Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Luận văn thạc sĩ định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (910.35 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

THẠCH THIÊN HÀ

ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

THẠCH THIÊN HÀ

ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM CÔNG NGUYÊN

Hà Nội - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn này là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các số liệu, trích dẫn nguồn rõ ràng đảm bảo tính chính xác, trung
thực. Kết quả nghiên cứu được sử dụng trong luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Thạch Thiên Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN .............................................................................................. 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, căn cứ và ý nghĩa của định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản......................................................................................

8

1.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội có dấu hiệu gian
dối trong Bộ luật Hình sự ................................................................................ 18
1.3. Các bước định tội danh và phân loại định tội danh ................................. 23
1.4. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản..28
Chương 2. THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH .............................. 31
2.1. Khái quát tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Ninh ...... 31
2.2. Hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Ninh33
Chương 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH
ĐÚNG TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

BẮC NINH ..................................................................................................... 50
3.1. Dự báo tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh trong thời gian tới............................................................................ 50
3.2. Giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh ...................................................................................... 54
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 72


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng Hình sự

ĐTD

Đinh tội danh

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

TAND

Tịa án nhân dân


PLHS

Pháp luật Hình sự

PLTTHS

Pháp luật Tố tụng hình sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong số những tội phạm phổ biến
thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS).
Thời gian qua tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt
động lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên nhiều lĩnh vực gây bức xúc trong
dư luận xã hội, ảnh hưởng phức tạp đến tình hình an ninh trật tự, hoạt động
sản xuất kinh doanh của người dân. Các đối tượng sử dụng nhiều phương thức
thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để chiếm đoạt tài sản.
Theo Báo cáo số liệu thống kê của TAND tỉnh Bắc Ninh trong thời
gian 05 năm (từ năm 2015 đến hết năm 2019), TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh
đã xét xử sơ thẩm 405 vụ/720 bị cáo về các tội phạm xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt, trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là 142 vụ/151 bị
cáo và xét xử phúc thẩm 346 vụ án/650 bị cáo về các tội phạm xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt, trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là 120
vụ/131 bị cáo. Có thể thấy, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn chiếm tỉ lệ cao
trong nhóm tội xâm phạm sở hữu và đang có xu hướng gia tăng trong thời
gian từ năm 2017 đến hết năm 2019 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, trong đó có
những vụ án hết sức phức tạp điển hình: vụ án Nguyễn Việt Hồng, Nguyễn
Quốc Hùng và đồng phạm có hành vi lừa đảo chiếm đoạt số tiền 45 tỷ đồng

của Quỹ hỗ trợ phát triển chi nhánh Bắc Ninh… đã gây ảnh hưởng lớn đến
tình hình an ninh trật tự và sự phát triển kinh tế của tỉnh Bắc Ninh.
Thực tiễn cho thấy đa số các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản được cơ
quan tiến hành tố tụng giải quyết, đưa ra xét xử đều đảm bảo xử lý đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên thực tiễn vẫn cịn có vụ điều tra,
truy tố, xét xử chưa đúng tội danh có sự nhầm lẫn với một số tội danh khác
như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc chưa thống nhất trong
1


việc định tội danh hành vi làm giả tài liệu, con dấu của cơ quan, tổ chức để
lừa đảo chiếm đoạt tài sản...Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ một số quy
định của BLHS hiện hành chưa có văn bản hướng dẫn kịp thời áp dụng nên có
cịn quan điểm, cách hiểu khác nhau. Bên cạnh đó, trình độ, năng lực của đội
ngũ chủ thể định tội danh còn hạn chế...Điều này dẫn đến việc định tội danh
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong một số trường hợp chưa chính xác, xâm
phạm đến những quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, làm giảm uy tín của
các cơ quan tư pháp. Trong khi đó, các cơng trình khoa học nghiên cứu về
định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ sau khi BLHS năm 2015 có
hiệu lực pháp luật khơng nhiều, chưa có cơng trình nào nghiên cứu toàn diện,
chuyên sâu về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến hết năm 2019.
Xuất phát từ nhận thức và thực tiễn nên trên, tác giả lựa chọn đề tài:
“Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm
đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ là hồn tồn có tính cấp thiết cả về lý
luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài trên, cũng đã có nhiều tác giả đề cập trong các
cơng trình nghiên cứu khác nhau như:
(i) Giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo:

Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật hình sự Việt
Nam, Tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần các tội
phạm - quyển 1, Nxb Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam; Lê Cảm và Trịnh
Quốc Toản (chủ biên, 2004), Định tội danh-lý luân, hướng dẫn mẫu và 350
bài tập thực hành, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Võ Khánh Vinh
(2003), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nxb Công an nhân dân,
2


Hà Nội; Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong
Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; TS. Dương Tuyết
Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Lao động - Xã
hội, Hà Nội; Đoàn Tấn Minh (2010), Phương pháp định tội danh và hướng
dẫn định tội danh đối với các tội phạm trong BLHS hiện hành, Nxb Tư
pháp, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự,
Tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội; Nguyễn Đức Mai (2013),
Bình luận khoa học BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) - Phần
các tội phạm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; v.v…
(ii) Cơng trình khoa học là các bài viết trên các tạp chí, báo: Lê Đăng
Doanh (2004), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản liên quan đến lĩnh vực hoàn
thuế giá trị gia tăng, Tạp chí Tịa án nhân dân, (22), Hà Nội; Lê Đăng
Doanh (2006), Thực trạng tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản có
sử dụng công nghệ cao và một số giải pháp đấu tranh phòng chống tội
phạm nay ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO, Tạp chí Tịa án nhân
dân, (24); PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí (1998), Đối tượng của các tội xâm
phạm sở hữu, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/1988, tr 50 – 57; Nguyễn
Ngọc Chí (1997), Một số vấn đề đồng phạm trong các tội xâm phạm sở
hữu, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (6); Nguyễn Ngọc Chí (1997), Yếu tố
chức vụ, quyền hạn trong các tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Nhà nước và

pháp luật, (11).
(iii) Cơng trình nghiên cứu là các luận án, luận văn: Nguyễn Ngọc Chí
(2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án Tiến
sĩ luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Trần Thị Phương Hiền (2007),
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn
Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Trịnh Hồng Phương
(2016), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
3


thực tiễn tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã
hội – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội; Hoàng Ngọc Dinh
(20160, Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt
Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà
Nội; v.v...
Liên quan trực tiếp đến đề tài có một số cơng trình nghiên cứu như:
Trương Thị Đơng (2015), Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk),
Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Chí (1997), Vấn đề định tội
danh trong các tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (8).
Các cơng trình nghiên cứu nói trên chủ yếu đề cập và nghiên cứu tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản cùng với các chế định khác nhau của BLHS, trên
phạm vi nghiên cứu rộng hoặc theo một số khía cạnh nhất định, trong đó vấn
đề “Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” chỉ là một phần nhỏ trong
nội dung nghiên cứu của các tác giả. Liên quan trực tiếp đến đề tài tác giả
nghiên cứu khơng có nhiều cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về mặt lý luận
và thực tiễn về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tính đến nay,
chưa có cơng trình nghiên cứu nào đề cập đến việc định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam một cách cụ thể, chuyên
sâu tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh, sau khi BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp,

trong thời gian từ năm 2015 đến 2019. Do vậy, đề tài luận văn “Định tội danh
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” đảm bảo tính mới
và khơng trùng lặp với các cơng trình nghiên cứu khoa học có liên quan.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là phân tích khoa học để làm sáng
tỏ vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh tội
4


lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, chỉ ra tồn tại,
hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó, đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả
của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, qua đó hạn chế oan, sai và vi
phạm pháp luật trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ lý luận định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Đánh giá về thực trạng định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Dự báo và đưa ra một số giải pháp nhằm bảo đảm định tội danh đúng
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động định tội danh tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp
luật Việt Nam trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu trong chuyên ngành luật
hình sự và tố tụng hình sự, với hoạt động định tội danh chính thức của Tịa án,

có sự phối hợp với chặt chẽ với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân.
Phạm vi về tội danh: Đề tài luận văn nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, Điều 174 BLHS năm 2015.
Phạm vi về chủ thể: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (hai cấp: cấp tỉnh
và cấp huyện) trong đó Thẩm phán là Chủ thể chính (khơng nghiên cứu Tịa
án, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát quân sự), trong quá trình nghiên cứu có

