Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Luận văn thạc sĩ tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI


LÊ THỊ THU HẰNG

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC DO NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ BIÊN HỊA, TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Tp. Hồ Chí Minh, 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI


LÊ THỊ THU HẰNG

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC DO NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ BIÊN HỊA, TỈNH ĐỒNG NAI



Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HỒ SỸ SƠN

Tp. Hồ Chí Minh, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa học của
cá nhân tơi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Hồ Sỹ Sơn. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Lê Thị Thu Hằng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN
HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ............................................. 7
1.1. Những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác ......................................................................................... 7
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ........................... 19
Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC
KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN
TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI.................................. 23
2.1. Quy định về định tội danh và quyết định hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác ................................................................................... người dưới 18 tuổi 23
2.2. Thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18
tuổi thực hiện tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ................................... 38
Chương 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG
TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC55
DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN................................................ 55
3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực
hiện .................................................................................................................. 55


3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18
tuổi thực hiện................................................................................................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 71


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS


Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng Hình sự

CTTP

Cấu thành tội phạm

CYGTT

Cố ý gây thương tích

HĐXX

Hội đồng xét xử

TAND

Tịa án nhân dân

THTT

Tiến hành tố tụng

TNHS

Trách nhiệm hình sự


TTHS

Tố tụng Hình sự

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

QĐHP

Quyết định hình phạt


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm, được pháp luật
quốc tế và pháp luật mỗi quốc gia thừa nhận, ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ vơ
điều kiện; cịn quyền được bảo hộ về sức khỏe là một trong các quyền cơ bản của
con người, của công dân. Tại Điều 20 Hiến pháp năm 2013, nhà làm luật nước ta
cũng quy định rằng mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khỏe, không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay
bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm đến thân thể, sức khỏe.
Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực,
tinh thần, trí tuệ và nhân cách; có sự hạn chế về kinh nghiệm sống, kiến thức
pháp luật, dễ bị tác động, chi phối bởi điều kiện sống; thích bắt chước, đua đòi,
muốn chứng tỏ bản thân, dễ nổi nóng, khơng kiềm chế được hành vi của mình.
Nếu khơng được sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục và bảo vệ từ gia đình, nhà
trường, nhà nước và xã hội dễ dẫn đến việc đối tượng này nhận thức lệch lạc,
trong quá trình giao lưu xã hội sẽ dễ bị các đối tượng xấu lơi kéo, kích động, sa

ngã, tham gia vào các băng nhóm tội phạm và vi phạm pháp luật.
Thành phố Biên Hịa là đơ thị loại I thuộc tỉnh Đồng Nai, có tốc độ đơ thị
hóa cao, kinh tế phát triển với nhiều khu công nghiệp đã thu hút đông đảo người
lao động đến sinh sống và làm việc. Điều này đã làm cho dân số tại thành phố
Biên Hòa tăng cơ học nhanh [1, tr1]. Trong những năm gần đây, bên cạnh những
chuyển biến tích cực về kinh tế, xã hội thì tình hình tội phạm diễn ra trên địa bàn
thành phố cũng rất phức tạp, trong đó có tội cố ý gây thương tích là tội phạm trực
tiếp xâm hại đến sức khỏe của con người, gây mất an ninh, trật tự xã hội, là loại
tội phạm điển hình và phổ biến. Đặc biệt là tình trạng thanh thiếu niên tụ tập,
mâu thuẫn, gây thương tích cho nhau hoặc cho người khác đang là vấn đề mà các
cơ quan bảo vệ pháp luật và chính quyền thành phố Biên Hòa lưu ý, quan tâm.

