Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

KY UC NGUOI CHI HUY XE TANG 390 HUC DO CONG DINH DOCLAP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.24 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Ký ức người chỉ huy xe tăng 390 húc đổ cổng dinh Độc Lập</b>


<b>Khi thấy xe 843 dừng lại ở cổng trái, lái xe Nguyễn Văn Tập hỏi: "Thế nào anh </b>
<b>Tồn?", ơng Tồn dứt khốt "Cứ tông thẳng vào". Ngay lập tức lái xe Tập nhấn ga,</b>
<b>húc tung cánh cổng chính của dinh Độc Lập lao vào trong sân.</b>


Trong bộ quần áo lính giản dị, người chỉ huy xe tăng 390 năm xưa Vũ Đăng Toàn vẫn toát
lên vẻ nhanh nhẹn, minh mẫn dù mái tóc xanh đã nhuốm màu bạc trắng. Năm nào cũng thế,
cứ cận ngày 30/4 ông lại bắt xe từ Hải Dương lên Hà Nội, đến nhà cậu em út Ngô Sỹ Nguyên
để tụ họp cùng anh em đã kề vai sát cánh trong trận đánh cuối cùng giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.


Nheo vầng trán rộng, ông chậm rãi kể lại thời khắc cách đây đã 36 năm, khi đại đội ông từ
miền Trung vào tham gia chiến dịch mùa xuân năm 1975. Thời điểm ấy, ông thuộc Đại đội
tăng 4, Tiểu đoàn tăng 1, Lữ đoàn xe tăng 203, Quân đoàn 2. Xe tăng 390 gồm có lái xe là
trung sĩ Nguyễn Văn Tập; pháo thủ số 1 Ngơ Sỹ Ngun (trung sĩ); phó đại đội trưởng kỹ
thuật kiêm pháo thủ số 2 Lê Văn Phượng (thiếu úy, lên thay pháo thủ số 2 bị thương) và ơng
Tồn là trung úy, chính trị viên đại đội.


Xe tăng quân giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc lập ngày 30/4.


Sáng 10/4/1975 đơn vị ông bắt đầu hành quân từ Đà Nẵng vào tham gia chiến dịch Hồ Chí
Minh. Trên đường đi, một tiểu đồn trinh sát đã tham gia giải phóng Ninh Thuận, Bình
Thuận, Phan Rang, Phan Thiết. Đại đội của ông là lực lượng nịng cốt đi sau.


Ngày 26/4, tồn bộ lực lượng bắt đầu bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh. Ba ngày sau, đại đội
4 đã giải phóng được toàn bộ căn cứ Nước Trong, trường sĩ quan thiết giáp của địch, tạo mũi
thọc sâu cho Quân đoàn 2.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Dầu Một, đến cầu Sài Gòn. Tại đây địch chống trả rất quyết liệt. Các loạt đạn từ xe tăng M48,
M41, M113 bắn sang, tàu dưới sông Sài Gòn bắn lên, máy bay thả bom chặn bước tiến của
quân giải phóng.



Bốn anh em trên chiếc xe tăng 390 húc đổ cổng dinh Độc Lập ngày 30/4/1975. Từ phải qua
là các ơng Vũ Đăng Tồn, Ngơ Sỹ Ngun, Lê Văn Phượng, Nguyễn Văn Tập. Ảnh: Hồng


Thùy.


"Chúng tơi đã dùng pháo cao xạ, súng M27 của xe tăng bắn lên, nhưng máy bay địch nâng
độ cao và tiếp tục thả bom. Chúng tôi bị tổn thất nặng nề, xe bị cháy, xe bị sa lầy, mắc cạn,
hỏng hóc, đại đội 2 và 3 mất sức chiến đấu bởi anh Nhỡ hy sinh, các chiến sĩ người hy sinh,
người bị thương, băng bó cho nhau la liệt 2 bên cầu", ơng Tồn kể lại.


Ơng cho biết, Đại đội tăng 4 lúc đó có 7 xe, ban chỉ huy đại đội gồm 3 người là trung úy Bùi
Quang Thận (Đại đội trưởng), trưởng xe 843; thiếu úy Lê Văn Phượng, Phó đại đội trưởng Kỹ
thuật và ơng là chính trị viên, trưởng xe 390. Sau khi hội ý, Ban chỉ huy quyết định không thể
chậm trễ, phải xốc lại đội hình, tổ chức đại đội tiến vào bên trong.


