Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Luận văn thạc sĩ tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (897.73 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ CHINH

TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ CHINH

TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Ngành:Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN

Hà Nội - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập
của riêng tơi; các số liệu, ví dụ, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là
trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Các luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ
ràng. Kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa từng được công bố trong cơng
trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN................................. 8
1.1. Những vấn đề lý luận về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ........ 8
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản........................................................................... 21
1.3. Một số vấn đề lý luận về luận định tội danh và quyết định hình phạt
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.................................................33
Chương 2: ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI
VỚI TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ
THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH .................................................................. 37
2.1. Khái qt tình hình tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh................................................................................ 37
2.2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Ninh .............................................. 41
2.3. Một số thiếu sót, hạn chế và nguyên nhân ......................................... 48
Chương 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TẠI TỈNH BẮC NINH..................................... 55
3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự tội lạm dụng tín

nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Ninh.................................................. 55
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Ninh ................................ 58
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

CTTP:

Cấu thành tội phạm

TAND:


Tịa án nhân dân

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

NQ:

Nghị quyết

PLHS:

Pháp luật hình sự

HĐXX:

Hội đồng xét xử

HĐTP:

Hội đồng thẩm phán


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Bảng thống kê các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
so với tổng số tội phạm được đưa ra xét xử giai đoạn 2015 – 2019 ....... 37
Bảng 2.2: Bảng thống kê tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản so với
nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đã được đưa ra
xét xử sơ thẩm giai đoạn 2015 – 2019 .................................................... 38

Bảng 2.3: Bảng thống kê tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản so với
nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đã được đưa ra
xét xử phúc thẩm giai đoạn 2015 – 2019 ................................................ 39
Bảng 2.4. Bảng thống kê những hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo
phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ năm 2015 đến
năm 2019 ................................................................................................. 40


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tội phạm truyền thống,
phổ biến trong số các tội xâm phạm sở hữu được quy định trong các văn bản
pháp luật hình sự của Nhà nước ta. Tuy nhiên, đây cũng là tội gây ra nhiều sự
nhầm lẫn trong việc định tội danh và quyết định hình phạt khi các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phải nhận diện đúng quan hệ dân sự với hành vi lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hoặc giữa tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản để từ đó áp dụng pháp luật một
cách khách quan, đầy đủ và chính xác. Đặc biệt trong tình hình hiện này khi
đất nước ta đang trong thời kì xây dựng nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, với xu thế tồn cầu hóa và khu vực hóa diễn ra mạnh
mẽ, các giao dịch dân sự, kinh doanh thương mại phát sinh ngày càng phong
phú và đa dạng.
Tỉnh Bắc Ninh là tỉnh có diện tích nhỏ nhất Việt Nam, thuộc Đồng
bằng sông Hồng và nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Việt Nam.
Bắc Ninh tiếp giáp với vùng trung du Bắc bộ tại tỉnh Bắc Giang. Thành phố
Bắc Ninh nằm cách trung tâm Thành phố Hà Nội 30 km về phía đơng bắc, có
vị trí địa lý: Phía tây và tây nam giáp thủ đơ Hà Nội; Phía bắc giáp tỉnh Bắc
Giang; Phía đơng và đơng nam giáp tỉnh Hải Dương; Phía nam giáp tỉnh
Hưng Yên.
Trong những năm qua, dưới sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các

Bộ, ngành Trung ương, sự chỉ đạo sát sao của cấp ủy, chính quyền tỉnh, Bắc
Ninh đã từng bước có những nỗ lực vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, đi kèm với đó là sự gia tăng
của nhiều loại tội phạm, trong đó có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản. Qua thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cho thấy, loại tội phạm
này hiện đang diễn biến phức tạp, bản án của Tòa án hai cấp (sơ thẩm và phúc
thẩm) cho thấy vẫn cịn một số thiếu sót trong định tội danh và quyết định
1


