
nhằm đáp ứng yêu cầu hồn thiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

4


Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội
và phương pháp nghiên cứu của chính sách cơng. Đó là cách tiếp cận quy phạm
chính sách cơng về chu trình chính sách cơng từ hoạch định đến xây dựng, thực
hiện và đánh giá chính sách cơng có sự tham gia của các chủ thể chính sách.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản: Thu thập số liệu,
tổng hợp, phân tích, so sánh các số liệu thống kê từ các nguồn có sẳn liên quan
đến đề tài nghiên cứu: các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng, Luật, Nghị định và
các văn bản quy phạm pháp luật về chính sách xử phạt vi phạm hành chính, hệ
thống, khái qt hóa các lý luận về vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành
chính, chính sách xử phạt vi phạm hành chính, thực hiện chính sách xử phạt vi
phạm hành chính... thơng qua các văn bản luật, giáo trình, đề án, bài viết của
các nhà nghiên cứu chuyên môn...
Phương pháp nghiên cứu định lượng: Trong nghiên cứu này, tác giả chỉ
tiến hành thu thập và phân tích các số liệu thống kê thứ cấp thông qua các báo
cáo và tài liệu hoạt động của các Sở, ngành tỉnh và Ủy ban nhân dân các huyện,
thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh An Giang. Từ đó sử dụng phương pháp thống
kê, so sánh... để phân tích và làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc
thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính và hệ thống hóa các chủ
trương, chính sách của Đảng, quy định của pháp luật về thực hiện chính sách
xử phạt vi phạm hành chính; phân tích, tìm ra những hạn chế, bất cập trong việc
thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An Giang.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Qua phân tích thực tiễn thực hiện từ tỉnh An Giang về thực hiện chính
sách xử phạt vi phạm hành chính và cùng với cơ sở lý luận, luận văn đưa ra

5


các giải pháp góp phần hồn thiện, nâng cao chất lượng thực hiện chính sách
xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An Giang và có một số kiến nghị với Trung
ương để công tác xử phạt vi phạm hành chính ngày càng tốt hơn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách xử phạt vi phạm
hành chính.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính
tại tỉnh An Giang.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện chính sách xử
phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An Giang.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH

1.1. Vi phạm hành chính và chính sách xử phạt vi phạm hành chính
1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính
1.1.1.1. Vi phạm hành chính[A1]

Trong thực tế đời sống xã hội, các vi phạm pháp luật diễn ra thường
xuyên, phổ biến, đa dạng trên tất cả các lĩnh vực quản lý của nhà nước. Căn cứ
vào khách thể bị xâm phạm, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi vi phạm, khoa học pháp lý phân chia vi phạm pháp luật thành 04 loại: vi
phạm pháp luật hình sự, vi phạm pháp luật hành chính, vi phạm kỷ luật và vi
phạm pháp luật dân sự.
Trong quy định của pháp luật, thuật ngữ vi phạm hành chính lần đầu tiên
được giải thích ở Điều 1 Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính ngày
30/11/1989. Theo đó: "Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà
không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt
hành chính". [30]. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995, Pháp lệnh
Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 khơng giải thích thuật ngữ vi phạm hành
chính trực tiếp mà quy định một cách gián tiếp thông qua khái niệm “xử phạt
vi phạm hành chính”.
Khái niệm vi phạm hành chính được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 2
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, theo đó "Vi phạm hành chính là
hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật
về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật
phải bị xử phạt vi phạm hành chính".[14]

7


Khái niệm về vi phạm hành chính trên đưa ra các dấu hiệu pháp lý cơ
bản, đó là tính xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước, có lỗi, tính trái pháp
luật hành chính và phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Cũng như các loại vi phạm pháp luật khác, vi phạm hành chính được cấu
thành bởi 4 yếu tố: Mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể [38].
Mặt khách quan của vi phạm hành chính là những biểu hiện ra bên ngồi