Trước khi hành quân, Đại đội 4 cùng đơn vị bạn đã dùng một số đạn pháo bắn sang bên kia
để uy hiếp tinh thần và tiêu diệt địch. Bắn mấy loạt pháo thì địch tháo chạy, quân giải phóng
tiến lên. Xe của trung đội trưởng Lê Tiến Hùng dẫn đầu, đến xe 390 rồi xe anh Thận, lần lượt
đi. Đến ngã tư Hàng Xanh xe 390 bắn pháo tiêu diệt 2 xe thiết giáp N113 của địch sau đó rẽ
trái, tiến về hướng dinh Độc Lập.


Đến cầu Thị Nghè thì xe của trung đội trưởng Lê Tiến Hùng bị địch bắn, ông và các chiến sĩ
bị thương, một lính bộ binh hy sinh. Nhờ nhân dân đưa đồng đội đến bệnh viện, xe 390 vượt
lên dẫn đầu đội hình gấp rút tiến về chiếm dinh Độc Lập. Khi đến gần dinh thì xe ông đi
chậm lại, xe 843 vượt lên. Đến cổng trái, xe 843 lại dừng lại, tắt máy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Bước ra khỏi xe, ơng Tồn thấy Đại đội trưởng Thận đã ôm cờ nên vơ thêm một khẩu AK,
chạy theo ông Thận hỗ trợ và sẵn sàng chiến đấu. Khi hai ơng đến đầu nhà thì có người
đứng chặn và giới thiệu "Tôi là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá của Tổng thống


Dương Văn Minh. Tổng thống mời các ơng lên làm việc".


"Có thêm người ra chỉ đường cho anh Thận lên nóc dinh cắm cờ, tôi theo Nguyễn Hữu Hạnh
vào bên trong. Nội các của chính quyền Sài Gịn lúc bấy giờ có hơn 50 người, ơng Hạnh dồn
hết vào phịng khánh tiết và sang phịng phía sau mời Dương Văn Minh lên", ơng Tồn kể.
Lúc này, Ngơ Sĩ Ngun cũng lên tới nơi, sau khi tham gia dồn nội các của Dương Văn Minh
vào một chỗ, ông đứng gác ở cửa. Nguyễn Văn Tập ở lại giữ xe tăng còn Lê Văn Phượng thì
ngồi trong xe giữ khẩu 12 ly 7 chĩa lên phía lá cờ trên nóc dinh để yểm hộ cho Bùi Quang
Thận cắm cờ.


Ông Vũ Đăng Toàn sau khi xuất ngũ đã trở về làm mọi nghề để chèo chống gia đình. Ảnh:
Hồng Thùy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

gia giải phóng nước bạn.


Đất nước hồn tồn độc lập, ơng Tồn lại về Hà Bắc xây dựng củng cố đơn vị. Năm 1981 lữ
đoàn 203 cử cán bộ thành lập trường 900 ở Sơn Tây. Làm việc được vài năm, do hồn cảnh
gia đình khó khăn nên ơng Tồn được đơn vị cho về nghỉ hưu với quân hàm đại úy.


"Lúc đó bà xã bị ốm, 2 con nhỏ nên khó khăn chồng chất. Hạ ba lô xuống tôi nghĩ cách làm
kinh tế để chèo chống gia đình. Tơi đi học nghề tráng bánh đa, thái phở, thái mì rồi chăn
ni gà, vịt. Cuối cùng cũng giải quyết được lương thực cơ bản cho gia đình và có điều kiện
đưa vợ đi chữa bệnh", vị chỉ huy năm xưa bùi ngùi. Hiện ba con của ơng Tồn đều đã lập gia
đình.


Ơng Tồn cho biết, sau giải phóng, 4 anh em trên chiếc xe tăng 390 mỗi người một nơi, mãi
đến năm 1995 mới có cơ hội gặp lại. Từ đó trở đi, năm nào cũng vài lần, 4 cựu chiến binh lại
lặn lội đường xa, tìm đến thăm nhau. Các ơng Tập, Phượng, Nguyên sau khi rời quân ngũ
cũng có cuộc sống khó khăn, và hiện đều có con theo nghiệp bố.



</div>

<!--links-->

×