Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (679.53 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN DUY KHÔI

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN DUY KHÔI

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN VĂN ĐIỆP

Hà Nội - 2020



MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
B
L
B
L
C
T
T
A
V
K
N
x

Bộ
luậ
Bộ
luậ
Cấ
u

a
Việ
n
Nh
à



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền sở hữu tài sản luôn được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, bảo vệ. Mọi hành
vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, đặc biệt là các hành vi bị coi là tội phạm đều bị
nghiêm trị trước pháp luật. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của đất nước trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, tình hình tội phạm nói chung và các tội xâm phạm sở hữu nói
riêng có nhiều diễn biến phức tạp, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Loại tội
phạm này trong thời gian gần đây không chỉ có xu hướng tăng về số lượng vụ án, người
phạm tội mà phương thức, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, gây thiệt hại
lớn đến an ninh, kinh tế.
Thực tiễn xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng cho thấy những vướng mắc, bất
cập trong quá trình áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội này trong
công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng cũng như trong việc chủ động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Nguyên
nhân chủ yếu những vướng mắc, bất cập xuất phát từ sự nhận thức khác nhau về việc áp
dụng quy định của Bộ luật hình sự khi tiến hành xử lý hình sự đối với hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Cá biệt, có một số trường hợp nhầm lẫn trong việc định tội danh, áp
dụng không đúng quy định pháp luật, thậm chí không làm sáng tỏ được ranh giới giữa tội
phạm và các vi phạm pháp luật khác hoặc không phân biệt được giữa tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt khác trong Bộ luật hình
sự dẫn đến tình trạng oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Bắc Giang là một tỉnh nằm phía Đông bắc Hà Nội với hướng phát triển trở thành
tỉnh có nền công nghiệp phát triển vì vậy những năm gần đây chính quyền địa phương đã
có chủ trương thu hút xây dựng nhiều khu công nghiệp nhằm thúc đẩy kinh tế địa
phương. Chính vì muốn tạo sự đột biến trong nền kinh tế của tỉnh như vậy mà các khu
công nghiệp được hình thành, các nhà máy, nhà xưởng được đầu tư ngày một tăng lên,
kéo theo sự tăng trưởng của các nhà máy, nhà xưởng thì nhu cầu về nguồn nhân lực cho
1



các khu công nghiệp, các nhà máy, nhà xưởng cũng gia tăng rất lớn dẫn đến mật độ dân
nhập cư tăng đột biến trong những năm qua. Đi đôi với sự phát triển kinh tế của tình thì
mặt trái của nó là tình hình tội phạm cũng diễn ra ngày càng phức tạp, đặc biệt là các loại
tội phạm về xâm phạm quyền sở hữu, quyền tài sản.
Chính vì vậy, là một cán bộ trong quá trình làm việc thường xuyên áp dụng các quy
định của pháp luật, tác giả lựa chọn đề tài này để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của
mình. Việc nghiên cứu dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung và
các biểu hiện cụ thể của nó tại Bắc Giang nói riêng, để từ đó đề ra những biện pháp hoàn
thiện các quy định của BLHS cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
BLHS về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là rất cần thiết. Vì lý do này tác đã chọn đề tài
“Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” làm luận văn thạc sỹ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được đề cập đến trong các giáo trình của các
trường Đại học, Học viện đào tạo về luật, sách chuyên khảo và được các luận văn thạc sĩ,
luận án tiến sĩ nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
* Nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung và trong một số lĩnh vực cụ
thể dưới góc độ tội phạm học và điều tra tội phạm có luận án Thạc sĩ của một số tác giả
sau đây:
- Đặng Minh Phụng (2014) Chứng minh trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. Luận
văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
- Nguyễn Hùng Lâm (2016), Điều tra tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng. Luận văn thạc sĩ, Học viện
khoa học xã hội.
- Phùng Thị Hằng Hà (2015) Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa
học xã hội.
2



- Tạ Thùy Châu (2015) Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ, Học viện
khoa học xã hội.
* Nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ khoa học luật hình sự và
tội phạm học có luận văn thạc sĩ của một số tác giả sau:
- Đinh Thế Anh (2013) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
- Nguyễn Tiến Dũng (2014), Tội lừa đeo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt
Nam – Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
- Nguyễn Đại Quang (2014) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hải Dương. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
- Phạm Ngọc Long (2013) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
* Nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ tội phạm học có luận văn
thạc sĩ của một số tác giả sau:
- Lê Thị Mai (2011), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện
khoa học xã hội.
- Lê Hồng An (2012) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực ngân hàng: tình
hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã
hội.
- Phạm Anh Tuấn (2010), Đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trên địa bản tỉnh Bình Dương. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
- Trần Tuấn Lợi (2012), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Đà
Nẵng: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống. Luận văn thạc sĩ, Học viện
khoa học xã hội.


