Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 16 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>MỤC LỤC PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ. I. Lí do chọn đề tài: II. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn: 1. Thực trạng giảng dạy môn GDCD ở nhà trường hiện nay: 2. Đối tượng học sinh ở trường THCS Eaphê: 3. Mục tiêu sáng kiến: 4. Phạm vi nghiên cứu: PHẦN II: QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN. I. Đặc điểm môn GDCD trong nhà trường: II. Những quan điểm tạo hứng thú trong giờ dạy môn GDCD: III. Một số biện pháp đã thực hiện: IV. Kết quả: PHẦN III: NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM. 1. Tính giáo dục: 2. Tính thực tiễn và giá trị phổ biến: 3. Đề xuất ý kiến: PHẦN IV: KẾTLUẬN. DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT GD-ĐT: Giáo dục đào tạo PPDH: Phương pháp dạy học GDCD: Giáo dục công dân CNTT: Công nghệ thông tin THCS: Trung học cơ sở GV: Giáo viên HS: Học sinh. trang 2 trang 2 trang 2 trang 2 trang 3 trang 3 trang 4 trang 5 trang 5 trang 5 trang 6 trang 10 trang 11 trang 11 trang 12 trang 13 trang 13.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD CẤP THCS” PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trước đây, bộ môn Giáo dục công dân (GDCD) không được coi trọng ở trường phổ thông, người dạy thường chéo ban, hoặc giáo viên chủ nhiệm lớp nào thì dạy bộ môn Giáo dục công dân lớp đó. Vì vậy, giáo viên dạy bộ môn này chưa có sự đầu tư trong bài dạy. Nội dung bài dạy đơn điệu, sơ sài, thậm chí giờ dạy chỉ qua loa, chiếu lệ. Hiện nay, bộ môn GDCD đã được cấp trên chỉ đạo cải tiến về phương pháp dạy học cùng những kỳ thi giáo viên giỏi qua từng cấp. Qua những đợt hội giảng, thi giáo viên giỏi các cấp hay những đợt thanh tra chuyên môn, giáo viên được cọ sát, học hỏi rất nhiều. Song nếu chỉ qua những đợt thi đó thì chưa đủ mà giáo viên còn phải tìm tòi, sáng tạo phương pháp dạy học mới, biết kết hợp với công nghệ thông tin để phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh trong giờ học đồng thời khêu gợi niềm say mê, háo hức của học sinh với bộ môn giáo dục nhân cách này. Đó chính là lí do tôi viết sáng kiến kinh nghiệm: “Ứng dụng công nghệ thông tin tạo hứng thú cho học sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân cấp THCS”. II. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN: 1. Thực trạng việc giảng dạy bộ môn GDCD ở nhà trường hiện nay : Như chúng ta đã biết ngành giáo dục đã trải qua rất nhiều cuộc cải cách giáo dục và đã phấn đấu thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ, đáp ứng phù hợp với yêu cầu của các giai đoạn cách mạng mới. Tuy nhiên, ngành giáo dục vẫn còn trăn trở cùng sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phương pháp giáo dục đào tạo nêu trên, tuy có được nghiên cứu, ứng dụng vào thực tiễn học tập cũng như đời sống hằng ngày nhưng chưa đạt kết quả như mong muốn. Vì sao vậy? Có rất nhiều lí do dẫn đến việc giáo dục bộ môn nhân cách cho học sinh chưa đạt hiệu quả cao. Trước hết phải kể đến đó là việc xã hội, gia đình và bản thân ngành giáo dục còn chú trọng các môn khoa học nhằm nâng cao trí tuệ mà chưa chú ý nâng cao nhân cách cho học sinh, nghĩa là chỉ chú ý rèn tài mà chưa chú ý rèn đức. Biểu hiện cụ thể mà ai cũng thấy rõ là môn GDCD chưa bao giờ được Bộ Giáo dục và Đào tạo xếp vào môn thi tốt nghiệp hay thi vào cấp III. Điều này không chỉ làm cho học sinh mà.