1


BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có quy định về “Tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” tại Điều 134, đồng thời
dành một chương về “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” Chương X. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong xử lý người
dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm này cho thấy vẫn còn những vấn đề nhận thức
khác nhau do có một số quy định còn chưa thống nhất và chưa phù hợp với thực
tiễn. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam hiện hành về “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác” và “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”, thực
tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học cũng như đề xuất các giải pháp hoàn
thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định đó khơng chỉ có ý
nghĩa lý luận, thực tiễn quan trọng mà còn là vấn đề cần thiết. Đây cũng là lý do
luận chứng cho việc tác giả chọn đề tài “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện từ thực tiễn
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trước hết cần nhấn mạnh rằng, tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện được phân biệt với tội CYGTT
do người đã thành niên thực hiện chủ yếu bởi độ tuổi của chủ thể thực hiện tội
phạm. Bởi vậy, có một số điểm khác biệt trong định tội danh (theo CTTP mà ở
đó chủ thể phải chịu TNHS) và trong quyết định hình phạt. Tuy nhiên, tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi
thực hiện là đề tài ít được nghiên cứu. Trong khi đó, tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác (gắn với địa bàn cụ thể), lại được đề cập nghiên cứu
khá nhiều trong các cơng trình khoa học ở các cấp độ khác nhau. Trước tiên, đó
là cơng trình nghiên cứu của GS.TS Võ Khánh Vinh, Giáo trình Luật Hình sự
Việt Nam (Phần các tội phạm), Ths.Đinh Văn Quế, Bình luận Bộ luật Hình sự
năm 2015 (Phần thứ nhất về những quy định chung; Phần thứ hai về các tội

2


phạm Chương XIV: các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
của con người). Bên cạnh đó cịn có các cơng trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn
thạc sĩ, điển hình như: Lê Đình Tĩnh (2014), Các tội CYGTT hoặc gây tổn hại
sức khỏe của người khác trong Luật Hình sự Việt Nam; Dương Mai Phương
(2017), Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn, Học viện Khoa học xã hội; Bùi
Mạnh Trung (2016), Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, Học viện Khoa
học xã hội;…
Theo khảo sát của tác giả, các cơng trình nghiên cứu này đã phân tích những
vấn đề lý luận, thực trạng quy định và thực trạng áp dụng pháp luật về tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại các địa bàn khác nhau,
nhưng không phải tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Rõ ràng, tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi

thực hiện tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai chưa được đề cập nghiên cứu.
Tuy nhiên, những kiến thức, cách tiếp cận nghiên cứu, những vấn đề được đề cập
nghiên cứu trong các cơng trình nghiên cứu nói trên được tác giả tiếp thu để thực
hiện các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng mục đích vào làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác tại thành phố Biên Hịa, tỉnh Đồng Nai, từ đó đề
xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

3


Để thực hiện luận văn, tác giả cần nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau
đây:
- Trình bày và phân tích những vấn đề lý luận về tội danh CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác.
- Phân tích quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội danh này; về xử
lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
- Phân tích các yêu cầu và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng
pháp luật hình sự đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác do người dưới 18 tuổi thực hiện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (gồm: khái niệm; các dấu hiệu pháp lý
của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, như: khách thể,
mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan; những điểm giống nhau và khác nhau
giữa tội này với một số tội khác được quy định tại BLHS hiện hành;…) và thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam trong xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
và về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (có so sánh với các quy
định tương ứng của BLHS năm 1999).

4


Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện có nhiều nội dung.
Tuy nhiên, trong phạm vi một luận văn thạc sĩ vốn bị giới hạn bởi số trang thực
hiện, nên luận văn này chủ yếu tập trung vào hai nội dung chính của xét xử sơ
thẩm vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới
18 tuổi thực hiện, là định tội danh và QĐHP đối với người chưa thành niên phạm
tội này.
Các số liệu xét xử (về định tội danh và quyết định hình phạt) phục vụ cho
việc nghiên cứu, được thu thập từ thực tiễn xét xử của TAND thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu

Đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh;
Chủ trương, đường lối của Đảng; Chính sách, pháp luật của Nhà nước về tội
phạm, hình phạt, phịng, chống tội phạm, cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, tư pháp, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện luận văn, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khác như: so sánh, phân tích, thống kê, tổng hợp hoặc nghiên cứu án điển
hình…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần nhận thức sâu sắc và thống nhất
trong giới khoa học pháp lý nói chung và khoa học luật hình sự nói riêng về
những vấn đề lý luận và pháp luật về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác và về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội này, từ

5


đó có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu
khoa học pháp lý hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định pháp luật hình sự về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện ở nước ta. Ngoài ra, kết quả nghiên
cứu của luận văn cịn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các sinh
viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh, các cơ quan chức năng, cán bộ chuyên
ngành tư pháp hình sự trong quá trình nghiên cứu, đào tạo cũng như trong thực
tiễn cơng tác đấu tranh phịng, chống tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác do người dưới 18 tuổi thực hiện ở nước ta trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các nội dung như: mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo
thì kết cấu của Luận văn gồm có:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người dưới 18 tuổi
thực hiện tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình
sự đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do người
dưới 18 tuổi thực hiện.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC
KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
1.1. Những lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Để có thể xây dựng khái niệm về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác, trước hết cần nhận thức thế nào là tội phạm. Tại khoản 1 Điều 8
BLHS năm 2015, nhà làm luật nước ta đã xác định khái niệm “Tội phạm là hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS
hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính

trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” [3, tr.13].
Tại khoản 2 của Điều luật trên đây, nhà làm luật quy định: “Những hành vi
tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng
kể thì khơng phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác” [3, tr.13].
Như vậy, BLHS năm 2015 ghi nhận khái niệm tội phạm với các dấu hiệu mang
tính nội dung và các dấu hiệu mang tính hình thức của tội phạm bao gồm tính
nguy hiểm (đáng kể) cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi và tính
phải chịu hình phạt [10, tr.62], đồng thời từ nội hàm của khái niệm này đã giúp
phân biệt những hành vi nguy hiểm cho xã hội được xem là tội phạm với những
hành vi không phải là tội phạm.

7


Con người với tư cách là một thực thể tự nhiên và với tư cách là một cá
nhân được đặt trong mối quan hệ với gia đình và xã hội. Con người là vốn quý, là
giá trị cao nhất của xã hội, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. “Con
người với tư cách nói trên có các quyền và tự do nhất định. Các quyền và tự do
đó được Nhà nước bảo hộ và bảo vệ. Trong Tuyên ngôn nhân quyền thế giới
ngày 10/12/1948, tại Điều 3 quy định: “Mọi người đều có quyền sống, được tự
do và bảo đảm an ninh”. Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước ta cũng thống nhất
thể hiện việc bảo hộ và bảo vệ này thông qua các quy định tại Chương II về
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân; trong đó đặc biệt nhấn
mạnh “mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ.
Khơng ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” (Điều 19). Bên cạnh đó, Điều 20 Hiến
pháp năm 2013 cũng quy định rằng: “mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị

tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm
phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”…”[19, tr. 56].
Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) đã dành một chương riêng tiếp sau chương các tội xâm phạm an ninh
quốc gia quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
của con người, trong đó tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác được quy định tại Điều 134, Chương XIV. Mặc dù vậy, BLHS nước ta vẫn
chưa đưa ra khái niệm thế nào là tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. Trong khi đó, trong khoa học luật hình sự nước ta có khá nhiều quan
niệm về tội này. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng: “Tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác là hành vi tác động trái pháp luật đến thân thể
của người khác, gây thiệt hại cho sức khỏe dưới dạng thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong các trường hợp luật định” [6, tr.96,97].
Theo một quan điểm khác, thì “Tội CYGTT là hành vi cố ý l à m cho người khác
bị thương, xâm phạm quyền được bảo hộ về sức khoẻ của con người. Hành vi