3


Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng chủ
yếu các luận văn, luận án nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và điều tra tội phạm,
cũng có một số luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc
độ khoa học luật hình sự nhưng tình hình tội phạm trong giai đoạn này đã có nhiều thay
đổi và diễn biến phức tạp cùng với đó là việc ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 nên các
công trình nghiên cứu trên đã thể hiện những điểm bất cập không còn phù hợp với thực
tiễn hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ
thực tiễn tỉnh Bắc Giang”
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1999 đến Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 dưới
góc độ khoa học luật hình sự.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: Luận văn nghiên cứu nhằm làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đánh giá thực tiễn xét xử tội phạm này tại tỉnh Bắc Giang
trong giai đoạn 2015 - 2019, qua đó đề xuất các biện pháp bảo đảm thi hành quy định về
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh và phòng ngừa tội phạm
này trong thời gian tới tại tỉnh Bắc Giang nói riêng.
- Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
+ Phân tích cơ sở pháp lý (quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản để làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội
phạm này và so sánh với một số tội phạm khác có tính chất tương đồng được quy định
trong Bộ luật hình sự.
+ Khảo sát thực tiễn, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và phân tích nguyên nhân
của những hạn chế trong hoạt động định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa

bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2015 - 2019.
4


+ Đưa ra yêu cầu và giải pháp nâng cao đảm báo xét xử đúng tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trong thời gian tới.
5. Các phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện
luận văn
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá, thống kê...
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Về mặt khoa học: Luận văn góp phần từng bước hoàn thiện và bổ sung vào hệ
thống lý luận đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật Việt Nam; đồng thời
luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học
luật hình sự đối với tỉnh Bắc Giang nói riêng.
- Về mặt thực tiễn: Những đề xuất bảo đảm thi hành quy định của Bộ luật hình sự
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị chỉ dẫn cho hoạt động thực tiễn, góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động của công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới tại tỉnh Bắc Giang.
7. Bố cục của luận văn
Bao gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử tại tỉnh Bắc
Giang về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Chương 3: Yêu cầu và các biện pháp bảo đảm xét xử đúng tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản.

5



CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam thì “lừa đảo” được hiểu là việc “lừa bằng thủ
đoạn xảo trả để chiếm lấy của cải, tài sản”. Tuy nhiên, đây chỉ là cách hiểu thông thường
về khái niệm “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, xem xét hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
dưới góc độ là một hiện tượng xã hội tiêu cực.
Trong BLHS Việt Nam, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn được quy định tại
chương các tội xâm phạm sở hữu. Do đó, khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải
thể hiện được đồng thời đặc điểm chung của các tội xâm phạm sở hữu và đặc điểm riêng
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Căn cứ vào khái niệm tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015,
khoa học luật hình sự đưa ra khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu như sau: “Các tội
xâm phạm sở hữu là hành vi của người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá
nhân”1. Khái niệm đã khái quát được những đặc điểm chung về khách thể, chủ thể và
mặt chủ quan của của các tội xâm phạm sở hữu.
Điều 174 BLHS năm 2015 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
“Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác...” Căn cứ vào
quy định trên, khoa học luật hình sự đã đưa ra khái niệm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
dưới góc độ pháp lý như sau: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài
sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối”2. Hành vi chiếm đoạt tài sản phải được thực
hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội biết tài sản chiếm đoạt đang có người
chiếm hữu, quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình. Khái
1
2


Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.9]
Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.37]
6


niệm mới chỉ thể hiện những đặc trưng cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dựa trên
đặc điểm của hành vi khách quan.
Từ những phân tích trên, khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể được định
nghĩa như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người
khác bằng thủ đoạn gian dối, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi
cố ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân.
1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.1.2.1. Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm
xâm hại. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu. Do đó,
khách thể loại và khách thể trực tiếp của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu
được pháp luật bảo vệ.
Quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
tài sản được tôn trọng và bảo vệ3. Quan hệ sở hữu được xác lập giữa một bên là chủ tài
sản có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình và một bên là những
người khác có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu của chủ tài sản đó. Hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản làm mất khả năng chiếm hữu, quản lý tài sản trên thực tế của chủ tài sản, vi
phạm nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu của chủ tài sản, qua đó xâm phạm đến quan hệ sở
hữu được pháp luật bảo vệ.
Mọi tội phạm đều có đối tượng tác động nhất định. Đối tượng tác động của tội phạm
là bộ phận của khách thể của tội phạm, nó bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đối
tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tài sản4.
Tài sản là đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải là tài sản đang
nằm trong sự quản lý của chủ tài sản, bởi đặc trưng của hành vi chiếm đoạt là hành vi làm