5


sự phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc
Ninh.
Phạm vi về thời gian: Đề tài luận văn nghiên cứu từ năm 2015 đến hết
năm 2019.
Phạm vi về địa bàn: Đề tài luận văn nghiên cứu trên đại bàn tỉnh Bắc
Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm,
định hướng của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về
chính sách hình sự, đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm của nước ta.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật
hình sự như: phương pháp thống kê, phân tích ví dụ điển hình và tổng hợp số
liệu dựa trên những bản án của Tòa án nhân dân hai cấp của tỉnh Bắc Ninh;
phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp diễn dịch, quy nạp để tổng hợp
các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu
trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện
lý luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận: Những nội dung của luận văn đưa ra nhằm góp phần
làm phong phú thêm lý luận về định tội danh nói chung và định tội danh tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, qua đó nâng cao nhận thức về hoạt động
định tội danh trong luật hình sự Việt Nam. Từ một số giải pháp đưa ra, tác giả
sẽ góp phần hồn thiện hơn những quy định của pháp luật về tội lừa đảo
6


chiếm đoạt tài sản, tạo thuận lợi cho hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan
có thẩm quyền nói chung và ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu tham khảo đối
với cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và công tác thực tiễn, đặc biệt
đội ngũ công chức trong các cơ quan tố tụng ở tỉnh Bắc Ninh..
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1. Lý luận về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Chương 2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3. Dự báo và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

7


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, căn cứ và ý nghĩa của định tội danh tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1.1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Khái niệm pháp lý về tội phạm được nhà làm luật ghi nhận trong Điều
8, BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là BLHS năm
2015).
Trong BLHS năm 2015, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc chương
XVI nhóm các tội xâm phạm sở hữu, “là những hành vi nguy hiểm cho xã

hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự (TNHS) thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quan hệ
sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân” [17, tr4]; Trên cơ sở tiếp
thu quan điểm của một số tác giả về khái niệm lừa đảo chiếm đoạt tài sản như:

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định là hành vi chiếm đoạt tài sản
của người khác bằng thủ đoạn gian dối” [27, tr.214], [17]. Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở
hữu, người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để
chiếm đoạt tài sản đó [10, tr.118]. Tác giả đưa ra khái niệm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi
chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm
quyền sở hữu tài sản của người khác.
1.1.1.2. Đặc điểm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

8


Đặc điểm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thể hiện thông qua 04 yếu

tố cấu thành tội phạm sau đây:
- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt. Do vậy, tội này có đặc điểm chung của các tội phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt nhằm là xâm phạm quyền sở hữu tài sản của
người khác đó là ba quyền năng là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền
định đoạt tài sản. Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt tài sản
phải còn nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu, phải có chủ sở hữu cụ thể với
các quyết định có tính chất pháp lý thể hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản, tài sản này phải được Nhà nước cho lưu hành và có thể chuyển
dịch được giữa các chủ sở hữu và cùng được thực hiện bằng hành động.
- Khác với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác thì đặc
trưng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ
đoạn gian dối. Đó là việc người phạm tôi cố ý chuyển dịch một cách trái pháp
luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác thành tài sản của mình
bằng việc đưa ra các thủ đoạn gian dối như: đưa ra thông tin giả, không đúng
với sự thật hoặc thực hiện các hành vi cụ thể, làm cho người bị lừa dối tin đó
là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thơng tin giả có thể
được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết
(viết thư), bằng hành động, bằng hình ảnh…hoặc kết hợp bằng nhiều cách
thức khác nhau.
- Thủ đoạn gian dối của người phạm tội phải có trước hành vi chiếm
đoạt và là nguyên nhân trực tiếp khiến người bị hại tin là thật mà giao tài sản
cho người phạm tội, nếu thủ đoạn gian dối có sau khi người phạm tội nhận
được tài sản thì khơng phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tùy trường hợp
cụ thể, thủ đoạn gian dối đó có thể là hành vi che giấu tội phạm hoặc là hành
vi phạm tội khác như lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
9