hình phạt loại tội này. Mặc dù, BLHS 2015 có hiệu lực toàn bộ kể từ ngày
01/01/2018, với nhiều quy định mới được ghi nhận đã đáp ứng cơ bản tình
hình thực tiễn đấu tranh, phịng chống tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung
và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng; tuy nhiên, nghiên cứu
các quy định của BLHS năm 2015 cho thấy còn một số tồn tại, bất cập trong
quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Những tồn tại này đã
làm ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc đấu tranh phòng chống tội này trên
cả nước cũng như địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Trong khi đó, qua khảo sát
các đề tài khoa học cho thấy, chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu về
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn một tỉnh là tỉnh Bắc
Ninh, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.
Nhận thức được tầm quan trọng nêu trên,nhằm góp phần tích cực trong
cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm tội làm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản trên địa bản cả nước và tỉnh Bắc Ninh nói riêng; đồng thời, đề xuất
một số giải pháp nhằm khắc phục tồn tại, bất cập trong quá trình định tội danh
và quyết định hình phạt về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tác giả
đã chọn đề tài “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh
Bắc Ninh” làm đề tại luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khơng phải là vấn đề mới và

đã có khá nhiều cơng trình khoa học, các bài viết đề cập đến loại tội phạm
này, có thể kể đến các nhóm cơng trình như:
Các cơng trình liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu như:
- Dương Thị Hải Yến (2018), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh,
Luận án tiến sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội.
Luận án đã đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ở nước ngoài và ở Việt Nam; Làm rõ
những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
2


đoạt tài sản và thực trạng định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội phạm
này tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2006 đến năm 2016, đồng thời đưa ra
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh.
- Hồng Thị Kim Chi (2017), Định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí
Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.
Luận văn đã nghiên cứu làm rõ lý luận về hoạt động định tội danh nói
chung và định tội danh tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh. Phân tích các quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản để làm rõ các
dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này và so sánh với một số tội phạm
khác có tính chất tương đồng trong BLHS. Khảo sát thực trạng, đánh giá
những ưu điểm, hạn chế và phân tích nguyên nhân của hoạt động định tội
danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh, từ năm 2012 đến năm 2016. Ngoài ra, luận văn đã đưa ra dự báo và
giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong hoạt
động định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn

Thành phố Hồ Chí Minh.
- Vũ Thị Oanh Kiều (2017), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn
thạc sĩ luật học,Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.
Luận văn đã phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam; thực tiễn định tội
danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2012-2016; luận văn cũng đã chỉ
ra được một số hạn chế, vướng mắc, bất cập và đề xuất một số giải pháp bảo
đảm định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3


- Đinh Văn Quế, Những điểm mới của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản” quy định trong Bộ luật hình sự, Tạp chí Tịa án nhân dân, số
8/2016, tr. 15 – 16.
Bài viết của tác giả, đã phân tích một số quy định mới của tội “Lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”như nhà làm luật đã cụ thể hóa và bổ sung
mới hành vi chiếm đoạt tài sản dưới 04 triệu đồng quy định tại khoản 1 Điều
175 BLHS năm 2015; bỏ dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng, bổ sung thêm
dấu hiệu định tội “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và
gia đình họ”, và quy định tình tiết mới đáng chú ý vào tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản là “đến hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng
nhưng cố tình khơng trả; bỏ dấu hiệu định khung hình phạt như “gây hậu quả
nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng”, đây là những tình tiết khó xác định.
Ngồi ra cịn có thể kể đến nhiều cơng trình khác có liên quan như:
Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam,
Tập2, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa

học Bộ luật hình sự, Tập 2, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội; PGS.TS.
Cao Thị Oanh chủ biên (2015), “Các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
tài sản”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình
sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội; Trần Duy Bình (2002),”Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản - một số vướng mắc trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp
chí Tịa án nhân dân, số 22/2012, Hà Nội.
Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu này chủ yếu tiếp cận ở các góc độ
khái quát hoặc dưới góc độ so sánh tội phạm này với các loại tội phạm khác
trong chương các tội xâm phạm sở hữu của BLHS Việt Nam hoặc các cơng
trình nghiên cứu đó nghiên cứu tại thời điểm áp dụng BLHS cũ đã hết hiệu
lực hoặc phạm vi bài viết thuộc các địa phương khác nhau. Đặc biệt dưới hình
thức luận văn thạc sĩ là chưa có bất kì một cơng trình nghiên cứu về tội lạm
4


dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn cụ thể là tại tỉnh Bắc Ninh.Do
vậy, đề tài luận văn “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn
tỉnh Bắc Ninh”đảm bảo tính mới và khơng trùng lặp với các cơng trình
nghiên cứu khoa học có liên quan.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và
thực tiễn áp dụng pháp luật về định tội danh và quyết định hình phạt đối với
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ năm 2015 đến năm 2019 tại tỉnh
Bắc Ninh, cùng với việc phân tích các vụ án cụ thể, xác định những tồn tại,
bất cập trong quy định của BLHS của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nhằm
nâng cao hiệu quả của công tác áp dụng pháp luật đối với loại tội phạm này
tại tỉnh Bắc Ninh.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài cần phải thực hiện các
nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận, các quy định của
Bộ luật hình sự và làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản làm căn cứ phân biệt tội phạm này với một số loại tội phạm
xâm phạm sở hữu khác;Trình bày khái quát lịch sử hình thành và phát triển
quy định về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình
sự Việt Nam qua các thời kỳ.
- Phân tích thực tiễn hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, thông qua một số vụ án điển hình
về lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã được giải quyết từ thực tiễn tỉnh
Bắc Ninh trong thời gian từ 2015 – 2019. Trên cơ sở đó, làm rõ những khó
khăn, vướng mắc, bất cập mà các cơ quan tiến hành tố tụng gặp phải khi định
tội danh, quyết định hình phạt đối với tội này và nguyên nhân của nó.
5


- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của BLHS, các
văn bản hướng dẫn thi hành và các giải pháp khác bảo đảm định tội danh và
quyết định hình phạt đúng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận, pháp luật và thực tiễn
áp dụng pháp luật về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Phân tích tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy
định tại Điều 140 BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, và Điều 175 BLHS

năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 và các văn bản hướng dẫn.
- Về mặt không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu tại tỉnh Bắc Ninh.
- Về thời gian: Các số liệu được thu thập trong giai đoạn từ năm
2015 - 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin,lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và nhà nước về cải cách
tư pháp. Ngoài ra, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu bản án,
lôgic, quy nạp, diễn dịch, mô tả ... và các phương pháp nghiên cứu của khoa
học luật hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm rõ hơn lý
luận về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Về thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là nguồn tài
liệu tham khảo trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt đối với
6


tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Một số đề xuất, kiến nghị của luận
văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho hoạt động áp dụng
trong thực tiễn Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác áp
dụng pháp luật này ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay và trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Chương 2: Định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật về tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Ninh.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Những vấn đề lý luận về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản
1.1.1.1. Khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền
văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng
dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà
theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [17,Điều 8].Đây là khái
niệm chung và toàn diện nhất về tội phạm, là cơ sở để xây dựng khái niệm các
tội phạm cụ thể trong BLHS Việt Nam, trong đó có tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản.
Bên cạnh đó, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tội danh
được nhiều tác giả tiếp cận, nghiên cứu và đưa ra các khái niệm trong khoa
học luật hình sự nhà nước ta, điển hình như:
Tác giả Đinh Văn Quế cho rằng: Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài

sản là vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ
trốn để chiếm đoạt tài sản tài sản đó, hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích
bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản [20,tr. 125].
Nhận xét: Khái niệm nêu trên của tác giả Đinh Văn Quế đã thể hiện
được những thủ đoạn của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên

8


đặt trong bối cảnh hiện nay thì khái niệm trên chưa đầy đủ vì ngồi các thủ
đoạn trên thì người phạm tội cịn có thêm thủ đoạn chiếm đoạt tài sản khác là:
sau khi có được tài sản thơng qua các giao dịch dân sự nhưng đến thời hạn trả
lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình khơng trả cho chủ sở
hữu hoặc người quản lý tài sản. Ngoài ra, khái niệm này chưa nêu được hành vi
khách quan của tội này là hành vi “chiếm đoạt tài sản” đó là hành vi chuyển dịch
trái pháp luật tài sản đang được sự quản lí của người khác thành tài sản của
mình, mà chỉ mới nêu về thủ đoạn thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Điệp thì: Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản, được hiểu là hành vi sau khi vay, mượn, thuê hoặc nhận được tài sản
của người khác bằng các hình thức hợp đồng đã dùng thủ đoạn gian dối hoặc
bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có
điều kiện, khả năng nhưng cố tình khơng trả hoặc đã sử dụng tài sản đó vào
mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản. [13,tr.121].
Nhận xét: Khái niệm nêu trên của tác giả Nguyễn Ngọc Điệp đã thể
hiện được đầy đủ thủ đoạn của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy
nhiên, khái niệm này cũng chưa nêu được hành vi khách quan của tội này là
hành vi “chiếm đoạt tài sản” mà chỉ nêu về thủ đoạn thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản.
Các tác giả Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng có quan điểm: Lạm

dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn vay,
mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác
bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để
chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện,
khả năng nhưng cố tình khơng trả hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất
hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản. [4,tr.226].
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội đưa
ra khái niệm như sau: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi
chiếm đoạt tài sản của người ....”[23;tr.33].
9


Nhận xét: Khái niệm của tác giả tác giả Trần Văn Biên và Đinh Thế
Hưng và của Trường Đại học Luật Hà Nội đều đã nêu được bản chất của tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản với các
thủ đoạn đặc trưng của tội này. Tuy nhiên, các khái niệm này vẫn chưa nêu
lên được yếu tố chủ thể, khách thể và lỗi của tội này.
Tác giả cho rằng các quan điểm trên đều có những nhân tố hợp lý, đã
nêu lên được bản chất và các thủ đoạn của của hành vi lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản là:Chiếm đoạt tài sản bằng các thủ đoạn vay, mượn, thuê
tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình
thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản
đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố
tình khơng trả hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến
khơng có khả năng trả lại tài sản. Tuy nhiên, để xây dựng khái niệm hoàn
chỉnh về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì theo tác giả khái niệm
cần phản ánh được các dấu hiệu chủ thể, khách thể, các yếu tố đặc trưng của
mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm này.
Trong BLHS năm 2015 thì tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
được quy định tại Điều 175 thuộc chương XVI, thuộc nhóm tội xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt, là ”hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài
sản đang được sự quản lí của chủ sở hữu tài sản thành tài sản của mình”
[24]. Hành vi này xâm phạm khách thể là quyền sở hữu tài sản của Nhà nước,
cơ quan, tổ chức và cá nhân với lỗi cố ý trực tiếp.Cụ thể, Điều 175 quy định:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của
người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới
4.000.000 đồng…:a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được
tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối
hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có
điều kiện, khả năng nhưng cố tình khơng trả;b) Vay, mượn, th tài sản của
người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng
10


và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả
năng trả lại tài sản”.
Như vậy, trên cơ sở khái niệm pháp lý về tội phạm, Điều 175 về tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong BLHS năm 2015 và tiếp thu các khái
niệm về tội này trong khoa học luật hình sự, tác giả đưa ra khái niệm tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản là hành vi chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản
lí của người khác thành tài sản của mình bằng thủ đoạn vay, mượn, thuê tài
sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức
hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó
hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình
khơng trả; hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng
có khả năng trả lại tài sản, do người có năng lực trách nhiệm hình sự đủ độ
tuổi luật định, thực hiện một cách cố ý, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của
nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân.
1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Từ khái niệm chung về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, có
thể thấy tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đặc điểm chung của tội
phạm là: hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự
và phải chịu hình phạt. Được thể hiện thơng qua các dấu hiệu pháp lý sau:
* Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại [23, tr. 78].Khoa học luật hình sự Việt Nam, chia khách
thể thành 03 loại: khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp.
Trong BLHS 2015, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy
định tại Điều 175 BLHS năm 2015, thuộc chương các tội phạm xâm phạm sở
hữu. Khách thể loại và khách thể trực tiếp của tội này là là quyền sở hữu tài
sản của người khác, tội này không xâm phạm đến quan hệ nhân thân như tội
cướp tài sản, tội cướp giật tài sản....do vậy nhà làm luật không quy định thiệt
11