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> cả giáo viên chủ quan, coi là môn học phụ và chỉ ý thức được rằng miễn là dạy học đủ bài, đúng chương trình là đạt yêu cầu. Chính môn GDCD không được chọn vào các môn thi trong các kì thi quan trọng nên sách tham khảo, sách bài tập còn ít, đặc biệt là sách viết về phương pháp dạy học bộ môn này thì càng hạn chế. Một vấn đề nữa là lượng thời gian dành cho bộ môn này còn ít (1 tiết / tuần ). Sách mới viết hiện nay nội dung rất phong phú, hợp với trình độ học sinh nhưng nếu giáo viên dạy bộ môn mà không có sự đầu tư, liên hệ, ứng dụng thực tiễn thì giờ học sẽ rất nhàm chán, thậm chí học sinh không chú ý lắng nghe. Thực tế đã cho thấy hầu hết học sinh chưa hứng thú học bộ môn này. Thông qua việc dự giờ các trường bạn, tình hình giảng dạy chung của trường, tôi nhận thấy điểm hạn chế, tồn tại tập trung ở phương pháp truyền thụ kiến thức của giáo viên cho học sinh. Trước hết là sự đầu tư cho giờ dạy còn hạn chế dẫn đến giờ học khô khan, không đọng lại trong tâm trí học sinh một hình ảnh hoặc một ấn tượng nào. Thứ hai vì trình độ chuyên môn về bộ môn này của giáo viên còn hạn chế (giáo viên thường là dạy chéo ban) nên những nội dung bài dạy còn chưa sâu, chưa kĩ. Thứ ba vì giáo viên sử dụng phương pháp còn đơn điệu, chưa biết kết hợp hài hoà giữa các phương pháp và ứng dụng CNTT để tạo hứng thú học tập cho học sinh. 2. Đối tượng học sinh ở trường THCS Eaphê: - Học sinh ở trường THCS Eaphê hầu hết là con em dân tộc thiểu số, sống ở vùng nông thôn, thu nhập chủ yếu bằng nghề nông nghiệp và nghề tự do nên trình độ dân trí thấp. Phụ huynh học sinh chủ yếu lo miếng cơm manh áo mà chưa chú ý giáo dục con cái toàn diện về mọi mặt. - Đa số học sinh chưa có ý thức tự giác học tập, ít tham khảo sách vở, mãi chơi. Các em chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học. Các em ngại đi tìm tư liệu cho bài học, tiếp thu bài một cách thụ động dẫn đến kết quả bài học cũng như chất lượng giảng dạy bộ môn không cao. 3. Mục tiêu của sáng kiến: Trên cơ sở lý luận đã nêu, việc thực hiện sáng kiến này về cơ bản nhằm đạt được các mục tiêu sau: - Tạo được hứng thú cho học sinh trong học tập ở lớp cũng như ở nhà đối với môn học; kích thích hoạt động sáng tạo, xây dựng cơ hội khám phá, ứng dụng tri thức bằng thúc đẩy hoạt động tìm hiểu thực hành từ đó các em tích cực tham gia vào bài học hơn, tránh được sự nhàm chán trong phương pháp dạy và học truyền thống..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> - Đảm bảo tính chính xác, khoa học, tính rõ ràng về nội dung bài học. Giáo viên dễ dàng trong truyền thụ kiến thức và nhận xét đánh giá học sinh. Học sinh nhanh chóng nắm bắt nội dung bài học, nhận biết và sửa đổi các hành vi sai trái, có nhiều cơ hội phát huy tính tích cực, nhanh chóng nắm được kiến thức tại lớp vận dụng vào thực tế cuộc sống hàng ngày. - Tiết kiệm được thời gian, công sức và kinh phí trong việc chuẩn bị đồ dùng, giáo cụ trực quan trước khi lên lớp đồng thời bám sát yêu cầu của Phương pháp dạy học đổi mới kết hợp phương pháp dạy học truyền thống phù hợp với cả 3 đối tượng học sinh và thực trạng dạy - học của nhà trường. - Vận dụng ứng dụng CNTT, tạo trực quan sinh động (thiết kế trình chiếu Power Point và các hình ảnh minh hoạ…)gắn với nội dung cụ thể của từng bài nhằm xây dựng yếu tố hấp dẫn, lôi cuốn, kích thích tư duy để học sinh nhanh chóng nắm được bài giảng, nhớ lâu, nhớ sâu nội dung bài học. - Thuận lợi, dễ dàng trong kiểm tra đánh giá khả năng nhận thức của học sinh, dự báo sớm được kết quả học tập để có biện pháp bồi dưỡng uốn nắn kịp thời đối với tất cả các đối tượng học sinh. 4. Phạm vi nghiên cứu:.