-


Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp,

người phạm tội nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian
đối của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước thiệt hại về tài sản do hành
vi của mình gây ra cho người khác và mong muốn hậu quả đó xảy ra. Mục
đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản, bao giờ cũng
có trước khi thực hiện thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản
- Thực tiễn xét xử còn nhiều trường hợp cũng có hành vi là thủ đoạn
gian dối, cũng có hành vi chiếm đoạt, nhưng vì hành này đã được Bộ luật hình
sự quy định thành tội phạm độc lập thì cũng khơng bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà bị truy cứu về tội phạm tương
ứng khác như: Hành vi làm vé bóng đá giả đem bán lấy tiền là hành vi phạm
tội làm vé giả quy định tại Điều 202 BLHS năm 2015; hành vi gian dối trong
việc cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng... để gây thiệt hại cho
khách hàng là hành vi phạm tội lừa dối khách hàng quy định tại Điều 198
BLHS năm 2015; v.v...
- Thời điểm hoàn thành tội phạm này được xác định từ lúc người phạm
tội đã chiếm giữ được tài sản (từ 2.000.000 đồng trở lên, hoặc dưới 2.000.000
đồng nhưng kèm theo một trong các dấu hiệu quy định tại điểm a, b, c, d
khoản 1 Điều 174 BLHS): Chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành
vi chiếm đoạt tài sản mà cịn vi phạm; chủ thể đã bị kết án về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169,
170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS năm 2015, chưa được xóa án tích
mà cịn vi phạm; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc
tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
1.1.1.3. Khái niệm định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Định tội danh là hoạt động phức tạp, là vấn đề cơ bản và quan trọng
nhất được tiến hành ở tất cả các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố
10



cho đến giai đoạn xét xử. Đây là một thuật ngữ được nghiên cứu dưới góc độ
khoa học pháp lý với nhiều quan điểm khác nhau được đưa ra:
Định tội danh là một q trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng
thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS, cũng
như pháp luật TTHS và được tiến hành bằng cách, trên cơ sở các chứng cứ
các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối
chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của
hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành
tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định [7; tr 33].
TS. Dương Tuyết Miên có quan điểm: Định tội danh là hoạt động thực
tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa
án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác
định một người có phạm tội khơng, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều
luật nào của BLHS hay nói cách khác đấy là q trình xác định tên gọi cho
hành vi nguy hiểm đã thực hiện [14; tr 9].
Về cơ bản các quan điểm trên đều có những nhân tố hợp lý. Tuy nhiên,
tác giả cho rằng, để xây dựng khái niệm định tội danh một cách toàn diện cần
phản ánh được bốn yếu tố quan trọng của hoạt động định tội danh là yếu tố
chủ thể, yếu tố nhận thức (đánh giá, phân tích hành vi phạm tội); yếu tố về so
sánh, đối chiếu kết quả nhận thức đó với quy định của pháp luật hình sự; và
đưa ra được kết luận về hành vi được thực hiện.
Tiếp thu các quan điểm khoa học trên, tác giả có quan điểm như sau:
Định tội danh là một hoạt động nhận thức lý luận, hoạt động thực tiễn
áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự, do cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành bằng cách phân tích, so sánh, kiểm tra, đối
chiếu các tình tiết thực tế của hành vi nguy hiểm được thực hiện với các dấu
hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định, từ đó
xác định và đưa ra kết luận hành vi đó có phải là tội phạm hay khơng, nếu là