hại về nhân thân như (tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm) là tình tiết
định khung tăng nặng theo các CTTP tăng nặng tại khoản 2, 3, và 4 Điều 174
BLHS.Theo BLDS năm 2015 thì “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của
luật”[18, Điều 158]. Việc gây thiệt hại này thể hiện ở chỗ, hành vi đã làm cho
chủ sở hữu, người quản lý tài sản hợp pháp mất khả năng chiếm hữu (nắm
giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp), sử dụng (khai thác
công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản), định đoạt(quyền chuyển giao
quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu huỷ tài sản).
Sự gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm dù ở hình thức cụ thể nào
cũng luôn luôn diễn ra trên cơ sở hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng của
đối tượng tác động là bộ phận của quan hệ xã hội. Đối với nhóm tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản thì sẽ tác động đến bộ phận của khách thể đó là các đối tượng vật chất,

được coi là khách thể của quan hệ xã hội qua đó gây thiệt hại cho quan hệ sở
hữu. Cụ thể, đối tượng vật chất ở đây là tài sản của chủ sở hữu hoặc người
quản lý hợp pháp tài sản. Theo Điều 105 BLDS năm 2015 quy định: “Tài sản
là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”[18].
Ngồi ra, một số loại tài sản sau không phải là đối tượng của tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: khơng phải là đối tượng đặc biệt như vũ
khí quân dụng, tàu bay, tàu biển, đất đai...vì đây là đối tượng tác động của tội
phạm khác (xâm phạm khách thể khác được luật hình sự bảo vệ như chế độ
quản lý của nhà nước về vũ khí...). Đối với tài sản là giấy tờ có giá (giấy tờ trị
giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao lưu dân sự)phải là giấy tớ
có gia vơ danh như séc, cổ phiếu, tín phiếu, hồi phiếu, kỳ phiếu, cơng
trái…trong đó, “Giấy tờ có giá vơ danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình
thức chứng chỉ khơng ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vơ danh thuộc
quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá” [21, khoản 2, Điều 3] và khi
đó khi bị chiếm đoạt thì quyền sở hữu của chủ sở hữu mới bị ảnh hưởng và có
12


khả năng xác lập quyền sở hữu cho người phạm tội; đối với tài sản là quyền
tài sản (là quyền trị giá được bằng tiền có thể chuyển giao trong giao dịch dân
sự) như quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất…không phải là đối tượng tác
động của tội này vì”Việc chiếm giữ được giấy tờ chứng nhận quyền tài sản
không đồng nghĩa với việc được thực hiện quyền sử dụng và quyền định đoạt
tài sản[14, tr.153], tài sản là “bất động sản”như: đất đai, nhà cửa, do không
thể chuyển dịch theo nghĩa thông thường mà cần tiến hành theo trình tự, thủ
tục pháp lý về quyền tài sản thông qua hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho...
và phải sang tên trước bạ nên cũng không phải là đối tượng tác động của tội
phạm này.
* Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm

những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách
quan [23, tr.91], bao gồm: hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội, hậu quả
nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các
điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội như công cụ, phương
pháp, thời gian, địa điểm phạm tội...
Về hành vi khách quan:Với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
thì hành vi khách quan được biểu hiện dưới dạng hành động. Đó là hành vi
chiếm đoạt tài sản của người khác.
Hành vi chiếm đoạt tài sản được hiểu là người phạm tội cố ý chuyển
dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác
thành tài sản của mình. Hành vi chiếm đoạt được thực hiện bằng nhiều
phương pháp, thủ đoạn khác nhau nhưng tất cả mọi hành vi chiếm đoạt đều
thực hiện bằng phương pháp chủ động tích cực (phương pháp hành động),
biến tài sản của người khách thành của mình [11, tr.15] . Thủ đoạn mà người
phạm tội dùng để chiếm đoạt tài sản được thực hiện chủ yếu bằng hình thức:
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn
13