3

Bộ luật dân sự 2005 (Điều 169) và Bộ luật dân sự 2015 (Điều 163) đều ghi nhận quyền sở hữu của cá
nhân, pháp nhân và chủ thể khác được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Theo đó , không ai có thể bị hạn
chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản của mình.
4
Tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và
quyền tài sản.
7


cho chủ tài sản mất hẳn khả năng chiếm hữu, quản lý tài sản trên thực tế và tạo khả năng
đó cho người chiếm đoạt, vì vậy chỉ khỉ tài sản đang nằm trong sự chiếm hữu, quản lý
chủ tài sản thì mới nói đến hành vi “làm mất khả năng đó”. Vì vậy, tài sản bị thất lạc (bị
mất, bị bỏ quên, bị đánh rơi) không thể là đối tượng của hành vi chiếm đoạt nói chung và
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
1.1.2.2. Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Chủ thể của tội phạm theo quy định của BLHS có thể là cá nhân hoặc pháp nhân
thương mại.
Pháp nhân thương mại cũng là chủ thể của tội phạm. Đây là một quy định mới của
Bộ luật hình sự khi ghi nhận pháp nhân cũng là một chủ thể của tội phạm. Pháp nhân
thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lượi nhuận và lợi nhuận được
chia cho các thành viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức
kinh tế khác. Đây là chủ thể đặc biệt, theo quy định của Bộ luật hình sự, pháp nhân
thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều
75 của BLHS. Tuy nhiên tại Điều 76 BLHS lại không quy định pháp nhân phải chịu trách
nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, pháp nhân thương mại
không phải là chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Cá nhân phạm tội là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và
đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.

Trong BLHS Việt Nam không quy định thế nào là người có năng lực trách nhiệm
hình sự mà chỉ quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và tình trạng không có năng lực
trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở các quy định đó, khoa học luật hình sự đưa ra định nghĩa
về người có năng lực trách nhiệm hình sự “là người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình
sự”.5
Năng lực trách nhiệm hình sự chỉ được hình thành khi con người đã đạt độ tuổi nhất
định và sẽ tiếp tục phát triển hoàn thiện trong thời gian tiếp theo. Theo BLHS Việt Nam
5

Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập I), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [tr.123]
8


thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những
tội phạm mà BLHS có quy định khác; Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi
chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS, nghĩa là về các tội như: lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản,
tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và một số tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng khác (trong đó không bao gồm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản).
Tuy nhiên, năng lực trách nhiệm hình sự cũng có thể bị hạn chế hoặc bị loại trừ
hoàn toàn nếu người đó bị mắc các bệnh làm rối loạn hoạt động bình thường của bộ não.
Chính vì vậy, luật hình sự ngoài việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự còn quy
định những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.
Theo quy định tại Chương IV BLHS thì người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự mà phải áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

Trong thực tiễn áp dụng, khi đánh giá về năng lực trách nhiệm hình sự của một cá
nhân thì hầu như chỉ áp dụng việc xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và nếu trong
quá trình giải quyết các cơ quan tố tụng có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi của người đó thì mới cần kiểm tra xem có phải là trường hợp ở trong tình
trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự hay không.
Căn cứ vào những quy định trên, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ có
thể là người từ đủ 16 tuổi trở lên đối với mọi trường hợp phạm tội và không thuộc trường
hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường, tức là mọi cá nhân đạt
độ tuổi luật định, không ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự và đã
thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 BLHS thì đều có
thể trở thành chủ thể của tội này.
9


BLHS năm 2015 quy định khác về chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo
Điều 12 BLHS năm 2015 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì:
- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi tội phạm,
trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác;
- Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình
sự về một số tội phạm cụ thể được quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 (trong đó không
bao gồm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản).
Căn cứ vào quy định của BLHS năm 2015 thì chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản chỉ có thể là cá nhân, phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên và không ở trong tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015; Pháp
nhân thương mại và người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi không phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với mọi trường hợp phạm tội.
1.1.2.3. Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Mặt khách quan của tội phạm bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho
xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả và các điều kiện bên

ngoài khác của việc thực hiện hành vi phạm tội như công cụ, phương tiện, phương pháp,
thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội...
+ Hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Trong một khách quan của tội phạm thì hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản và
được phản ánh trong tất cả các CTTP, không có hành vi khách quan thì không có tội
phạm. Hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được mô tả trong CTTP cơ
bản (khoản 1 Điều 174 BLHS) là hành vi bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của
người khác. Tuy nhiên không phải mọi hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản đều bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chỉ cấu thành tội này khi tài
sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị
xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