8


CYGTT bị coi là tội phạm, tội phạm đó được quy định tại BLHS” [4, tr.44]. Cũng
có quan điểm cho rằng: “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác là hành vi của một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại
đến sức khỏe” [9, tr.126].
Từ những điều phân tích trên đây, kết hợp trong một tổng thể các quan niệm
của các nhà khoa học, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về khái niệm tội
phạm nói chung và về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,
có thể hiểu “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành
vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người đủ độ tuổi và có
năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật thực hiện một cách cố
ý xâm phạm quyền được bảo vệ sức khỏe của con người, công dân, gây ra những

thiệt hại nhất định về sức khỏe cho họ”.
Với tính cách là tội phạm (nói chung), tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác có các dấu hiệu cơ bản của một tội phạm, đó là: tính nguy
hiểm (đáng kể) cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi và tính phải
chịu hình phạt. Là một tội phạm cụ thể, tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác cịn có những dấu hiệu pháp lý riêng của mình, cụ thể là:
- Về khách thể:
“Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo
vệ và bị tội phạm xâm hại”. Khách thể của tội phạm là yếu tố bắt buộc của tội
phạm. Khơng có khách thể bị xâm hại thì khơng thể có tội phạm [18, tr.131].
Theo cách hiểu này, khách thể của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác đó là quyền bất khả xâm phạm, quyền được tôn trọng và
quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người. Với tư cách là thực thể tự nhiên
và chủ thể xã hội, người đang sống và tồn tại trong thế giới hiện thực khách quan
chính là đối tượng tác động của tội phạm này.
- Về mặt khách quan:
“Mặt khách quan của tội phạm là mặt biểu hiện bên ngoài của tội phạm, là

9


những biểu hiện của tội phạm ra thế giới khách quan, bao gồm: hành vi nguy
hiểm cho xã hội (hành động và không hành động), hậu quả nguy hiểm cho xã hội,
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi
đó gây ra, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội, công cụ, thủ đoạn, phương
tiện phạm tội…” [18, tr.131]. Theo đó, bất kỳ tội phạm nào cũng đều có những
mặt biểu hiện bên ngoài ra thế giới khách quan, nếu khơng có những mặt biểu
hiện bên ngồi thì khơng thể có tội phạm.
Mặt khách quan của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác vì vậy được hiểu là biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm với các dấu hiệu

đặc trưng là: hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm; hậu quả nguy hiểm cho
xã hội của tội phạm; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm; thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, phương tiện, công cụ
phạm tội,…
+ Hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác là hành vi gây thương tích hoặc tổn thương khác làm tổn hại
đến sức khỏe của con người. Hành vi đó có thể là hành động hoặc khơng hành
động, có thể được thực hiện với cơng cụ, phương tiện phạm tội hoặc khơng có
cơng cụ, phương tiện phạm tội hoặc có thể thơng qua súc vật hay cơ thể người
khác nhằm đạt được mục đích mong muốn. Hành vi khách quan của tội phạm này
có 03 đặc điểm, đó là: có tính nguy hiểm cho xã hội; có ý thức, có ý chí và trái
pháp luật hình sự.
+ Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác chủ yếu gây ra thiệt hại về sức khỏe của nạn nhân, nhưng
cũng có một số trường hợp gây ra thiệt hại về vật chất và tinh thần cho nạn nhân.
Theo quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), hậu
quả của tội phạm này là gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỷ lệ thương tích hoặc tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc
dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp do BLHS quy định thì vẫn bị

10


truy cứu TNHS theo khoản 1 của Điều luật này.
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm là “mối quan hệ khách quan giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu
quả đã xảy ra, trong đó hành vi nguy hiểm cho xã hội, xét về mặt thời gian xảy ra
trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội, chuẩn bị và xác định khả năng thực tế bên
trong làm phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội và là nguyên nhân chính và
trực tiếp tất yếu gây ra hậu quả đó”[18, tr.174, 175]. Theo đó, mối quan hệ giữa

hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với hậu
quả xảy ra là nạn nhân bị thương tích hay bị tổn hại đến sức khỏe với tỷ lệ nhất
định và theo quy định của pháp luật hình sự.
Do tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là cấu thành
tội phạm vật chất nên mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thương tích, gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác với hậu quả xảy ra là dấu hiệu bắt buộc của
CTTP này. Điều đó có nghĩa là phải xác định chính hành vi gây thương tích, gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác đã gây ra thương tích hoặc tổn hại đó; nói
cách khác, giữa hành vi khách quan gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác với hậu quả của tội phạm này ln có mối quan hệ mật thiết với
nhau, hỗ trợ lẫn nhau; hành vi nguy hiểm cho xã hội đóng vai trị là ngun nhân
và hậu quả nguy hiểm cho xã hội đóng vai trị là kết quả; hành vi phạm tội phải
xảy ra trước hậu quả thương tích hoặc tổn hại sức khỏe, đồng thời hậu quả
thương tích hoặc tổn hại sức khỏe xảy ra phải phù hợp với khả năng thực tế của
hành vi làm phát sinh hậu quả đó.
Ngồi các dấu hiệu đặc trưng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả
nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội
và hậu quả do hành vi đó gây ra của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác thì mặt khách quan của tội phạm này cịn có các biểu hiện bên
ngồi khác, như: thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội, công cụ, phương tiện
phạm tội, phương pháp, thủ đoạn phạm tội,...Tuy nhiên, những dấu hiệu đó

11


không phải là dấu hiệu bắt buộc (tức không phải là dấu hiệu định tội) của tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
- Về chủ thể:
Theo pháp luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm là thể nhân hoặc
pháp nhân thương mại có đủ yếu tố của chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, đối với

tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chủ thể của tội phạm
chỉ là thể nhân - con người cụ thể đã cố ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
được BLHS quy định là tội phạm trong tình trạng có năng lực TNHS và đạt độ
tuổi nhất định do pháp luật quy định. Bởi vậy, học viên chia sẻ với quan điểm
cho rằng: “Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, nhưng không phải ai thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng đều là chủ
thể của tội phạm, mà chỉ những người có năng lực TNHS mới là chủ thể của tội
phạm” [8, tr.46]. Nói cách khác, năng lực TNHS và đạt độ tuổi nhất định theo
luật định là các dấu hiệu bắt buộc để coi một người là chủ thể của tội phạm hay
khơng. Vậy năng lực TNHS là gì? Đó là “Khả năng của một người ở thời điểm
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi do mình thực hiện và điều khiển có ý thức hành vi đó” [18,
tr.182]. Để có thể là người có năng lực TNHS, người đó phải là người khơng mắc
bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo làm mất khả năng nhận thức, khả năng điều
chỉnh hành vi của mình, tức là người đó phải nhận thức được tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi mà mình sẽ thực hiện, biết được hành vi đó là đúng hay
sai, có phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội hay không. Thực tiễn cho thấy,
thông qua lao động, học tập, khả năng nhận thức của con người được hình thành,
cịn qua q trình phát triển cơ thể của con người (tức phải ở độ tuổi nhất định)
thì con người mới có khả năng điều khiển hành vi của chính mình. Như vậy, phải
đạt đến độ tuổi nhất định thì con người mới có khả năng nhận thức và khả năng
điều khiển hành vi của mình.
Về tuổi chịu TNHS của chủ thể của tội phạm là cá nhân (thể nhân), tại Điều