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> TRƯỜNG THCS EAPHÊ. PHẦN II: QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN I. ĐẶC ĐIỂM MÔN GDCD TRONG NHÀ TRƯỜNG: Môn GDCD ở trường THCS là môn học thay thế cho môn Chính trị - Đạo đức trước đây. Đặc điểm của nó là bao quát các kiến thức về Đạo đức học và Pháp luật. Tất nhiên, các kiến thức của nó không quá phức tạp, đòi hỏi tư duy cao. Nó cung cấp những kiến thức cơ bản về quan hệ xử sự trong gia đình (ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em...), quan hệ ứng xử với hàng xóm, quan hệ cộng đồng xã hội. Đồng thời môn học này còn cung cấp những hiểu biết về các quy tắc, quy định của Pháp luật như quyền lao động, quyền công dân... Như vậy, môn GDCD có vị trí rất quan trọng, nó kết hợp với các môn học khác có nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh. Song môn GDCD giáo dục với tính chất cụ thể nhất, trực tiếp nhất. Nội dung các bài học đã trực tiếp xây dựng nên nền tảng tư tưởng, tình cảm đạo đức, trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân đối với gia đình, học đường và cộng đồng xã hội. Vì thế giáo viên dạy bộ môn này cần phải thấy rõ và đánh giá đúng được vị trí, tầm quan trọng của môn học..
<span class='text_page_counter'>(6)</span> II. NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ VẤN ĐỀ TẠO HỨNG THÚ TRONG GIỜ DẠY: Giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh thông qua môn học GDCD đó là việc làm rất khó nhưng bắt buộc. Ở đây, phải xuất phát từ khái niệm đạo đức học của pháp luật để hình thành ở các em những tình cảm đạo đức và các hành vi đạo đức, hành vi pháp luật. Để nâng cao chất lượng, tạo hứng thú cho học sinh, phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học đó là vấn đề mà bất kỳ giáo viên nào khi lên lớp cũng đều mong muốn mình có thể làm tốt điều đó, song thực tế không phải ai cũng thành công. Bằng chứng cho thấy có những giáo viên khi lên lớp học sinh rất thích học, nhưng cũng có những giáo viên khi lên lớp học sinh không có hứng thú với giờ học, môn học, gây ra mất trật tự và kết quả đạt được thấp. Theo tôi để nâng cao chất lượng, phát huy tính tích cực của học sinh, tạo được hứng thú trong giờ học GDCD giáo viên phải nắm vững các nguyên tắc sau: - Giáo dục tư tưởng đạo đức đáp ứng với yêu cầu thiết thực của gia đình, nhà trường và xã hội ở địa phương nơi trường đóng. - Tính thực tiễn trong công tác giáo dục tư tưởng phải xuất phát từ thực tiễn cuộc sống để giáo dục học sinh. - Phải cho học sinh hiểu rõ khái niệm rồi mới rút ra ý nghĩa, cách vận dụng, hình thành tư tưởng, tình cảm cho học sinh. - Giáo dục tư tưởng đạo đức phải phù hợp với đối tượng, phù hợp với chương trình học. Tất cả các nguyên tắc trên là sự kết hợp hài hoà và gắn liền hữu cơ với nhau, không thể coi nặng nguyên tắc này mà coi nhẹ nguyên tắc kia. Một bài giảng gây được hứng thú cho học sinh trước hết phải là một bài giảng có tính giáo dục tốt và phải biết vận dụng kết hợp hài hoà các nguyên tắc trên. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN: Công tác giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh qua môn học GDCD để thực hiện được tốt, theo tôi cách dạy của giáo viên là quan trọng nhất. Giáo viên là người gợi mở, học sinh tự do phát triển. Giáo viên dẫn dắt vấn đề, đưa kiến thức và tình huống bên ngoài cuộc sống để cho giờ học thêm sinh động. Giờ học, học sinh phải được phát biểu theo sự hiểu biết của mình gắn với bài học giúp học sinh say mê với môn học. Giáo viên như một người bạn, người tâm giao, có vướng mắc là các em hỏi ngay mà không ngại. Với SGK, giáo viên dựa vào khung sườn từ đó có cách gợi mở với mỗi bài học để học sinh chủ động. Từ kiến thức nền đó, giáo viên “biến hóa” để học sinh hiểu bài, biết thế nào là tốt - xấu, nếu gặp tình huống xấu cần sự giúp đỡ ở đâu...Tuy nhiên,.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> cũng có cái khó là đồ dùng dạy học còn hạn chế, tranh ảnh minh họa ít, phần lớn giáo viên phải tự chuẩn bị, tự sưu tầm, việc sưu tầm tư liệu có thể mất khá nhiều thời gian. Thực tế, nếu rập khuôn theo SGK thì môn GDCD là khô cứng, giáo điều, học sinh rất khó hiểu. Chương trình lớp 9 khó, nhiều bài liên quan đến chính trị, tư tưởng như “Lý tưởng sống của thanh niên”, hay “Tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới”... Kiến thức đưa vào thì giáo viên phải dạy và học sinh đều phải học. Tuy nhiên, để minh họa rõ cho bài học thì khá khó khăn. Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học GDCD cần chú ý các biện pháp sau: 1. Biện pháp đưa thực tiễn, tư liệu cuộc sống vào bài giảng: Những tư liệu này phải phong phú, cập nhật những vấn đề mang tính thời sự mà học sinh quan tâm. Muốn vậy, đòi hỏi người giáo viên phải thường xuyên theo dõi những vấn đề của xã hội đặc biệt khi đọc các thông tin trên báo, mạng Internet, truyền hình ...giáo viên lưu lại những vấn đề có thể phục vụ cho bài giảng. 2. Biện pháp nêu gương: Mỗi khái niệm đạo đức, pháp luật, mỗi chủ đề cần đưa gương tốt về người thật, việc thật. Đồng thời cả những gương không tốt để học sinh tránh. Những tấm gương nêu ra phải được nhiều học sinh biết, đặc biệt là những tấm gương ở trường, địa phương mình. 3. Biện pháp mời báo cáo ngoại khoá: Ví dụ: - Mời báo cáo tuyên truyền về an toàn giao thông. - Báo cáo về truyền thống cách mạng của địa phương. Bên cạnh giờ lên lớp của giáo viên bộ môn GDCD, nhà trường tổ chức giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các hoạt động ngoại khóa, qua lễ chào cờ đầu tuần, giờ sinh hoạt lớp...giúp HS hiểu rõ hơn các “chuyển động” trong đời sống xã hội. Ứng dụng trong bài dạy cụ thể: Ví dụ 1: Bài 14 “Bảo v ệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên” GDCD 7 (Tiết 2) Đối với bài này, tôi xác định đây là một bài rất có ý nghĩa, gần gũi với đời sống sinh hoạt hàng ngày của học sinh; các kiến thức của bài vừa sức đối với học sinh. Nhưng làm thế nào để học sinh dễ hiểu, hiểu sâu sắc; bài dạy gây ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn học sinh. Tôi suy nghĩ và vận dụng các biện pháp tích hợp để tạo hứng thú trong giờ dạy. Tuy nhiên, yếu tố không thể thiếu để làm nên thành công trong giờ dạy đó là sử dụng công nghệ thông tin (trình chiếu Power Point) sử dụng các thiết bị điện tử (Đầu chiếu, băng, đĩa Audio, video..,).
<span class='text_page_counter'>(8)</span> Đối với mục tìm hiểu khái niệm: “Thế nào là bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên”? tôi đưa các tư liệu, hình ảnh trong cuộc sống vào bài giảng. Những tư liệu này không chỉ học sinh quan tâm mà toàn xã hội đang quan tâm. Cụ thể các hình ảnh như sau:.