để chiếm đoạt tài sản đó; hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện,
khả năng nhưng cố tình khơng trả.
- Vay, mượn, th tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích
bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản.
Về hậu quả: Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây
ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự [22, tr. 110]. Đối
với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì hậu quả của tội phạm thể
hiện ở thiệt hại về giá trị tài sản bị chiếm đoạt bất hợp pháp. Căn cứ Điều 175
BLHS năm 2015 thì giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 4.000.000 đồng trở lên

mới cấu thành tội phạm.Nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 4.000.000 đồng, thì
người phạm tội bị truy cứu TNHS nếu thuộc một trong các trường hợp sau:Đã
bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm.
Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168,
169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của BLHS, chưa được xóa án tích mà cịn vi
phạm; Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Nếu người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có trị dưới 4.000.000
đồng, nhưng chưa chiếm đoạt được hoặc chiếm đoạt được nhưng không có
các tình tiết trên thì chưa cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: Dấu hiệu này thể hiện,
hành vi chiếm đoạt trong tội lạm dụng tín nhiệm chiệm đoạt tài sản phải xảy
ra trước hậu quả về mặt thời gian. Trong bản thân hành vi chiếm đoạt này
phải chứa đựng khả năng thực tế, nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả
(thiệt hại xảy ra có thể do một hoặc nhiều hành vi trực tiếp gây ra), và hậu quả
thiệt hại phải là sự hiện thực hóa khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của
hành vi chiếm đoạt bằng các thủ đoạn vay, mượn, thuê tài sản của người khác
hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng
thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp
pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản.
14


* Mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người
phạm tội [22, tr. 133].Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, động cơ, mục
đích của người phạm tội.Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức được rõ hành
vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn vay, mượn, thuê tài sản của người khác
hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng
thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp

pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản.của mình là trái pháp luật và
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả tài sản của người khác bị chiếm
đoạt trái phép và mong muốn chiếm đoạt được tài sản đó. Mục đích phạm tội
là kết quả trong ý thức chủ quan của người phạm tội đặt ra phải đạt được khi
thực hiện hành vi phạm tội [22, tr. 153]. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản thì mục đích của người phạm tội nhằm chiếm đoạt được tài sản.
Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi
thực hiện hành vi chiếm đoạt sản.
Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, ngồi mục đích chiếm đoạt,
người phạm tội cịn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm
đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì
người phạm tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản. [20, tr.128].
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực
hiện hành vi phạm tội cố ý [22, tr. 152]. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản thì khơng phải là dấu hiệu bắt buộc, nhưng có ý nghĩa khi xem xét
quyết định hình phạt đối với người lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
*Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định
và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể [23, tr. 122].Trong BLHS năm 2015,
15


nhà làm luật không quy định khái niệm, đặc điểm của năng lực TNHS, mà
quy định gián tiếp thông qua quy định về tình trạng khơng có năng lực TNHS
(Điều 21) và quy định về độ tuổi chịu TNHS (Điều 12).
Điều 21 BLHS năm 2015 quy định: “Người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì khơng

phải chịu trách nhiệm hình sự”. [17, Điều 21].
Qua đó, có thể hiểu người có năng lực TNHS là người về y học - người đó
khơng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần và về
tâm lý họ có năng lực nhận thức, hoặc năng lực điều khiển hành vi của mình.
Điều 12 BLHS năm 2015 quy định: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này
có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại
một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170,
171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299,
303 và 304 của Bộ luật này. [17 Điều 12].
Đối chiếu với quy định này thì người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa
đủ 16 tuổi không phải chịu TNHS về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản quy định tại Điều 175 BLHS năm 2015. Đồng thời, CTTP tội này khơng
địi hỏi người thực hiện hành vi phạm tội phải có những dấu hiệu đặc biệt,
nghĩa là bất kì ai cũng có thể là chủ thể của tội phạm này.
Từ những phân tích trên, có thể kết luận chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản là bất kì người nào từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực TNHS.
1.1.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số
tội phạm khác
Về mặt lý luận và thực tiễn định tội danh thì giữa tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản và một số tội phạm như lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
16


tham ơ tài sản có nhiều điểm giống nhau, khó phân biệt trên thực tế. Thực tiễn
cũng đã có một số trường hợp định tội danh nhầm lần giữa các loại tội này,
trong đó có tỉnh Bắc Ninh. Do vậy, việc phân biệt các tội này với nhau có ý
nghĩa lớn về mặt lý luận và thực tiễn.