12


12 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: Người từ đủ 16 tuổi
trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có
quy định khác; Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội

phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong
các điều: 123; 134; 141; 142; 143; 144; 150; 151; 168; 169; 170; 171; 173; 178;
248; 249; 250; 251; 252; 265; 266; 286; 287; 289; 290; 299; 303 và 304 [10,
tr.85].
Từ quan điểm của nhà làm luật về chủ thể của tội phạm như nêu trên, có thể
xác định chủ thể của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) phải là
người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi do luật quy định, nghĩa là người đó
khơng mắc bệnh tâm thần hay các loại bệnh khác làm mất đi khả năng nhận thức,
khả năng điều khiển hành vi của mình, đồng thời phải đạt độ tuổi từ đủ 16 tuổi
trở lên thì mới phải chịu TNHS về mọi hành vi phạm tội do mình gây ra, hoặc đạt
độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi mà phạm tội thì chỉ phải chịu TNHS được quy
định tại khoản 3, khoản 4, khoản 5 Điều 134, còn những người dưới 16 tuổi
phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 6 của Điều luật
này thì không phải chịu TNHS.
- Về mặt chủ quan:
Mặt chủ quan của tội phạm được hiểu là“mặt bên trong của tội phạm, là
thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do họ
thực hiện và với hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc đối với khả năng
gây ra hậu quả đó” [18, tr.197], bao gồm các dấu hiệu: lỗi, động cơ phạm tội và
mục đích phạm tội.
+ Lỗi được hiểu là “thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội, đối với hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc khả năng
gây ra hậu quả đó, được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vơ ý” [18, tr.200]. Lỗi
của người CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là lỗi cố ý. Khi

13


thực hiện hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, người

phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật
hình sự cấm bằng nguy cơ áp dụng hình phạt, gây ra hoặc có thể gây ra hậu quả
nguy hiểm nhất định, song vẫn thực hiện và mong muốn cho hậu quả xảy ra (cố ý
trực tiếp) hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra (cố ý gián tiếp).
+ Trong luật hình sự Việt Nam, động cơ phạm tội là “động lực bên trong
được quyết định bởi các nhu cầu và lợi ích đã được nhận thức thúc đẩy người
phạm tội thực hiện tội phạm” [18, tr.212].
+ Mục đích phạm tội là “quan niệm của người phạm tội về những thay đổi
trong thế giới khách quan mà người đó muốn đạt được bằng việc thực hiện tội
phạm” [18, tr.212].
Khác với dấu hiệu lỗi, trong cấu thành tội phạm tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác, dấu hiệu động cơ phạm tội và dấu hiệu mục
đích phạm tội khơng phải là dấu hiệu bắt buộc, tức dấu hiệu định tội của CTTP.
1.1.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác với một số tội cụ thể khác
1.1.2.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trường hợp làm chết người với tội giết người
Thực tiễn cho thấy trong nhiều trường hợp, việc phân biệt tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội giết người là rất phức tạp; mỗi
nơi áp dụng một kiểu và ngay trong cùng một cơ quan THTT thì người này có
quan điểm giết người, cịn người khác cho rằng chỉ CYGTT.
Ngày 06/4/2016, Chánh án TAND tối cao đã ban hành Quyết định số
220/QĐ-CA công bố án lệ vụ án về tội giết người và tội CYGTT dẫn đến chết
người đã được Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thông qua tại Án lệ số
01/2016/AL. Tuy nhiên, thực tiễn đấu tranh phòng, chống hai tội phạm này cũng
còn nhiều vấn đề chưa được lý giải, nhiều vụ án vẫn còn ý kiến khác nhau giữa
các cơ quan THTT, người THTT và người bào chữa.