11


tội phạm thì tội phạm đó là gì và được quy định trong điểm, khoản, điều nào
của Bộ luật Hình sự.
Tác giả đưa ra khái niệm định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
như sau:
Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một hoạt động nhận thức
lý luận, hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố
tụng hình sự, do các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành bằng cách phân
tích, so sánh, kiểm tra, đối chiếu các tình tiết thực tế của hành vi nguy hiểm
được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản theo quy định Điều 174 BLHS năm 2015, từ đó xác định và đưa
ra kết luận hành vi đó có phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay khơng, nếu
có thì được quy định tại điểm, khoản nào của Điều 174 BLHS năm 2015.
1.1.1.4. Đặc điểm của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Từ định nghĩa trên, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành có
thể rút ra các đặc điểm của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như
sau:
Thứ nhất, định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một hoạt động
nhận thức lý luận. Trong đó, chủ thể tiến hành các hoạt động có tính logic như
tiến hành phân tích, so sánh, kiểm tra, đối chiếu, các tình tiết thực tế của hành
vi nguy hiểm được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tại Điều
174 BLHS để tìm ra điểm tương đồng, trên cơ sở đó kết luận hành vi có phải
tội phạm hay khơng, là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay tội phạm khác.
Thứ hai, định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một hình thức
hoạt động thực tiễn pháp lý. Đây là hoạt động của các chủ thể định tội danh
mà chủ yếu là cơ quan, người tiến hành tố tụng nhằm cụ thể hóa các quy định
pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vào đời sống thực tế.
Trong hoạt động này thì chủ thể định tội danh triệt để tuân thủ các quy định

của luật tố tụng hình sự nhằm đưa ra kết luận là hành vi được xem xét có đầy
12


đủ các dấu hiệu tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại điểm,
khoản nào của Điều 174 BLHS năm 2015.
Thứ ba, việc định tội danh được tiến hành trên cơ sở quy định của pháp
luật tố tụng hình sự, cần thiết phải đảm bảo tính chính xác tuyệt đối và thơng
thường được tiến hành theo một trình tự nhất định.
Thứ tư, định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là định tội danh đối
với một loại tội phạm cụ thể - tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngoài những đặc
điểm chung của định tội danh với tư cách là hoạt động nhận thức có tính logic
của con người, thì định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đặc điểm
riêng liên quan đến đặc điểm của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra
trong thực tế khách quan và quy định của BLHS về tội phạm này.
1.1.2. Căn cứ và ý nghĩa định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1.2.1. Căn cứ định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, dù là chính thức hay
khơng chính thức cũng đều phải dựa trên những cơ sở nhất đinh. Do đinh tội
danh là sự đánh giá về mặt pháp lý nên nó có cơ sở pháp lý. Mặt khác, định
tội danh lại là hoạt động nhận thức mang tính logic nên nó đồng thời cũng có
cơ sở khoa học. Như vậy, có hai cơ sở - cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của
định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Căn cứ pháp lý của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là toàn
bộ các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến định tội danh đối với
tội phạm này.
Nói cách khác, luật hình sự là luật nội dung (chủ thể định tội danh phải
đưa ra kết luận hành vi nguy hiểm cho xã hội có thỏa mãn quy định của Điều
174 BLHS hay khơng) cịn luật tố tụng hình sự là luật về hình thức, là cơ sở
pháp lý trên phương diện hình thức trong cơng tác phòng ngừa, đấu tranh

chống tội phạm.

13


- Căn cứ khoa học của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Để
mô tả và luật hóa hành vi tội phạm, khoa học luật hình sự sử dụng phương
pháp điển hình hóa thơng qua các dấu hiệu pháp lý đặc trưng. Tổng hợp các
dấu hiệu pháp lý đặc trưng cho tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản được quy định trong BLHS được gọi là cấu thành tội phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Cấu thành tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thể
hiện thông qua 04 yếu tố sau:
+ Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Khách thể của tội phạm
là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại. Khơng có sự xâm hại quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ thì khơng có tội phạm [26, tr.86]. Khách thể của tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu, đó là ba quyền năng là quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Tuy nhiên, mỗi tội
phạm đều xâm phạm tới khách thể nhất định đều phải thông qua việc tác động
đến đối tượng cụ thể, là bộ phận cấu thành nên khách thể của tội phạm, bị
hành vi phạm tội tác động nhằm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho
khách thể bảo vệ của luật hình sự, khoa học luật hình sự gọi đây là đối tượng
tác động của tội phạm. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì đối tượng tác
động là tài sản, nhưng không phải mọi tài sản đều có thể trở thành đối tượng
tác động của tội này, để trở thành đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
thì tài sản đó phải có những đặc điểm nhất định. Tài sản là đối tượng tác động
của hành vi chiếm đoạt tài sản phải còn nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu,
phải có chủ sở hữu cụ thể với các quyết định có tính chất pháp lý thể hiện
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản [24; tr.59]. Hơn nữa, tài sản này
phải được Nhà nước cho lưu hành và có thể chuyển dịch được giữa các chủ sở
hữu, có thể mua bán trao đổi một cách hợp pháp, là tài sản hữu hình, có thực,