thế giới khách quan của vi phạm hành chính, bao gồm các yếu tố[A2]:
Thứ nhất, hành vi trái pháp luật hành chính. Hành vi trái pháp luật hành
chính được thể hiện dưới dạng hành động (chủ thể thực hiện những hành vi bị
pháp luật hành chính ngăn cấm) hoặc khơng hành động (chủ thể không thực
hiện những hành vi mà pháp luật hành chính bắt buộc phải thực hiện). Nếu
khơng có hành vi trái pháp luật hành chính của chủ thể thì khơng thể có cấu
thành vi phạm hành chính [38].
Thứ hai, hậu quả do hành vi trái pháp luật hành chính gây ra cho xã
hội (sự thiệt hại của xã hội). Hành vi trái pháp luật hành chính ở những mức độ
khác nhau đều có tính nguy hiểm cho xã hội, nó có thể gây ra hoặc chứa đựng
nguy cơ gây ra những thiệt hại về vật chất, tinh thần và những thiệt hại khác
cho xã hội. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm hành chính được đánh
giá, xác định thông qua mức độ thiệt hại trên thực tế hoặc nguy cơ gây ra thiệt
hại cho xã hội mà hành vi đó gây ra [38].
Thứ ba, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật hành chính với
hậu quả (sự thiệt hại của xã hội) mà nó gây ra. Điều này thể hiện ở chỗ, sự thiệt
hại cho xã hội trên thực tế là hệ quả tất yếu của hành vi trái pháp luật hành
chính, do chính hành vi trái pháp luật hành chính gây ra. Trong một vi phạm
hành chính cụ thể chủ thể chỉ bị coi là vi phạm hành chính khi gây ra những
thiệt hại trên thực tế. Trong những trường hợp này, việc xác định mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật hành chính với hậu quả là điều hết sức
cần thiết để khẳng định có vi phạm hành chính hay không [38].

8


Thứ tư, các yếu tố thời gian thực hiện vi phạm hành chính; địa điểm thực
hiện vi phạm hành chính; phương thức, thủ đoạn thực hiện vi phạm hành chính;
cơng cụ, phương tiện dùng để thực hiện vi phạm hành chính… [38]
Trong các yếu tố nêu trên, thì hành vi trái pháp luật hành chính là dấu

hiệu bắt buộc phải có trong mặt khách quan của vi phạm hành chính; các yếu tố
cịn lại có thể có hoặc có thể khơng, tùy thuộc vào từng loại vi phạm hành chính.
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính: là những biểu hiện tâm lý bên trong
của chủ thể thực hiện hành vi, bao gồm các yếu tố[A3]:
Thứ nhất, yếu tố lỗi của chủ thể vi phạm. Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ
thể đối với hành vi vi phạm của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Vi phạm
hành chính phải là hành vi có lỗi, thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vơ ý [38].
Lỗi cố ý thể hiện ở chỗ chủ thể nhận thức được tính chất nguy hại của
hành vi, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra
nhưng vẫn cố tình thực hiện và mong muốn điều đó xảy ra hoặc tuy khơng
mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra [38].
Lỗi vô ý thể hiện ở chỗ chủ thể không nhận thức được tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi mặc dù có thể hoặc cần phải nhận thức được hoặc
nhận thức được nhưng cho rằng hậu quả khơng xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa
được hậu quả xảy ra [38].
Thứ hai, yếu tố mục đích. Mục đích là cái “mốc”, là kết quả cuối cùng
trong suy nghĩ mà chủ thể vi phạm mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi
vi phạm. Mục đích vi phạm cũng thể hiện tính chất nguy hiểm của hành vi.
Trong các yếu tố nêu trên, thì lỗi là dấu hiệu bắt buộc phải có trong mặt
chủ quan của vi phạm hành chính; yếu tố mục đích có thể có hoặc có thể khơng,
tùy thuộc vào từng loại vi phạm hành chính. Trong một số trường hợp, đối với
một số vi phạm hành chính cụ thể, pháp luật quy định dấu hiệu mục đích là dấu
hiệu bắt buộc phải có [38].

9


Chủ thể vi phạm hành chính: là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm
hành chính.
Đối với cá nhân phải là người đạt độ tuổi nhất định, có đầy đủ khả năng

nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Nếu khơng đủ căn cứ cho rằng chủ
thể thực hiện hành vi có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của
mình thì có thể kết luận khơng có vi phạm hành chính xảy ra [38].
Đối với tổ chức gồm: Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội
nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và tổ chức khác được
thành lập theo quy định của pháp luật. Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính
được quy định cụ thể tại các nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong các lĩnh vực quản lý nhà nước [38].
Khách thể vi phạm hành chính[A4]: là những quan hệ xã hội được pháp luật
hành chính bảo vệ nhưng bị vi phạm hành chính xâm hại, gây ra thiệt hại hoặc
đe dọa gây ra thiệt hại. Khách thể chính là dấu hiệu để nhận biết vi phạm hành
chính là hành vi xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước được pháp
luật hành chính quy định và bảo vệ [28].
Trong khoa học pháp lý, dựa vào các dấu hiệu cấu thành chúng ta có thể
phân biệt vi phạm hành chính và tội phạm nhưng trong thực tế ranh giới giữa
vi phạm hành chính và tội phạm khó xác định. Nếu khơng giải quyết đúng đắn
vấn đề này thì dẫn đến việc áp dụng pháp luật để xử lý hành vi vi phạm khơng
chính xác.
Qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn công tác xử lý vi phạm hành
chính, việc phân biệt vi phạm hành chính và tội phạm dựa vào các yếu tố cấu
thành vi phạm hành chính và tội phạm, cụ thể[A5] [36]:
Thứ nhất, mặt khách quan:
Xét về mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi: Vi phạm hành chính
có mức độ nguy hiểm thấp hơn tội phạm hình sự (đây là dấu hiệu cơ bản nhất).

10


Các căn cứ đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm hành chính và

tội phạm bao gồm:
Về mức độ thiệt hại: Đối với một số loại tội phạm, Bộ luật hình sự quy
định mức độ gây thiệt hại cho xã hội của hành vi. Mức độ gây thiệt hại biểu
hiện dưới các hình thức khác nhau như: Giá trị tài sản bị xâm hại, giá trị hàng
hóa vi phạm, mức độ thương tật… Căn cứ vào các dấu hiệu này, có thể phân
biệt vi phạm hành chính và tội phạm. Ví dụ: Đối với hành vi sản xuất, buôn bán
hàng giả trị giá từ 20.000.000 trở lên tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi
trong hóa đơn thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 192
Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); nếu tài sản có giá
trị dưới 20.000.000 đồng (ít nghiêm trọng hơn) thì bị xử phạt vi phạm hành
chính theo quy định tại Điều 9, Điều 10 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày
26/8/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
thương mại, sản xuất, bn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng.
Về số lần vi phạm: Nhiều trường hợp bị coi là tội phạm khi đã bị xử phạt
vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án về hành vi đã thực hiện (hoặc các hành
vi khác có tính chất tương tự). Trong những trường hợp này, nếu chỉ đánh giá
về mặt hành vi thì khó xác định một cách chính xác đó là tội phạm hay vi phạm
hành chính mà phải căn cứ vào dấu hiệu số lần thực hiện hành vi vi phạm.
Về công cụ, phương tiện, thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm: Đây cũng
được coi là căn cứ để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm.
Thứ hai, mặt chủ quan:
Do tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của từng trường hợp lỗi
là khác nhau, hơn nữa, tội phạm là loại vi phạm pháp luật bị áp dụng chế tài
nặng nhất nên tại Điều 10 và Điều 11 Bộ luật hình sự quy định 04 hình thức lỗi
của chủ thể để giúp giải quyết chính xác các vụ án hình sự:

11



Cố ý trực tiếp là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong
muốn hậu quả xảy ra.
Cố ý gián tiếp là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra,
tuy khơng mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Vơ ý vì q tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi
của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó
sẽ khơng xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
Vơ ý do cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước hành vi
của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và
có thể thấy trước hậu quả đó.
Vi phạm hành chính chỉ quy định hai hình thức lỗi là cố ý và vơ ý, khơng
có sự phân biệt cố ý trực tiếp hay gián tiếp, vơ ý vì q tự tin hay do cẩu thả.
Thứ ba, chủ thể[A6]:
Chủ thể vi phạm hành chính là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm
hành chính, nghĩa là theo quy định của pháp luật hành chính, họ phải chịu trách
nhiệm đối với hành vi trái pháp luật của mình. Đối với cá nhân, họ phải là người
đạt độ tuổi nhất định, có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của
mình. Nếu không đủ căn cứ cho rằng chủ thể thực hiện hành vi trong tình trạng
có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình thì có thể kết
luận rằng: Khơng có vi phạm hành chính xảy ra. Khoản 5 Điều 11 Luật Xử lý
vi phạm hành chính cũng quy định việc khơng truy cứu trách nhiệm hành chính
trong trường hợp người thực hiện hành vi “khơng có năng lực trách nhiệm hành
chính” hoặc “chưa đủ tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính”.
Chủ thể (đối tượng) bị xử phạt vi phạm hành chính là cá nhân, tổ chức quy
định tại khoản 10 Điều 2 và khoản 1 Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Thứ tư, khách thể:

12



Khách thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội được pháp
luật hành chính bảo vệ; khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được
pháp luật hình sự bảo vệ. Như vậy, khách thể của vi phạm hành chính và khách
thể của tội phạm đều là những quan hệ xã hội nhưng có những quan hệ xã hội
chỉ có thể là khách thể của vi phạm hành chính dù có vi phạm nhiều lần cũng
không thể là tội phạm (như hành vi điều khiển mơ tơ, xe máy khơng đội mũ
bảo hiểm…); có những quan hệ xã hội chỉ có thể là khách thể của tội phạm dù
có gây hậu quả hay chưa (như hành vi giết người, hiếp dâm…).
Theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hiện hành, vi
phạm hành chính được quy định trong luật, các nghị định về xử phạt vi phạm
hành chính; tội phạm hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự. Trong
trường hợp một hành vi vừa được quy định trong Bộ luật hình sự vừa được quy
định trong Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính thì cần đánh giá tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi để khẳng định hành vi đó là tội phạm hay vi phạm
hành chính.
1.1.1.2. Xử phạt vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính có liên quan mật
thiết với nhau, vi phạm hành chính là cơ sở để xử phạt vi phạm hành chính, xử
phạt vi phạm hành chính là việc áp dụng chế tài hành chính đối với chủ thể vi
phạm hành chính.
Thuật ngữ xử phạt vi phạm hành chính lần đầu tiên được giải thích ở
khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995, theo đó: “Xử
phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố
ý hoặc vơ ý vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành
chính”. [31]
Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 tiếp tục
khẳng định: “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ


13


quan, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vơ ý vi phạm các quy định của pháp luật về
quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật
phải bị xử phạt hành chính”. [32]
Hiện nay, xử phạt vi phạm hành chính được định nghĩa chính thức tại
khoản 2 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, theo đó: “Xử phạt
vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử
phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi
vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính”. [14]
Theo định nghĩa vi phạm hành chính nêu trên thì xử phạt vi phạm hành
chính là việc áp dụng các biện pháp chế tài mang tính cưỡng chế hành chính
của Nhà nước đối với chủ thể có hành vi trái pháp luật về hành chính. Các biện
pháp chế tài gồm: Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính mang tính trừng
phạt, răn đe (cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề có thời hạn; đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật vi phạm hành
chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; trục xuất) và các biện
pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính gây ra nhằm lập lại trật tự quản lý
đã bị vi phạm hành chính xâm hại (Buộc khơi phục lại tình trạng ban đầu; buộc
tháo dỡ cơng trình, phần cơng trình xây dựng khơng có giấy phép hoặc xây
dựng không đúng với giấy phép; buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng
ơ nhiễm mơi trường, lây lan dịch bệnh…) [1].
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm chính sách xử phạt vi phạm hành chính
1.1.2.1. Chính sách xử phạt vi phạm hành chính
Chính sách cơng được Nhà nước ban hành nhằm tập trung giải quyết một
vấn đề nhất định đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục
tiêu xác định. Khác với các loại công cụ khác như chiến lược, kế hoạch của nhà

nước là những chương trình hành động tổng quát một hoặc nhiều lĩnh vực kinh
tế - xã hội; đặc điểm của chính sách cơng là được đề ra và được thực hiện nhằm

14


giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan lẫn nhau đang đặt ra trong đời sống
xã hội.
Chính sách xử phạt vi phạm hành chính là chính sách cơng được Nhà
nước ban hành nhằm tập trung giải quyết vấn đề xử phạt vi phạm hành chính;
chính sách này cụ thể hóa các chủ trương, Nghị quyết của Đảng về xử phạt vi
phạm hành chính thơng qua hệ thống các văn bản pháp luật nhằm giải quyết
mối quan hệ giữa cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính,
các cơ quan quản lý nhà nước về xử phạt vi phạm hành chính với các tổ chức,
cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hành chính và tổ chức, cá nhân có liên quan.
Chính sách xử phạt vi phạm hành chính là chính sách pháp luật, chính
sách trong lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính. Chính sách xử phạt vi phạm
hành chính là cơ sở nền tảng để xây dựng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính
và thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Nói cách khác, pháp luật
xử phạt vi phạm hành chính là kết quả của sự thể chế hóa chính sách pháp luật
xử phạt vi phạm hành chính. Chính sách xử phạt vi phạm hành chính chính là
linh hồn, là nội dung của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính, cịn pháp luật
xử phạt vi phạm hành chính là hình thức, là phương tiện thể hiện của chính sách
xử phạt vi phạm hành chính [8].
Có nhiều quan niệm khác nhau về chính sách pháp luật, nên sẽ có quan
niệm khơng thống nhất về chính sách pháp luật xử phạt vi phạm hành chính.
Vấn đề tranh luận là tư tưởng, quan điểm, mục tiêu, chiến lược, sách lược, định
hướng, chương trình, kế hoạch của Đảng ... là cơ sở của chính sách pháp luật,
hay là yếu tố của hệ tư tưởng pháp luật. Tôi chia sẻ quan điểm cho rằng “chính
sách pháp luật là hệ thống các quan điểm, lập trường, tư tưởng, nguyên tắc hành