10


Có hai quan điểm khác nhau về hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hành vi phạm tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
gồm hai hành vi khác nhau. Đó là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Giữa hai hành
vi này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hành vi lừa dối là điều kiện để hành vi chiếm
đoạt có thể xảy ra, còn hành vị chiếm đoạt là mục đích và là kết quả của hành vi lừa dối 6.
Theo quan điểm này, hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hai
hành vi là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Do đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
nên người phạm tội chỉ có một hành vị khách quan duy nhất là “chiếm đoạt", nhưng
chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Theo quan điểm này, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là hành vi chiếm đoạt, “thủ đoạn gian dối” được
mô tả trong CTTP của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không được coi là một hành vi độc
lập mà chỉ là phương thức để thực hiện hành vi.
Theo quan điểm cá nhân, tác giả đồng ý với quan điểm thứ nhất, coi hành vi khách

quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hai hành vi: hành vi lừa dối và hành vi
chiếm đoạt. Bởi vì, mặc dù BLHS quy định trong CTTP của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản là “thủ đoạn gian dối”, tuy nhiên bất kể thủ đoạn nào cũng đều phải được biểu hiện
ra bên ngoài bằng hành vi nhất định. “Gian dối” là việc đưa ra những thông tỉn giả,
không đúng sự thật, xét cho cùng đó chính là hành vi được ý thức kiểm soát và ý chí điều
khiển. Hơn nữa, thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải được biểu
hiện bằng những hành vi lừa dối nhất định trước khi người phạm tội thực hiện tiến hành
vi chiếm đoạt tài sản. Do đó, giữa hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản có sự độc
lập tương đối và xảy ra nối tiếp nhau về mặt thời gian. Hành vi lừa dối là điều kiện để
hành vi chiếm đoạt có thể xảy ra, còn hành vi chiếm đoạt là kết quả của hành vi lừa dối.
Xét về mặt khách quan, hành vi lừa dối là hành vi đưa ra thông tin không đúng sự
thật, về mặt chủ quan người phạm tội biết thông tin mình đưa ra là không đúng sự thật
nhưng mong muốn người khác tin đó là sự thật. Hành vị lừa dối có thể được thực hiện
6 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

[tr.37]

11


bằng lời nói dối; bằng việc đưa ra các giấy tờ giả mạo; giả danh người có chức vụ, quyền
hạn; giả danh các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội...
Hành vi chiếm đoạt tài sản là “hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang
thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình” 7. Hay nói cách khác, hành vi
chiếm đoạt là hành vi làm cho người sở hữu tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực
hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó một cách trái pháp luật.
Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hai hình thức thể
hiện cụ thể:
Thứ nhất, nếu tài sản bị chiếm đoạt đang nằm trong sự chiếm hữu của chủ tài sản thì

hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi nhận tài sản từ người
bị lừa dối. Trong trường hợp này, người bị lừa dối tin vào những thông tin sai sự thật mà
người phạm tội đưa ra nên đã tự nguyện giao tài sản đang nằm trong sự chiếm hữu của
mình cho người phạm tội. Khi nhận được tài sản cũng là lúc người phạm tội làm chủ
được tài sản định chiếm đoạt và người bị lừa dối đã mất khả năng làm chủ tài sản đó trên
thực tế, tức là người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Ví dụ: A báo mất Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của mình để làm thêm 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng nữa.
Cùng lúc đó A đã bán mảnh đất của mình cho B với giá 500.000.000 đồng và C giá
600.000.000 đồng. Khi B và C đi làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phát hiện A
đã bán mảnh đất này cho 02 người. Trong tình huống này, tài sản bị chiếm đoạt là số tiền
500.000.000 đồng của B và 600.000.000 đồng của C đang nằm trong sự chiếm hữu của
A. Hành vi chiếm đoạt của A thể hiện ở việc nhận số tiền 500.000.000 đồng và
600.000.000 đồng từ B và C.
Thứ hai, nếu tài sản bị chiếm đoạt đang nằm trong sự chiếm hữu của người phạm tội
thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi giữ lại tài sản đáng
lẽ phải giao cho người bị lừa dối. Trong trường hợp này, người bị lừa dối vì tin vào
những thông tin sai sự thật mà người phạm tội đưa ra nên đã nhận nhầm tài sản (nhận
7 Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

[tr.11]