có thể nhìn thấy, sờ thấy. Một số tài sản đặc biệt không phải là đối tượng của
tội xâm phạm sở hữu mà là đối tượng của một số tội phạm khác. Ví dụ: Cơng
14


trình, phương tiện giao thơng vận tải, thơng tin liên lạc, các loại vũ khí quân
dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, tàu bay, tàu thủy… [12; tr.153].
+ Mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội phạm là mặt
bên ngoài của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được
bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là thể hiện cách xử sự có tính chất tội
phạm trong thực tế khách quan [6; tr.344]. Các dấu hiệu thuộc mặt khách
quan của tội phạm gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm
cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên
ngoài của việc thực hiện tội phạm như thời gian, địa điểm, phương tiện, cơng
cụ phạm tội, hồn cảnh phạm tội.
Về hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Do đặc điểm
riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành
vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn
gian dối.
Theo đó, hành vi chiếm đoạt tài sản: được hiểu là người phạm tội cố ý
chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ
thể khác thành tài sản của mình.
Thời điểm hồn thành tội phạm này được xác định từ lúc người phạm
tội đã chiếm giữ được tài sản (từ 2.000.000 đồng trở lên, hoặc dưới 2.000.000
đồng nhưng kèm theo một trong các dấu hiệu quy định tại điểm a, b, c, d
khoản 1 Điều 174 BLHS) sau khi đã dùng thủ đoạn gian đối để làm cho người
chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản bị lừa giao tài sản cho người
phạm tội hoặc không nhận tài sản đáng lẽ phải nhận.
Về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: Hậu quả của tội
phạm (thiệt hại về tài sản) phải được xuất phát từ hành vi chiếm đoạt bằng thủ

đoạn gian dối. Nếu thiệt hại về tài sản từ nguyên nhân khác thì khơng cấu
thành tội này.
15


- Mặt chủ quan của tội phạm: Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên
trong của tội phạm bao gồm: Lỗi, động cơ, mục đích [29, tr.152].
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp,
người phạm tội nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian
đối của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước thiệt hại về tài sản do hành
vi của mình gây ra cho người khác và mong muốn hậu quả đó xảy ra.
Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản.
Nếu sau khi đã có tài sản một cách hợp pháp rồi mới có ý định chiếm đoạt thì
khơng phải là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tuỳ trường hợp cụ thể
người phạm tội có thể bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Chủ thể của tội phạm: Theo quy định của pháp luật hiện hành, thì chủ
thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ là thể nhân. Theo đó, Chủ thể của tội
phạm là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong
tình trạng có năng lực TNHS và đạt độ tuổi do luật hình sự quy định [16;
tr.56]. Theo quy định tại điều 12 BLHS về tuổi chịu trách nhiệm hình sự
“Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm,
trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác; Người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141,
142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251,
252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”.
Do vậy, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể là bất kỳ
người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự. Nếu từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015.

* Ý nghĩa định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Thứ nhất, định tội danh nói chung và định tội danh tội lừa đảo chiếm
16


đoạt tài sản nói riêng là hoạt động quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự, xác định chính xác tội phạm mà người phạm tội thực hiện, từ đó các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có cơ sở quyết định hình
phạt tương xứng đối với tội phạm, đảm bảo cho việc phân hóa TNHS và cá
thể hóa hình phạt, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không làm oan người vô tội, không bỏ lột tội phạm. Định tội danh đúng là cơ
sở để áp dụng chính xác các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về khởi tố
vụ án hình sự, khởi tố bị can, thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử, thời hạn
điều tra, truy tố, xét xử, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, trả hồ sơ để điều
tra bổ sung, quyền bào chữa của bị can, bị cáo...
Thứ hai, định tội danh đúng đảm bảo thực hiện đúng một số các nguyên
tắc tiến bộ của nhà nước pháp quyền như: nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc
bình đẳng trước luật hình sự, nguyên tắc công minh, nguyên tắc nhân đạo,
nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc trách nhiệm do lỗi, nguyên tắc trách nhiệm cá
nhân, qua đó góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân,
quyền con người trong lĩnh vực hình sự.
Và ngược lại, định tội danh sai sẽ dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực, xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, quyền của con người, làm
giảm uy tín của các cơ quan tố tụng, làm giảm niềm tin của người dân đối với
pháp luật, đối với các quyết định, bản án của Tịa án, làm giảm hiệu quả cơng
cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản quy định tại Điều 174 BLHS nói riêng.