14



Vì vậy, việc nghiên cứu và phân biệt giữa tội giết người quy định tại Điều
123 với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại
Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Trên cơ sở các dấu hiệu đặc trưng của
tội giết người và tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trường hợp làm chết người, chúng ta có thể nhận định sự giống nhau và khác
nhau cơ bản giữa hai tội này.
* Về sự giống nhau, ở hai tội này, người phạm tội đều thực hiện hành vi là
do cố ý; đều thực hiện hành vi (hành động) tương tự như nhau (bắn, đâm, chém,
đánh, đấm, đá,…); có hậu quả là nạn nhân chết.
* Về sự khác nhau của hai tội này được thể hiện như sau:
Đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, người
phạm tội chỉ cố ý làm cho nạn nhân bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khỏe chứ
người phạm tội không mong muốn cho nạn nhân bị chết hay bỏ mặc cho nạn
nhân chết, muốn ra sao thì ra; cịn việc nạn nhân chết là ngồi ý thức chủ quan
của người phạm tội.
Đối với tội giết người, người phạm tội cố ý tước đoạt tính mạng của nạn
nhân. Nếu không phải là do cố ý trực tiếp (cố ý có dự mưu, cố ý xác định) thì
cũng là cố ý gián tiếp (cố ý đột xuất hoặc cố ý không xác định), tức là không cần
quan tâm đến hậu quả, bỏ mặc cho nạn nhân chết cũng được, không chết cũng
mặc.
Hành vi tấn công của người phạm tội đối với tội giết người quyết liệt hơn,
cường độ tấn công mạnh hơn, nhằm vào những nơi xung yếu của cơ thể như:
vùng đầu (sọ não, gáy), ngực, ổ bụng…Còn đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác, người phạm tội tấn công nạn nhân khơng quyết
liệt, mà nếu có quyết liệt thì cũng chỉ tấn cơng vào những nơi khó gây ra cái chết
cho nạn nhân như: chân, tay, mơng, nếu có tấn cơng vào nơi xung yếu của cơ thể
thì cũng chỉ tấn công vào nơi đã định như mắt, mũi, tai, miệng.


15


Thực tiễn, nhiều trường hợp người phạm tội chỉ khai khơng muốn làm nạn
nhân chết. Do đó, phải kết hợp với ý thức chủ quan của họ để xác định là giết
người hay CYGTT, đồng thời phải căn cứ vào biên bản giám định pháp y về
nguyên nhân gây ra cái chết của nạn nhân.
1.1.2.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong khi thi hành công vụ
Tại Điều 137 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), nhà làm luật
quy định tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi
hành công vụ là hành vi dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép
trong khi thi hành cơng vụ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác với tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên.
Qua nghiên cứu tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
và tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành
công vụ, dựa vào các yếu tố CTTP, chúng ta có thể phân biệt những điểm giống
và khác nhau giữa hai tội phạm này. Hai tội này giống nhau về khách thể của tội
phạm và về lỗi của người phạm tội. Sự khác nhau của hai tội này thể hiện ở chủ
thể của tội phạm, hành vi khách quan, hậu quả gây ra và động cơ phạm tội, cụ thể
là:
- Chủ thể của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong khi thi hành công vụ khác với chủ thể của tội phạm CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác ở chỗ phải là người đang trong khi thi hành
công vụ và đã thực hiện hành vi phạm tội do có hành vi trái pháp luật của nạn
nhân.
- Hành vi khách quan của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong khi thi hành công vụ khác với hành vi khách quan của tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đó là dùng vũ lực ngồi


16


những trường hợp pháp luật cho phép trong khi thi hành cơng vụ gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
- Hậu quả của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong khi thi hành công vụ khác với hậu quả của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác được thể hiện ở chỗ chỉ làm cho người bị hại bị thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người bị hại có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ
31% trở lên mà không làm chết người hoặc không dẫn đến chết người.
- Động cơ phạm tội của hai tội này khác nhau. Đối với tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ, động cơ của
người phạm tội là bảo vệ các lợi ích khác nhau trước sự xâm phạm của hành vi
trái pháp luật của nạn nhân, còn đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác, dấu hiệu động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc (tức dấu
hiệu định tội).
1.1.2.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác với các tội phạm khủng bố
Tại Điều 299 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội
khủng bố, đó là: “hành vi xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài
sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong cơng
chúng hoặc xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe hoặc chiếm giữ, làm hư hại tài
sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc đe dọa thực hiện hành vi xâm phạm tính
mạng của người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm
gây ra tình trạng hoảng sợ trong cơng chúng hoặc có những hành vi khác uy
hiếp tinh thần người khác” [19, tr.452].
Dựa vào những dấu hiệu pháp lý trong CTTP đối với tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác và tội khủng bố, có thể đưa ra những điểm
giống nhau và những điểm khác nhau như sau:

* Những điểm giống nhau: gồm dấu hiệu lỗi và dấu hiệu chủ thể của tội
phạm. Đối với dấu hiệu lỗi, cả hai tội phạm này đều có lỗi cố ý. Về chủ thể của

17


tội phạm, hai tội này đều do bất kỳ ai là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi
luật định thực hiện hành vi phạm tội.
* Những điểm khác nhau:
Sự khác nhau trước hết thể hiện ở khách thể của tội phạm. Tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo
hộ về sức khỏe của con người; còn tội khủng bố xâm phạm an tồn cơng cộng,
tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể, danh dự của con người, xâm phạm quan hệ
sở hữu của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Sự khác nhau còn thể hiện ở mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách
quan của người phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
có tính chất và mức độ nguy hiểm thấp hơn hành vi khách quan của tội khủng bố.
Đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì hành vi
khách quan của tội phạm là hành vi tác động vào cơ thể của người khác làm cho
người đó bị thương tích hoặc bị tổn hại về sức khỏe chứ không làm cho nạn nhân
bị chết; nếu nạn nhân chết là ngoài ý muốn của người phạm tội. Đối với tội phạm
khủng bố, hành vi khách quan của tội phạm này bao gồm các hành vi như: xâm
phạm tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá
nhân nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong cơng chúng; xâm phạm tự do thân
thể, sức khỏe hoặc chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
đe dọa thực hiện hành vi xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài
sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong cơng
chúng hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần của người khác.
Hai tội nói trên cịn khác nhau về mục đích phạm tội. Mục đích của người
phạm tội khủng bố là nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong cơng chúng, cịn

mục đích của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là làm
cho nạn nhân bị tổn thương, làm mất hoặc suy giảm chức năng một bộ phận cơ
thể hay làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của nạn nhân.

18


1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định tại Điều 134 với nhiều nội dung,
tình tiết mới so với Điều 104 BLHS năm 1999. Cụ thể: Điều 104 BLHS năm
1999 quy định 4 khoản với 4 định mức tỷ lệ thương tật, đó là dưới 11%, từ 11%
đến 30%, từ 31% đến 60%, trên 61%; còn Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) tuy vẫn giữ nguyên việc chia định mức tỷ lệ thương tật nhưng
đã được chia ra làm 6 khoản trong đó sửa đổi và bổ sung một số điểm mới để
hoàn thiện hơn những quy định về tội này. Ngoài ra, nội dung chính của Điều
134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là cơ cấu lại số khung hình
phạt so với Điều 104 BLHS năm 1999 và thay đổi mức hình phạt của từng khung
cho phù hợp với sự thay đổi của số khung, đồng thời sửa đổi, bổ sung các tình
tiết định khung tăng nặng từ khoản 2 đến khoản 5, pháp điển hóa các hướng dẫn
tại Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán
TAND tối cao (về các tình tiết quy định tại Điều 104 BLHS 1999) nhằm đảm bảo
các quy định này được rõ ràng và thống nhất khi áp dụng vào thực tiễn. Mặc dù
trong Điều 134 tăng về số lượng 02 khung hình phạt so với Điều 104 BLHS 1999
nhưng mức hình phạt thấp nhất và cao nhất khơng thay đổi.
Theo đó, đối chiếu với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác được quy định tại Điều 104 BLHS năm 1999 thì Điều 134 BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) có nhiều điểm mới hơn, đó là:
Thứ nhất, so với khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999 thì khoản 1 Điều 134

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định thêm một số tình tiết
đó là: “dùng vũ khí, vật liệu nổ hoặc dùng a xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm;
lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội trong thời gian đang chấp hành hình phạt
tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc” hay quy định thêm các tình tiết khác như “gây thương

19


×