12


thiếu hoặc nhận sai tài sản) hoặc không nhận tài sản. Khi người bị lừa dối nhận nhầm
hoặc không nhận tài sản cũng là lúc người phạm tội đã làm chủ được tài sản và người bị
lừa dối đã mất tài sản đó, tức là người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Ví dụ: A và B
là đồng thừa kế theo pháp luật đối với khối di sản X có giá trị 300.000.000 đồng, A và B
thỏa thuận cử C (không thuộc diện thừa kế theo pháp luật) làm người quản lý di sản.
Trong quá trình quản lý di sản, C có hành vi làm giả các giấy tờ về việc thanh toán các

khoản nợ do người chết để lại hết số tiền 100.000.000 đồng. Đến thời điểm chia thừa kế,
khối di sản chia thừa kế chỉ còn lại 200.000.000 đồng. Trong tình huống này, tài sản bị
chiếm đoạt là số tiện 100.000.000 đồng trong khi di sản X đang nằm trong sự chiếm hữu
của C (vì C được cử làm người quản lý di sản). Hành vi chiếm đoạt của C thể hiện ở việc
C đã giữ lại số tiền 100.000.000 đồng trong khối di sản X mà đáng lẽ phải giao cho
những người thừa kế là A và B.
Thời điểm người phạm tội chiếm đoạt được tài sản thì nó được coi là hoàn thành tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thông thường hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra kế tiếp ngay
sau hành vi lừa dối nhưng cũng có những trường hợp giữa hành vi lừa dối và hành vi
chiếm đoạt tài sản có khoảng cách nhất định về mặt thời gian. Vì vậy, cần chú ý đến
trường hợp này để xác định chính xác thời điểm tội phạm hoàn thành. Ví dụ như: Biết gia
đình chị L có nhu cầu xin vào biên chế Nhà nước cho con gái mới ra trường nên ngày
21/4/2017 bà V đã đến nhà chị L và giới thiệu mình là cán bộ của cơ quan X, có mỗi
quan hệ thân thiết với ông A là Giám đốc nên có khả năng xin cho con chị L vào biên chế
với giá 300.000.000 đồng. Bà V hẹn 01 tuần sau mang tiền đến thì xin cho con chị L và
biên chế. Vì tin bà V và muốn xin việc cho con nên chị L đã đồng ý. Ngày 28/4/2017 chị
L mang tiền đến đưa cho bà V, bà V nhận tiền nhưng không xin được cho con chị L và
cũng không trả lại chị L. Sau đó bà V bỏ trốn khỏi địa phương, con chị L không được vào
biên chế. Trong tình huống này, hành vi lừa dối của bà V (giới thiệu mình là cán bộ của
cơ quan X, có mỗi quan hệ thân thiết với ông A là Giám đốc nên có khả năng xin cho con
chị L vào biên chế) diễn ra vào ngày 21/4/2017 nhưng đến ngày 28/4/2017 hành vi chiếm
đoạt tài sản mới được thực hiện (V nhận tiền và đã kiểm soát số tiền đó). Giữa hành vi
13


lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản của bà V có khoảng cách về mặt thời gian. Thời
điểm tội phạm hoàn thành trong trường hợp này là thời điểm bà V nhận được tiền từ chị
L.
Trường hợp người phạm tội cũng có hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản
nhưng những hành vi này đã được BLHS quy định thành các tội phạm độc lập thì người

phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác tương ứng. Ví dụ: Hành vi lừa đảo nhằm
chiếm đoạt chất ma túy thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 249-251)...
Hành vi lừa dối phải có trước khi thực hiện việc giao nhận tài sản giữa người bị lừa
dối và người phạm tội thì mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tải sản, nếu hành vi lừa
dối xảy ra sau khi người phạm tội đã nhận được tài sản từ chủ tài sản thì không phải là tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175).
Việc giao nhận tài sản giữa người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và người bị
lừa dối là tự nguyện; nếu người bị lừa dối không tự nguyện giao nhận tài sản như trường
hợp giả danh người có chức vụ, quyền hạn nhằm tuy hiếp tinh thần của người khác làm
cho họ lo sợ mà miễn cưỡng giao tài sản thì không phải tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà
có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170).
+ Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là
khách thể bảo vệ của luật hình sự. Bất cứ tội phạm nào cũng có thể gây ra hậu quả nguy
hiểm cho xã hội nhưng không phải mọi CTTP đều phản ảnh nội dung này mà chỉ có một
số CTTP nhất định – đó là những CTTP vật chất.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có CTTP vật chất, tức là dấu hiệu hậu quả được
quy định là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174).
Dấu hiệu này trước hết được phản ánh thông qua đặc điểm về lượng của đối tượng tác
động, cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt.
14