<span class='text_page_counter'>(9)</span> ĐỂ MÔI TRƯỜNG MÃI MÃI XANH TƯƠI.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> Học sinh quan sát ảnh và sau đó GV nêu câu hỏi: Những việc làm trên nói lên điều gì?( Học sinh có thể trả lời: Những việc làm trên nói lên việc bảo vệ môi trường của học sinh, thanh niên…). Từ đó cho học sinh thấy được ý nghĩa việc làm của họ, đó là làm cho môi trường trong lành, sạch đẹp…đem đến cho con người cuộc sống ấm no, hạnh phúc góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh tự rút ra khái niệm “Thế nào là bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên”? Khi học sinh trình bày ý kiến của mình, giáo viên viết tóm tắt ý kiến lên bảng, gạch chân các cụm từ quan trọng. Giáo viên nhận xét, đối chiếu với đáp án mà giáo viên đã chuẩn bị trước trình chiếu lên màn hình, học sinh theo dõi và ghi bài. Ví dụ 2: Bài 10 “Lí tưởng sống của thanh niên” GDCD 9. Đây là một bài dạy khó, các kiến thức của bài khá trừu tượng đối với học sinh. Vậy làm thế nào để học sinh dễ hiểu, có hứng thú học tập. Vì vậy, với phần nội dung “Cách rèn luyện của thanh niên, học sinh” tôi yêu cầu học sinh: Em hãy nêu những tấm gương thanh niên ngày nay ở quê hương em sống có lí tưởng? Sau khi học sinh nêu xong, tôi giới thiệu một số tấm gương sống có lí tưởng ở trường, được quảng bá trên đài, báo, truyền hình...,để học sinh thấy và hiểu được gương sáng người thật, việc thật mà học tập, noi theo. Những tấm gương mà tôi nêu ra rất gần gũi với học sinh đó là những tấm gương ngay ở trường, ỏ địa phương Eaphê học sinh biết rất rõ. Như: Thầy YBHET Aỹun; Thầy YPHAN Aỹun…Các thầy đã từng có ước mơ được trở thành người thầy giáo, cô giáo để góp một phần nhỏ sức lực của mình xây dựng quê hương đất nước ngày một giàu mạnh và họ đã phấn đấu, rèn luyện bằng những hành động cụ thể của mình biến ước mơ trở thành hiện thực. Và nay Thầy Phan và thầy Bhet là giáo viên đang giảng dạy ở trường. Cũng có thể là những tấm gương trong thời kì kháng chiến, hoặc trong sử sách mà gây một làn sóng trong giới thanh niên làm thay đổi cách sống, suy nghĩ của thanh niên đó là Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thuỳ Trâm...tôi đã đưa cả hình ảnh 2 cuốn nhật kí của hai liệt sĩ để học sinh quan sát..
<span class='text_page_counter'>(11)</span> Từ các tấm gương, hình ảnh đó học sinh biết mình phải rèn luyện như thế nào để trở thành công dân có ích cho xã hội, tránh sa vào các tệ nạn xã hội. Có thể nói, hình ảnh trên đã tác động đến tâm lí, hành vi của các em và từ đó hướng các em đi đúng con đường mà xã hội đang cần và mong muốn. IV. KẾT QUẢ: - Với những biện pháp mà tôi đã vận dụng trong từng bài dạy của mình, đa số học sinh hiểu và nắm vững nội dung bài học. Các em biết vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống, đặc biệt định hướng được sự hình thành kĩ năng sống của mỗi học sinh. - Điều quan trọng hơn đó là học sinh có hứng thú trong giờ học môn GDCD, các em thấy đây là môn học thực sự bổ ích, giúp các em hình thành tư tưởng đạo đức đúng đắn, biết sống có lí tưởng, có mục đích, sống là để cống hiến..