động, chủ trương, định hướng, chương trình và biện pháp hành động của Nhà
nước trong việc xác định vai trò và hướng điều chỉnh của pháp luật trong từng
giai đoạn hoặc thời kỳ phát triển của đất nước, làm căn cứ và cơ sở để xây dựng
pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống và duy trì hiệu lực pháp luật trong giai

15


đoạn hoặc thời kỳ đó”. Cùng với đó, tơi hiểu chính sách xử phạt vi phạm hành
chính là hệ thống các quan điểm, lập trường, tư tưởng, nguyên tắc hành động,
chủ trương, định hướng, chương trình và biện pháp hành động làm cơ sở cho
việc xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
Chính sách xử phạt vi phạm hành chính khơng chỉ là nền tảng cơ sở để xây
dựng và hoàn thiện (phát triển) hệ thống pháp luật xử phạt vi phạm hành chính
mà cịn là ngun tắc, định hướng thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính. Chính sách xử phạt vi phạm hành chính được hình thành từ đường lối,
quan điểm, chủ trương, cương lĩnh chính trị của Đảng, tình hình thực tế và yêu
cầu xử phạt vi phạm hành chính [8].
Cần phân biệt “Chính sách xử phạt vi phạm hành chính” và “hoạt động
chính sách xử phạt vi phạm hành chính”. Hoạt động chính sách xử phạt vi phạm
hành chính là các cơng việc cần làm trong quy trình chính sách xử phạt vi phạm
hành chính, bao gồm các giai đoạn và thủ tục như: đề xuất chính sách xử phạt
vi phạm hành chính; hình thành chính sách xử phạt vi phạm hành chính; thơng
qua chính sách xử phạt vi phạm hành chính; thực thi chính sách xử phạt vi phạm
hành chính; phân tích, kiểm tra, giám sát, đánh giá tác động của chính sách và
hiệu chỉnh chính sách xử phạt vi phạm hành chính [8].
1.1.2.2. Đặc điểm chính sách xử phạt vi phạm hành chính
Chính sách xử phạt vi phạm hành chính được đề ra và được thực hiện
nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan lẫn nhau đang đặt ra trong
đời sống xã hội, đó là những hành vi vi phạm pháp luật hành chính do cá nhân,

tổ chức thực hiện xâm phạm các quan hệ xã hội được pháp luật hành chính bảo
vệ.
Chính sách xử phạt vi phạm hành chính là chủ trương, chính sách của
Đảng về xử phạt vi phạm hành chính và được nhà nước cụ thể hóa, thể chế hóa
bằng các văn bản pháp luật như: Luật Xử lý vi phạm hành chính, các Nghị định
của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản

16


lý nhà nước và các Thông tư của Bộ trưởng hướng dẫn cơng tác xử phạt vi
phạm hành chính trong từng lĩnh vực chuyên môn.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung thực hiện chính sách xử phạt vi
phạm hành chính
1.2.1. Khái niệm thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính
Thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính là q trình đưa chính
sách xử phạt vi phạm hành chính vào thực tiễn đời sống xã hội thơng qua việc
ban hành các văn bản, chương trình, dự án thực hiện chính sách và tổ chức thực
hiện chúng nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính sách xử phạt vi phạm hành
chính- duy trì trật tự, kỷ cương của Nhà nước trong quản lý hành chính nhà
nước.
Thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính là khâu hợp thành chu
trình chính sách, nếu thiếu cơng đoạn này thì chu trình chính sách xử phạt vi
phạm hành chính khơng thể tồn tại. Tổ chức thực hiện chính sách xử phạt vi
phạm hành chính là trung tâm kết nối các bước trong chu trình chính sách thành
một hệ thống, nhất là với hoạch định chính sách xử phạt vi phạm hành chính.
So với các khâu khác trong chu trình chính sách, thực hiện chính sách xử phạt
vi phạm hành chính có vị trí đặc biệt quan trọng, vì đây là bước hiện thực hóa
chính sách xử phạt vi phạm hành chính trong đời sống xã hội.
Tổ chức thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính tốt khơng