Mặc dù BLHS quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ 2.000.000 đồng trở lên
hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng phải thỏa mãn một trong số những điều kiện theo quy
định tại khoản 1 Điều 174 thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản. Tuy nhiên không vì thế mà cho rằng, phải có thiệt hại về tài sản (người phạm

tội đã chiếm đoạt được tải sản) thì mới cấu thành tội phạm. Thời điểm người phạm tội
chiếm đoạt được tài sản là thời điểm tội phạm hoàn thành, trường hợp người phạm tội có
ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản và đã thực hiện các hành vi chuẩn bị cho việc chiếm
đoạt hoặc đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng vì những nguyên nhân khách
quan mà chưa chiếm đoạt được tài sản, thì vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội (Điều 14) hoặc phạm tội chưa
đạt (Điều 15) tùy vào từng trường hợp cụ thể.
Bộ luật hình sự năm 2015 đã bỏ dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng”, đồng thời
bổ sung dấu hiệu “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” và “tài sản bị
chiếm đoạt là phương tiện kiểm sống chính của người bị hại và gia đình họ” với trường
hợp tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng là dấu hiệu định tội của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản. Đây là những dấu hiệu có tính chất định tính mới được quy định ở một số tội
xâm phạm sở hữu, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
Việc định tội đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn đòi hỏi xác định cả mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm. Bởi lẽ, con người chỉ phải chịu trách nhiệm về hậu quả nguy hiểm cho xã hội nếu
hậu quả nguy hiểm đó do chính hành vi khách quan của họ gây ra hay nói cách khác nếu
giữa hành vi khách quan đã thực hiện của họ và hậu quả nguy hiểm để có mối quan hệ
nhân quả với nhau.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được biểu hiện như sau:

15


- Hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản phải xảy ra trước khi có thiệt hại về tài sản.
Đây là căn cứ đầu tiên để kiểm tra xem giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm
cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có mối quan hệ nhân quả hay không.

- Hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản khi xem xét độc lập hoặc trong mối liên hệ
tổng hợp với một hoặc nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát
sinh thiệt hại về tài sản. Ví dụ: G đã làm giả giấy tờ xe môtô để chuẩn bị bán xe cho T, T
kiểm tra giấy tờ xe không phát hiện là giả nên đã tin là xe của G và giao cho G
20.000.000đồng để mua chiếc xe của G. Trong tình huống này, việc G làm giả giấy tờ xe
là hành vi lừa dối chứa đựng khả năng thực tế, nó khiến T tin tưởng nên đã giao tiền mua
xe cho G, ở đây đã làm phát sinh thiệt hại về tài sản của T.
- Thiệt hại về tài sản đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hóa khả năng thực tế làm
phát sinh hậu quả của hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản. Trên thực tế có trường hợp
mặc dù hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản có chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh
thiệt hại về tài sản nhưng khả năng không được hiện thực hóa, thiệt hại về tài sản đó lại là
kết quả của hành vi phạm tội khác. Ví dụ: G đã làm giả giấy tờ xe môtô để chuẩn bị bán
xe cho T, T kiểm tra giấy tờ xe không phát hiện là giả nên đã tin là xe của G và hẹn ngày
hôm sau mang tiền đến lấy xe, hai bên chốt giá xe là 20.000.000 đồng. Tuy nhiên ngày
hôm sau em trai của G lấy xe mô ô đi chơi và cầm cố tại cửa hàng cầm đồ nên G không
có xe giao cho T. Trong tình huống này, G có hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản của T,
hành vi này cũng chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại về tài sản cho T thể
hiện ở việc T đã hẹn hôm sau đem tiền đến lấy xe và nếu không có hành vi của em trai G
lấy xe đi chơi và cầm cố chen ngang vào thì T đã giao tiền cho G và G đã chiếm đoạt
được tài sản của T, trực tiếp gây thiệt hại về tài sản cho T. Tuy nhiên, trên thực tế hành vi
của G đã không làm phát sinh thiệt hại về tài sản cho T mà thiệt hại đó lại là kết quả của
hành vi đem xe đi chơi rồi cầm cố của em trai G.
Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm
cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội,

16


đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, tránh bỏ lọt tội
phạm và không làm oan người vô tội.