1.1.2.1. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 BLHS năm
2015: “1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người
khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000
đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây…”. Giữa hai tội này có
điểm giống nhau là đều xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của nhà nước, cơ
quan, tổ chức và cá nhân; là tội phạm có cấu thành vật chất, được thực hiện với
lỗi cố ý trực tiếp. Tuy nhiên, giữa hai tội có những điểm khác nhau cơ bản sau:
- Chủ thể của tội phạm:
+ Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: Là người có năng lực
TNHS và đạt độ tuổi luật định, nhưng thông thường họ là một bên trong hợp
đồng hoặc giao dịch dân sự về tài sản, là người được giao tài sản để quản lý.
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Có thể là bất kỳ ai có năng lực TNHS
và đạt độ tuổi luật định.
- Đối tượng tác động của tội phạm:
+ Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: Là tài sản nhưng tài sản
này là đối tượng của hợp đồng hoặc giao dịch dân sự khác.
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Là tài sản nhưng không nhất thiết là
đối tượng của hợp đồng hoặc giao dịch dân sự.
- Về thủ đoạn chiếm đoạt tài sản:
+ Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: Có được tài sản của người
khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn
để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện,
17


khả năng nhưng cố tình khơng trả hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích
bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản.
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian

dối, nhằm đưa thông tin sai lệnh để chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản giao
tài sản cho người phạm tội.
Như vậy, ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ngồi việc dùng
thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản người phạm tội cịn có thủ đoạn: bỏ
trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều
kiện, khả năng nhưng cố tình khơng trả hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích
bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản.
- Thời điểm xuất hiện mục đích chiếm đoạt tài sản khi sử dụng thủ
đoạn gian dối để chiếm đoạt:
+ Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: Mục đích chiếm đoạt
nảy sinh sau khi có được tài sản được giao hợp pháp. Sau đó, người phạm tội
đã sử dụng thủ đoạn gian đối để chiếm đoạt tài sản đó.
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Mục đích chiếm đoạt tài sản nảy
sinh trước khi có được tài sản. Do vậy, người phạm tội mới dùng thủ đoạn
gian dối để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
Nói cách khác: Nếu người phạm tội có hành vi gian dối ngay từ đầu
nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì đó là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Nếu tại thời điểm giao nhận tài sản người phạm tội chưa có hành vi gian dối,
mà việc giao nhận được thực hiện một cách ngay thẳng nhưng sau khi có
được tài sản thì người phạm tội mới có hành vi gian dối nhằm che dấu việc
chiếm đoạt tài sản thì đó là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Giá trị tài sản bị chiếm đoạt:
+ Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: Trên 04 triệu đồng hoặc
dưới 04 triệu đồng thì phải thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
175 BLHS.
18


+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Trên 02 triệu đồng hoặc dưới 02 triệu
đồng thì phải thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 174 BLHS.

- Tính nguy hiểm cho xã hội và hình phạt:
+ Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: Có tính nguy hiểm cho
xã hội thấp hơn. Hình phạt nhẹ hơn: Khung 1: phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; Khung 2: phạt tù từ 02 đến
07 năm; Khung 3: phạt tù từ 05 năm đến 12 năm; Khung cao nhất: phạt tù từ
12 năm đến 20 năm.
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội cao
hơn. Hình phạt nặng hơn: Khung 1: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; Khung 2: phạt tù từ 02 đến 07 năm;
Khung 3: phạt tù từ 07 đến 15 năm; Khung cao nhất: phạt tù từ 12 năm đến 20
năm hoặc tù chung thân.
1.1.2.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội
tham ơ tài sản
Tội tham ô tài sản được quy định tại Điều 353 BLHS năm 2015: “1.
Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách
nhiệm quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc
dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi
phạm; b) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này,
chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm…”.
Giữa hai tội có điểm giống nhau là đều xâm phạm đến quyền sở hữu tài
sản của nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân; là tội phạm có cấu thành vật
chất, được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
Tuy nhiên, giữa hai tội có những điểm khác nhau cơ bản sau:
– Chủ thể của tội phạm:
+ Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: Là người có năng lực
TNHS và đạt độ tuổi luật định.
19



×