những mang lại lợi ích to lớn cho các nhóm đối tượng thụ hưởng, mà cịn góp
phần làm tăng uy tín của Nhà nước trong q trình quản lý xã hội. Để có được
một chính sách xử phạt vi phạm hành chính tốt, các nhà hoạch định phải trải
qua một quá trình nghiên cứu, tìm kiếm cơng phu. Nhưng dù chính sách xử
phạt vi phạm hành chính tốt đến đâu cũng trở thành vơ nghĩa nếu nó khơng
được đưa vào thực hiện. Thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính để
khẳng định tính đúng đắn của chính sách đã ban hành, có nghĩa là chính sách
này đã được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền triển khai một cách rộng rãi

17


trong đời sống xã hội và được xã hội chấp nhận thì điều này cũng phản ánh tính
đúng đắn của chính sách này và ngược lại. Đồng thời qua thực tế thực hiện chính
sách các nhà hoạch định sẽ nhận thấy những hạn chế, bất cập để điều chỉnh, bổ
sung và hồn thiện chính sách phù hợp với u cần của cuộc sống.
Như vậy, thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính là q trình
tổ chức triển khai, thực hiện các chính sách xử phạt vi phạm hành chính của
Nhà nước (trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng, Luật, Nghị định của
Chính phủ, Thơng tư của Bộ trưởng, Chương trình, kế hoạch) đã ban hành vào
thực tiễn cuộc sống thông qua các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền bằng
các cơng cụ quản lý nhằm thực hiện mục tiêu đã đề ra, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu đời sống nhân dân và nhiệm
vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.
1.2.2. Đặc điểm thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính
Thứ nhất, thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính được tiến
hành (bởi hầu hết) các cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính trong cơ quan hành chính nhà nước, cấp trên trực
tiếp của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Thứ hai, thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính là q trình

xem xét, đánh giá tình hình vi phạm hành chính nói chung và hành vi vi phạm
hành chính trên cơ sở các văn bản pháp luật quy định về xử phạt vi phạm hành
chính để áp dụng các hình thức xử phạt hành chính (hình thức xử phạt chính,
hình thức xử phạt bổ sung, các biện pháp khắc hậu quả) đối với cá nhân, tổ
chức vi phạm hành chính; đề xuất việc sửa đổi, bổ sung chính sách xử phạt vi
phạm hành chính nhằm đạt mục tiêu lập lại trật tự quản lý hành chính nhà nước,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và của Nhà nước.
Thứ ba, việc thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính phải tuân
thủ theo trình tự, thủ tục chặt chẽ bao gồm: Buộc chấm dứt hành vi vi phạm
hành chính, lập biên bản vi phạm hành chính; tiến hành xác minh tình tiết của

18


vụ việc vi phạm hành chính; xác định giá trị tang vật vi phạm hành chính để
làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt; tổ chức cho cá nhân, tổ
chức vi phạm giải trình; chuyển hồ sơ nếu có dấu hiệu tội phạm; xem xét quyết
định xử phạt vi phạm hành chính; tổ chức thi hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính; giải quyết khiếu nại đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính
khi đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính khiếu nại.
Thứ tư, việc thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính phải tuân
thủ các nguyên tắc trong quá trình trình xử phạt được Luật xử lý vi phạm hành
chính quy định.
1.3. Nội dung thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính
1.3.1. Chủ thể của hoạt động thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành
chính
Nhà nước là chủ thể ban hành các chính sách xử phạt vi phạm hành chính
và đóng vai trị chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện. Đại diện cho Nhà nước là
đội ngũ cán bộ, công chức và cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước.
Chủ thể thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính là cơ quan nhà

nước, đứng đầu là Chính phủ, tiếp đến là các Bộ, ngành Trung ương và các cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương. Để hoạch định chính sách chung và
nghiên cứu, tham mưu, đề xuất việc thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành
chính, Chính phủ giao nhiệm vụ cho Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện, chịu trách
nhiệm trước Chính phủ về thực hiện quản lý công tác thi hành pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các bộ,
ngành có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực, ngành mình quản lý; Ủy ban nhân
dân các cấp quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính ở
địa phương. [11]
Các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương thực hiện chính sách xử
phạt vi phạm hành chính thơng qua việc ban hành các Nghị định xử phạt vi