1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội phạm là thể thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan. Nếu mặt khách
quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm thì mặt chủ quan là hoạt
động tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm: lỗi, mục đích và động cơ phạm tội,
trong đó lỗi được phản ánh trong tất cả các CTTP
+ Dấu hiệu lỗi của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình
và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý và vô ý.
Lỗi được chia thành hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý, trong mỗi CTTP cơ bản, dấu
hiệu lỗi nói chung chỉ có thể là một loại lỗi, lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Lỗi cố ý bao gồm hai
hình thức là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp, lỗi vô ý cũng gồm hai hình thức là vô ý vì
quá tự tin và vô ý do cẩu thả.
Mặc dù tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không được nhà làm luật mô tả trực tiếp dấu
hiệu lỗi trong CTTP, tuy nhiên tính chất của hành vi chiếm đoạt tài sản đã phản ánh dấu
hiệu lỗi của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Cố ý trực tiếp là trường
hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (khoản 1 Điều 10 BLHS).
Dấu hiệu lỗi của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được biểu hiện như sau:
- Về lý trí: Người phạm tội khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn
gian dối đã nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hành vi
của mình sẽ gây thiệt hại về tài sản cho người khác. Người phạm tội biết tài sản thuộc
quyền sở hữu của người khác, việc họ thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ
xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài sản, là hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Người phạm tôi cũng đồng thời thấy trước hậu quả là những thiệt hại về tài sản
mà hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra cho chủ sở hữu.

17


- Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây thiệt

hại về vật chất cho chủ tài sản, chỉ khi gây thiệt hại cho chủ tài sản thì người phạm tội
mới có thể chiếm đoạt được tài sản, thiệt hại đó làm mất hẳn khả năng chiếm hữu tài sản
trên thực tế của chủ tài sản và chuyển khả năng đó sang cho mình.
+ Động cơ, mục đích của người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải
đạt được khi thực hiện hinh vi phạm tội. Bất cứ trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp
nào cũng đều có mục đích phạm tội, bởi chỉ trong trường hợp này người phạm tội mới có
sự mong muốn gây ra tội phạm để đạt được những mục đích nhất định.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội
thực hiện hành vi nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, tức là người phạm tội khi thực hiện
hành vi đã đặt ra kết quả trong ý thức chủ quan của mình là phải đạt được việc chuyển
dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của người khác thành tài sản của mình.
Trong CTTP của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không phản ánh mục đích phạm tội một
cách trực tiếp, tuy nhiên việc mô tả hành vi chiếm đoạt và hậu quả mà hành vi chiếm đoạt
gây ra đã thể hiện được mục đích chiếm đoạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sån.
Nếu một người thực hiện hành vi lừa dối để nhận được tài sản của người khác
nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt thì cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà có thể bị truy cứu về một tội khác nếu hành vi họ đã
thực hiện thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý được mô tả trong CTTP của tội đó, ví dụ hành vi
lừa dối để nhận tài sản của người khác mà không được sự đồng ý của chủ tài sản thì có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177) nếu người
phạm tội chỉ có ý định sử dụng tài sản để phục vụ cho các nhu cầu cá nhân và sẽ trả lại tài
sản đó cho chủ sở hữu, không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản và cũng không sử dụng
tài sản đó làm công cụ, phương tiện để thực hiện một tội phạm khác.
Người phạm tội có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc
chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiêm đoạt tài sản. Ví dụ: A giới thiệu hiện A
18



đang làm bác sĩ tại Bệnh viện của C nhưng thực tế A đã nghỉ việc từ lâu. Lợi dụng tình
hình dịch bệnh người dân hoang mang A quảng cáo mình có thuốc kháng sinh chống vi
rút Covid-19 nên có rất nhiều người đến nhờ A tiêm thuốc với chi phí cao. Tuy nhiên
thực tế thuốc kháng sinh chống vi rút Covid-19 và một số thuốc bán kèm theo mà A tiêm
và bán chỉ là nước cất và thuốc bổ được A hay mua tại Bệnh viện của C. Vì hám lợi
nhuận từ việc bán dụng cụ y tế và các loại thuốc kèm theo cho A nên C không cảnh báo
người dân, không những thế C còn cho A mượn một phòng của bệnh viện để tiêm thuốc
và tư vấn cho người dân. Trong trường hợp này, A và C là đồng phạm, trong đó A là
người tổ chức, cần đầu và đồng thời là người thực hiện hành vi, còn C là người giúp sức.
C có mục kiêm lời từ việc bán đồ cho C nên đã chấp che giấu mục đích chiếm đoạt tài
sản của người đồng phạm là A, vì vậy cả A và B phải cùng bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi
phạm tội cố ý. Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể có một hoặc nhiều động
cơ khác nhau nhưng chủ yếu là do động cơ vụ lợi, tức là người phạm tội vì muốn thu về
những lợi ích vật chất cho mình nên đã thôi thúc họ thực hiện hành vi phạm tội. Động cơ
phạm tội không được phản ánh trong CTTP cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vì
vậy, động cơ của người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không có ý nghĩa trong việc
định tội mà chỉ có ý nghĩa trong việc xem xét mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội khi quyết định hình phạt.
1.2 Phận biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm khác
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là trường hợp người phạm tội bằng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản của người khác. Trong BLHS Việt Nam cũng quy định một số tội
được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối như: tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội
lừa dối khách hàng... Do đó, cần thiết phải có sự phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
với các tội phạm này nhằm đảm bảo áp dụng các quy định của BLHS một cách chính xác
và hiệu quả.
1.2.1. Phân biệt với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
19



Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 BLHS là
trường hợp người phạm tội thực hiện một trong hai hành vi phạm tội dưới đây nhằm
chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng trở lên hoặc đuới 4.000.000
đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản:
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác
bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài
sản đó;
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác
bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến
không có khả năng trả lại tài sản.
Căn cứ vào quy định trên, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là trường hợp
người phạm tội vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người
khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn giai dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt
tài sản tài sản đó, hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có
khả năng trả lại tài sản.
Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản (Điều 175) thực chất là việc phân biệt giữa hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối, cụ thể như
sau:
Thứ nhất, thủ đoạn gian dối của cả hai tội đều được biểu hiện bằng những hành vi
lừa dối cụ thể, tuy nhiên hành vi lừa dối xảy ở mỗi tội lại có vai trò khác nhau đối với
việc chiếm đoạt tài sản.
Hành vi lừa dối của tội lừa đảo chiếm đoạt là điều kiện để hành vi chiếm đoạt tài
sản có thể xảy ra, không có hành vi lừa dối thì cũng không có việc giao nhận tài sản giữa
người phạm tội và người bị lừa dối. Do đó, hành vi lừa dối của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản phải xảy ra trước khi có sự giao nhận tài sản giữa người phạm tội và chủ tài sản. Ví
dụ: A nói dối B là cho A mượn xe để đi đón người yêu ở bến xe, B tin tưởng A nên đã
20



cho A mượn xe để đi đón người yêu nhưng sau khi mượn được xe, A đã mang xe cầm cố
lấy 4.000.000 đồng để ăn tiêu. Ở đây, hành vi lừa dối của A là để B tin tưởng mà giao xe
máy cho A mượn, không có hành vi lừa dối đó thì B cũng không cho A mượn xe máy.
Do đó, hành vi lừa dối của A phải xảy ra trước khi có sự giao nhận về tài sản, là điều kiện
để hành vi chiếm đoạt có thể xảy ra.
Còn đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, việc giao nhận tài sản là
ngay thẳng thông qua các giao dịch dân sự hợp pháp (vay, mượn, thuê...), do đó thời
điểm giao nhận người phạm tội chưa có hành vi lừa dối và cũng không cần thiết phải có
hành vi lừa dối để việc giao nhận tài sản có thể xảy ra. Sau khi nhận tài sản người phạm
tội mới có hành vi lừa dối để giữ lại tài sản đáng lẽ phải trả cho chủ tài sản, hay nói cách
khác hành vi lừa dối là để che giấu cho hành vi chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, hành vi lừa
dối của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được thực hiện sau khi có sự giao nhận
tài sản giữa người phạm tội và chủ tài sản. Ví dụ: A mượn xe máy của B để đi chơi với
người yêu và hẹn hôm sau sẽ trả. Đến thời hạn trả xe, do thiếu tiền tiêu xài nên A đã nảy
sinh ý định chiếm đoạt và nói dối B là xe bị mất trộm, sau đó mang xe đi bán. Ở đây,
chiếc xe đã nằm trong sự chiếm hữu của A, hành vi lừa dối của A (nói dối xe bị trộm cắp)
không phải để nhận xe mà nhằm giữ lại chiếc xe đã đến hạn phải trả cho B và che giấu
cho hành vi chiếm đoạt (bán xe).
Thứ hai, cả hai tội đều có mục đích chiếm đoạt tài sản nhưng ở các thời điểm khác
nhau, cụ thể:
Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội vì muốn chiếm đoạt tài sản
nên mới thực hiện hành vi lừa đối để giao nhận tài sản với chủ tài sản, qua đó chiếm đoạt
tài sản của họ. Vì vậy, mục đích chiếm đoạt tài sản đã có trước thời điểm giao nhận tài
sản.
Còn đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, ngay từ đầu người phạm tội
đã không có ý định chiếm đoạt tài sản nên mới ký kết các hợp đồng ngay thẳng để giao
nhận tài sản. Tuy nhiên, sau khi nhận được tải sản vì nhiều lý do nên người phạm tội mới


21


×