<span class='text_page_counter'>(12)</span> Trong những năm học qua, bản thân tôi chưa thực hiện được nhiều bài giảng có sử dụng công nghệ thông tin, nhưng qua những tiết dạy có sử dụng Công nghệ thông tin, tôi đã lấy ý kiến học sinh và được các em trả lời: Bài học dễ hiểu, dễ nhớ, tạo được hứng thú cho các em, các em khắc sâu được kiến thức của bài học. * Kết quả đạt được trong những năm học qua cụ thể như sau: ( Năm học chưa áp dụng sáng kiến ) KHỐI LỚPNĂM HỌC. SĨ SỐ. XẾP LOẠI GIỎI. XẾP LOẠI KHÁ. XẾP LOẠI TB. XẾP LOẠI YẾU. 7 (2009-2010). 43. 7. 20. 15. 1. 9 (2009-2010). 32. 4. 17. 10. 0. GHI CHÚ. ( Năm học đã áp dụng sáng kiến ) KHỐI LỚP-. SĨ SỐ. XẾP LOẠI GIỎI. XẾP LOẠI KHÁ. XẾP LOẠI TB. XẾP LOẠI YẾU. 7 (2010-2011). 39. 7. 22. 10. 0. 9 (2010-2011). 29. 6. 18. 5. 0. NĂM HỌC. GHI CHÚ. PHẦN III: NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: 1.Tính giáo dục: Qua việc thực hiện trên, trong những năm học qua tôi thấy rằng nếu giáo viên thường xuyên có ý thức tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, chịu khó tìm tòi sáng tạo tìm cách đổi mới PPDH, đầu tư thời gian nghiên cứu để ứng dụng công nghệ hiện đại vào giảng dạy một cách phù hợp với bộ môn thì sẽ đem lại hiệu quả giáo dục rất cao, không chỉ đối với học sinh mà các thầy cô giáo cũng sẽ không ngừng nâng cao nghiệp vụ và sự hiểu biết. a) Đối với giáo viên: - Thông qua ứng dụng các biện pháp trên sẽ phát huy việc đổi mới PPDH, đáp ứng được yêu cầu thực hiện cuộc vận động ứng dụng Công nghệ thông tin vào công tác giảng dạy mà Bộ GD phát động; góp phần thúc đẩy phong trào giảng dạy ứng dụng Công nghệ thông tin trong nhà trường. - Bằng việc chuẩn bị tốt cho giờ dạy(đầu tư tìm tư liệu xây dựng giáo án)giúp giáo viên khắc sâu kiến thức cần dạy, mở rộng, liên hệ, tích hợp kiến thức ở các phân.
<span class='text_page_counter'>(13)</span> môn khác tạo điều kiện để học sinh nhanh chóng tiếp thu và vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống, đẩy mạnh việc rèn luyện tư tưởng đạo đức cho học sinh. - Giáo viên đỡ phải vất vả viết bảng nhiều như phương pháp dạy học truyền thống (bảng chỉ cần ghi những đề mục lớn và nội dung cơ bản của bài). - Tiết kiệm được thời gian, công sức và kinh phí trong việc chuẩn bị đồ dùng, giáo cụ trực quan, giáo viên sẽ nhanh chóng nâng cao kỹ năng về Công nghệ thông tin. - Giáo viên phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong việc hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức và vận dụng kiến thức đó vào thực tế cuộc sống. - Có nhiều điều kiện tạo tình huống có vần đề để kích thích học sinh tư duy, phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh. - Thuận lợi, dễ dàng trong kiểm tra đánh giá khả năng nhận thức của học sinh, dự báo sớm được kết quả học tập để có biện pháp bồi dưỡng, uốn nắn kịp thời đối với tất cả các đối tượng học sinh. b) Đối với học sinh: - Thay cho việc chỉ sử dụng, phụ thuộc vào SGK là duy nhất, nay học sinh được sử dụng những phương tiện có tác dụng tốt trong việc tạo hứng thú học tập cho học sinh: Các em được nhìn - nghe - nói - viết một cách trực quan sinh động; được thảo luận trong nhóm học tập của mình, được đưa ra ý kiến, được rèn luyện các kĩ năng nói và viết của bản thân. - Tạo trực quan rất sinh động cho học sinh, các em có điều kiện phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập của mình. - Học sinh có nhiều điều kiện làm quen và học tập ứng dụng Công nghệ thông tin kết hợp học đi đôi với hành, bám sát thực tế cuộc sống nhất là với học sinh con em dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa vì các em ít có điều kiện tiếp cận, ứng dụng với máy tính, với khoa học công nghệ. 2. Tính thực tiễn và giá trị phổ biến: Như trên tôi đã trình bày, việc tìm kiếm tư liệu và chọn lọc các biện pháp phù hợp với từng bài dạy kết hợp với các phương pháp dạy học đổi mới khác sẽ đạt hiệu quả, nâng cao chất lượng dạy và học không chỉ đối với môn GDCD mà còn ở tất cả các môn học khác. Tôi thiết nghĩ điều đó hoàn toàn khả thi trong từng tiết dạy của các bộ môn bởi lẽ:.