19


phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý công tác thi hành
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, chỉ đạo việc tổ chức thực hiện chính
sách xử phạt vi phạm hành chính trong thực tế, tiến hành thanh tra, kiểm tra,
xử lý vi phạm đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thực
hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính.
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương thực hiện chính sách xử
phạt vi phạm hành chính thơng qua việc thực hiện quản lý cơng tác thi hành
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và thực hiện việc xử phạt vi phạm hành
chính thơng qua người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và đội ngũ
cán bộ, cơng chức làm cơng tác xử phạt vi phạm hành chính.
Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính là những người được
Nhà nước giao quyền nhân danh Nhà nước để chứng minh cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính, xem xét, đánh giá, cân nhắc về tính chất, mức độ vi phạm,
nhân thân đối tượng vi phạm, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ… để quyết định

hình thức, mức xử phạt đối với cá nhân, tổ chức vi phạm. Việc xử phạt này gây
bất lợi hoặc làm thiệt hại cho đối tượng bị xử phạt về vật chất hoặc hạn chế việc
thực hiện quyền được Hiến pháp, pháp luật quy định cho cá nhân, tổ chức [1].
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định 14 cơ quan và 183
chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuộc sự quản lý của
nhiều cơ quan khác nhau từ trung ương đến địa phương [1].
1.3.2. Đối tượng của hoạt động thực hiện chính sách xử phạt vi phạm
hành chính
Đối tượng của hoạt động thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành
chính là các cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong các
lĩnh vực quản lý nhà nước được quy định cụ thể tại các Nghị định của Chính
phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính. Trên cơ sở đó, các cơ quan hành
chính nhà nước, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính áp dụng các
văn bản quy phạm pháp luật này để tiến hành xử phạt đối với cá nhân, tổ chức

20


vi phạm.
Các cá nhân, tổ chức có liên quan là đối tượng thụ hưởng chính sách xử
phạt vi phạm hành chính. Do cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính đã thực hiện
hành vi vi phạm hành chính có thể gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp của cá
nhân, tổ chức khác. Khi người có thẩm quyền tiến hành xử phạt vi phạm hành
chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm bằng các hình thức xử phạt chính, xử
phạt bổ sung và áp dụng biện pháp khắc hậu quả sẽ ngăn chặn kịp thời hậu quả
do hành vi vi phạm hành chính gây ra, đồng thời cịn răn đe, giáo dục đối với
xã hội để phòng ngừa vi phạm hành chính xảy ra. Ví dụ: Cơ sở sản xuất, chế
biến thủy sản có hành vi xả nước thải không đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
ra kênh rạch gây ơ nhiểm mơi trường nước, từ đó ảnh hưởng đến các cá nhân,
tổ chức sử dụng nguồn nước này trong sinh hoạt, sản xuất.

1.3.3. Phương pháp, phương thức, hình thức thực hiện chính sách xử
phạt vi phạm hành chính
Phương pháp thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính là những
cách thức, chủ trương có tính hệ thống được các cơ quan hành hành chính nhà
nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện nhằm
hiện thức hóa mục tiêu của chính sách xử phạt vi phạm hành chính.
Phương thức thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính là hệ
thống các văn bản, chương trình, dự án được các cơ quan hành hành chính nhà
nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để
thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong thực tế cuộc sống.
Hình thức thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính là những
cách thức mà các chủ thể thơng qua đó thực hiện chính sách xử phạt vi phạm
hành chính. Có 04 hình thức thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính
gồm: tuân thủ pháp luật xử phạt vi phạm hành chính, thi hành pháp luật xử phạt
vi phạm hành chính, sử dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng
pháp luật xử phạt vi phạm hành chính.