17



1.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội có dấu
hiệu gian dối trong Bộ luật Hình sự năm 2015
1.2.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách
hàng
Trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì tội lừa dối
khách hàng được quy định tại Điều 198 BLHS. Mặc dù cả hai tội đều thực
hiện hành vi phạm tội bằng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản với lỗi cố
ý trực tiếp. Tuy nhiên, giữa hai tội có những điểm khác biệt cơ bản như sau:
- Về khách thể:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Xâm phạm quyền sở hữu tài sản của
người khác.
+ Tội lừa dối khách hàng: Xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người tiêu dùng.
- Hành vi khách quan:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Dùng thủ đoạn gian dối làm cho
người có tài sản tin tưởng vào sự gian dối mà trao tài sản cho người phạm tội.
+ Tội lừa dối khách hàng: Hành vi khách quan của tội lừa dối khách
hàng tuy có thủ đoạn gian dối nhưng gian dối trong các lĩnh vực mua, bán
bằng thủ đoạn cân, đong, đo, đếm, tính gian, hoặc dùng thủ đoạn gian dối
khác trong việc mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ.
- Mục đích:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Chiếm đoạt tài sản.
+ Tội lừa dối khách hàng: Thu lợi bất chính.
- Chủ thể của tội phạm:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Bất kỳ người nào trên 16 tuổi và có
năng lực TNHS.

18



+ Tội lừa dối khách hàng: Người nào trên 16 tuổi và có năng lực
TNHS nhưng thơng thường là những người tham gia vào quá trình mua bán
và thường là người bán mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm này.
- Tính nguy hiểm cho xã hội và hình phạt:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội cao
hơn. Hình phạt nghiêm khắc hơn: Khoản 1: bị phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khoản 2: bị phạt tù từ 02
năm đến 07 năm. Khoản 3: bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khoản 4: bị phạt
tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Hình phạt bổ sung: Người phạm
tội cịn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm
đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
+ Tội lừa dối khách hàng: Có tính nguy hiểm cho xã hội thấp hơn.
Hình phạt ít nghiêm khắc hơn: Khoản 1: bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm. Khoản 2: bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng
hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội cịn
có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
1.2.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội sử dụng mạng
máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản
Trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì tội sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 290 BLHS. Cả hai tội danh đều có
chủ thể là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi luật

19



định có hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối, với lỗi cố ý trực tiếp. Tuy
nhiên, có những điểm khác biệt sau:
- Về khách thể của tội phạm:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản
của người khác.
+ Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản: Xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản
của người khác, đồng thời xâm phạm đến chế độ quản lý an ninh mạng, an
toàn công cộng, trật tự công cộng.
- Hành vi khách quan
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Có hành vi chiếm đoạt tài sản bằng
thủ đoạn gian dối, nhưng không sử dụng mơi trường mạng máy tính, mạng
viễn thơng, phương tiện điện tử.
+ Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản: Có hành vi chiếm đoạt tài sản bằng cách
sử dụng mơi trường mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (sử
dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của Cơ quan, tổ chức, cá nhân
để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh tốn hàng hóa,
dịch vụ; thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm
đoạt tài sản…).
- Hậu quả của tội phạm:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Phải chiếm đoạt tài sản của người
khác trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên. Nếu dưới 2.000.000 đồng phải kèm
theo một trong các tình tiết theo khoản 1 Điều 174 BLHS.
+ Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản: Xảy ra hay khơng (có chiếm đoạt được
tài sản hay không) không phải là dấu hiệu cấu thành bắt buộc.
20



×