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> - Phương pháp giáo dục "Lấy học sinh làm trung tâm" coi thiết bị dạy học như một nguồn thông tin dẫn học sinh tự tìm tòi để tiếp cận và vận dụng những kiến thức mới vào thực tiễn. - Việc xây dựng các biện pháp đổi mới để giảng dạy đối với những môn học không có sẵn thiết bị là điều vô cùng cần thiết và cũng không tốn kém, dễ làm, dễ sử dụng. Đồng thời dễ chỉnh sửa để giảng dạy phù hợp với nhiều đối tượng học sinh ở các lớp khác nhau; hơn nữa có thể tái sử dụng cho những năm sau và lại dễ phổ biến rộng rãi nhờ sự phát triển của Công nghệ thông tin như hiện nay . 3. Đề xuất ý kiến: - Đề nghị Nhà trường, Phòng Giáo dục và Sở Giáo dục lưu lại, phổ biến những kinh nghiệm hay và thiết thực, có tính khả thi cao để triển khai rộng rãi, giúp giáo viên có điều kiện tham khảo, học tập và vận dụng trong giảng dạy hằng ngày. - Đề nghị các cấp, các ngành tạo điều kiện trang bị đầy đủ và cập nhật hơn về các thiết bị CNTT phục vụ công tác dạy và học, đặc biệt là các trường vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn. - Tạo điều kiện về kinh phí và có hình thức khen thưởng, động viên xứng đáng hơn đối với các thầy cô giáo nhiệt tình học hỏi, có nhiều sáng tạo và vận dụng PPDH đổi mới góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.. PHẦN IV: KẾT LUẬN Trên đây là những suy nghĩ và việc làm của cá nhân tôi. Đó là những ý kiến, việc làm rất nhỏ góp phần vào việc đổi mới PPDH cũng như nâng cao chất lượng dạy học. Theo tôi đây là cách dạy và học tập tốt, học đi đôi với hành, rất phù hợp với đặc trưng bộ môn. Việc xây dựng, sử dụng tư liệu, đồ dùng dạy học đúng lúc, đúng chỗ, phù hợp với nội dung bài dạy sẽ góp phần kích thích hứng thú học tập của học sinh. Các em sẽ tích cực hơn, thích phát biểu xây dựng bài, theo dõi bài chăm chú hơn; ghi chép cẩn thận hơn vì có những trực quan sinh động, tích hợp. Các em sẽ có điều kiện học tập tốt hơn, nhanh chóng hiểu sâu, hiểu kỹ nội dung bài học; tăng cường kỹ năng vận dụng thực hành. Mỗi giáo viên hoàn toàn có khả năng tự học, tự làm, tự nâng cao về mọi mặt cho bản thân mà không cần phải đầu tư kinh phí quá tốn kém. Vấn đề là ở chỗ người thầy cần có kế hoạch học tập, tìm hiểu, nghiên cứu và ứng dụng sáng tạo; tâm huyết với nghề để ngày càng phát huy hiệu quả Công nghệ thông tin và sự hữu.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> ích của nó trong giảng dạy bộ môn GDCD nói riêng cũng như các bộ môn khác trong nhà trường nói chung. Để có những giờ dạy đạt hiệu quả cao, học sinh dễ hiểu, dễ ghi nhớ nội dung là một việc làm không quá khó. Trong qúa trình giảng dạy tôi mạnh dạn nêu một vài kinh nghiệm nhỏ của mình. Rất mong nhận được sự trao đổi, đóng góp ý kiến của các thầy cô đồng nghiệp, nhất là thầy cô cùng chuyên môn để học sinh hào hứng hơn với môn học này, hướng tới mục đích ngày càng nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD trong trường THCS. Tôi xin chân thành cảm ơn! Eaphê, Ngày20 tháng 11 năm 2012 Người viết. Đinh Văn Bình..
<span class='text_page_counter'>(16)</span> * Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM: ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………. Eaphê, ngày......tháng.......năm 2012 Chủ tịch Hội đồng xét duyệt.
<span class='text_page_counter'>(17)</span>