21


1.4. Các yếu tố tác động hiệu quả thực hiện chính sách xử phạt vi
phạm hành chính[A7]
1.4.1. Tính chất của chính sách xử phạt vi phạm hành chính
Đây là yếu tố gắn liền với chính sách xử phạt vi phạm hành chính có tác
động trực tiếp đến cách giải quyết vấn đề bằng chính sách và tổ chức thực thi
chính sách. Tính chất của chính sách xử phạt vi phạm hành chính rất đa dạng,
phức tạp, có quan hệ lợi ích với nhiều đối tượng trong xã hội, đặc biệt là nhóm
đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách xử phạt vi phạm hành chính,
đó là các cá nhân, tổ chức vì lợi ích vật chất hoặc phi vật chất đã thực hiện hành
vi vi phạm hành chính, được cơ quan có thẩm quyền phát hiện và xử phạt. Ví

dụ: Các cá nhân, tổ chức trong quá trình sản xuất, kinh doanh vì lợi nhuận lớn
đã thực hiện hành vi buôn lậu; các doanh nghiệp nuôi trồng, chế biến thủy sản
vì muốn tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận đã không đầu tư hệ thống xử lý nước
thải đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định hoặc đã đầu tư xây dựng hệ thống
xử lý nước thải nhưng không thực hiện vận hành hệ thống xử lý nước thải và
thải nước thải trực tiếp ra bên ngoài gây ô nhiễm môi trường. Vấn đề buôn lậu
và xả nước thải gây ô nhiễm môi trường là giảm nguồn thu thuế và ảnh hưởng
đến sức khỏe, môi trường sinh sống của người dân. Đây là vấn đề quan trọng
cần được giải quyết để góp phần giữ gìn trật tự kỷ cương trong hoạt động quản
lý hành chính nhà nước.
1.4.2. Mơi trường thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính
Mơi trường là yếu tố liên quan đến các hoạt động kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, an ninh quốc phịng, mơi trường tự nhiên và quốc tế… Các hoạt
động này diễn ra theo quy luật trong những điều kiện cụ thể nên nó độc lập với
q trình thực thi chính sách xử phạt vi phạm hành chính.
Theo nghĩa rộng, mơi trường thực thi chính sách chứa đựng toàn bộ các
thành phần vật chất và phi vật chất tham gia thực hiện chính sách như các nhóm
lợi ích có được từ chính sách trong xã hội; các điều kiện vật chất kỹ thuật trong

22


nền kinh tế; bầu khơng khí chính trị; xã hội trật tự; quan hệ quốc tế rộng mở
rộng.
Một xã hội ổn định, ích biến động về chính trị sẽ đưa đến sự ổn định về
hệ thống chính sách, góp phần thuận lợi thực thi chính sách. Nếu các bộ phận cấu
thành mơi trường vận động phù hợp với trình độ tổ chức điều hành của các cơ
quan Nhà nước, với cơ chế, chính sách xử phạt vi phạm hành chính đang tồn tại
sẽ có tác dụng thúc đẩy các hoạt động tổ chức thực thi chính sách xử phạt vi phạm
hành chính. Ngược lại, nó sẽ kiềm hãm, ngăn trở các hoạt động này dẫn đến thực

thi chính sách xử phạt vi phạm hành chính kém hiệu quả.
1.4.3. Mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức trong thực hiện chính
sách xử phạt vi phạm hành chính
Cơng tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong thực hiện chính sách
xử phạt vi phạm hành chính phải đảm bảo nguyên tắc tuân thủ theo các quy
định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính và các quy định của pháp luật có
liên quan, phân cơng nhiệm vụ cụ thể trong việc quản lý công tác thi hành pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính cũng như thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính và thẩm quyền lập biên bản về vi phạm hành chính cho các cán bộ, cơng
chức, viên chức và những người có thẩm quyền khác trong từng lĩnh vực xử
phạt vi phạm hành chính cụ thể. Các cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính phải kịp thời thơng tin, báo cáo kết quả thực hiện cơng tác xử phạt
vi phạm hành chính; xin ý kiến hướng dẫn về nghiệp vụ đối với các vụ việc vi
phaạn hành chính phức tạp, cịn ý kiến khác nhau trong việc áp dụng quy định
pháp luật để xử phạt. Cơ quan chủ trì quản lý cơng tác thi hành pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính phải thường xuyên tổ chức sơ, tổng kết nhằm đánh
giá, rút kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực này.
1.4.4. Tổ chức bộ máy thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính
Hệ thống tổ chức bộ máy cơ quan hành chính nhà nước có vai trị quan
trọng, có tác động ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách xử phạt vi phạm

23


×