Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Luận văn thạc sĩ điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN ĐẶNG ĐĂNG CƠ

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ VẬN TẢI ĐA
PHƯƠNG THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
NAY

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2020


Trang bìa 2

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN ĐẶNG ĐĂNG CƠ

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ VẬN TẢI ĐA
PHƯƠNG THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
NAY

Ngành: Luật kinh tế


Mã số: 8 38 01 07

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. Nguyễn Đức Minh

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2020


Lời cam đoan
Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Đức Minh. Những kết luận nghiên cứu
được trình bày trong luận văn này hồn tồn trung thực.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên

Trần Đặng Đăng Cơ


Mục lục
Mở đầu .....................................................................................................................................................1
Chương 1 ..................................................................................................................................................6
Những vấn đề lý luận về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức ..............................6
1.1. Khái quát về kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức .......................................................6
1.2. Khái niệm điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức ..........................................9
1.2.1. Định nghĩa điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức .........................................9
1.2.2. Đặc điểm điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức ..........................................11
1.3. Mục đích, ý nghĩa của việc quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức
.............................................................................................................................................................13

1.4. Mối quan hệ và nguyên tắc áp dụng luật chung và luật chuyên ngành trong quy định điều
kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức...........................................................................17
1.5. Nội dung pháp lý của điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức ......................19
TIỂU KẾT CHƯƠNG ..........................................................................................................................26
Chương 2 ................................................................................................................................................28
Thực trạng quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa
phương thức ở Việt Nam hiện nay.......................................................................................................28
2.1.

Thực trạng quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức
28

2.1.1.
Các quy định chung về ngành nghề kinh doanh có điều kiện, trong đó có dịch vụ kinh
doanh vận tải đa phương thức ........................................................................................................28
2.1.2.
Các quy định về cơng bố và kiểm sốt điều kiện kinh doanh, trong đó có điều kiện kinh
doanh dịch vụ vận tải đa phương thức. ...........................................................................................31
2.1.3.
Các quy định về thẩm quyền của cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
dịch vụ vận tải đa phương thức; Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa
phương thức và các loại giấy xác nhận khác ..................................................................................31
2.1.5.
Các quy định về loại hình doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức đòi
hỏi tuân thủ điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức ................................................34
2.1.6.
Các quy định về điều kiện để được kinh doanh ngành nghề kinh doanh dịch vụ vận tải
đa phương thức như: .......................................................................................................................43
2.1.7.


Các quy định về thủ tục hành chính để được cấp giấy phép ...........................................51

2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa
phương thức ở Việt Nam hiện nay...................................................................................................53
TIỂU KẾT CHƯƠNG ..........................................................................................................................59


Chương 3 ................................................................................................................................................61
Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật và giải pháp thực hiện pháp luật về điều kiện kinh
doanh dịch vụ vận tải đa phương thức ở Việt Nam hiện nay ............................................................61
3.1. Quan điểm, yêu cầu hoàn thiện quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải
đa phương thức .................................................................................................................................61
3.1.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh vận tải đa phương thức ..............61
3.1.2. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh vận tải đa phương thức ...................62
3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa
phương thức.......................................................................................................................................63
3.3. Giải pháp thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức ..69
3.3.1. Đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh. ...................69
3.3.2. Nâng cao nhận thức của người thực thi pháp luật kết hợp với việc giáo dục pháp luật về
vận tải đa phương cho doanh nghiệp ..............................................................................................71
KẾT LUẬN ............................................................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................77


Danh mục các chữ viết tắt
ASEAN:

Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á


Hiệp định khung ASEAN:

ASEAN

Framework

Agreement

on

Multimodal Transport 2005
Hiệp định khung ASEAN về vận tải đa
phương thức 2004 ký tại Lào
Luật Vận tải đa phương thức The Multimodal Transportation Of Goods
1993 của Ấn Độ:

Act 1993, India
Luật Vận tải đa phương thức 1993 của Ấn
Độ

Luật Vận tải đa phương thức The Multimodal Transport Act 2005
2005 của Thái Lan:

Luật Vận tải đa phương thức 2005 của Thái
Lan

Luật Dân sự và Thương mại Thailand Civil and Commercial Code 1925
Thái Lan 1925:

Luật Dân sự và Thương mại Thái Lan 1925


Nghị quyết 48-NQ/TW:

Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm
2010, định hướng đến năm 2020

Nghị định 87/2009/NĐ-CP:

Nghị

định

87/2009/NĐ-CP

ngày

19/10/2009 của Chính phủ về vận tải đa
phương thức
Nghị định 78/2015/NĐ-CP:

Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015
của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp

Nghị định 118/2015/NĐ-CP:

Nghị

định


118/2015/NĐ-CP

ngày


12/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Đầu tư
Nghị định 144/2018/NĐ-CP:

Nghị

định

144/2018/NĐ-CP

ngày

16/10/2018 của Chính phủ sửa đổi nghị
định về vận tải đa phương thức


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tài liệu pháp luật của Hoa Kỳ, vận tải đa phương thức được biết đến với
tên gọi vận tải kết hợp. Đó là hình thức vận tải hàng hóa được thực hiện bằng ít nhất
hai phương thức vận chuyển khác nhau trở lên. Lựa chọn vận tải đa phương thức, thay
vì vận tải đơn phương thức có nhiều lợi ích thực tế [48, tr.3]. Vận tải đơn phương thức
không chỉ tiết kiệm thời gian, trong một số trường hợp, chẳng hạn khi vận chuyển hàng

hóa từ Viễn Đơng đến New York bằng nhiều loại tàu thuyền và đường sắt liên lục địa
có thể tiết kiệm đến 10 ngày so với vận chuyển hồn tồn bằng đường thủy. Bên cạnh
đó, vận tải đa phương thức làm giảm chi phí logistics, từ đó giảm chi phí sản xuất hàng
hóa cho doanh nghiệp. Ngồi ra, vận tải đa phương thức góp phần gia tăng năng suất
và năng lực cạnh tranh của cả ngành vận chuyển hàng hóa, nhưng vẫn duy trì sự cân
bằng của mơi trường. Vận tải đa phương thức sử dụng phương tiện vận chuyển sao cho
hiệu quả nhất ở mỗi giai đoạn, do đó giảm thiểu sự tắc nghẽn, quá tải ở một số phương
thức vận chuyển, giảm tiêu hao năng lượng và ô nhiễm môi trường.
Mặc dù sử dụng nhiều phương thức vận chuyển nhưng dịch vụ vận tải đa
phương thức chỉ do một công ty chịu trách nhiệm trên cơ sở hợp đồng và một chứng từ
vận tải trên toàn bộ chặng vận chuyển. Đặc điểm pháp lý này góp phần lý giải tại sao
vận tải đa phương thức ngày càng được ưu tiên sử dụng thay vì giao kết nhiều hợp
đồng với các bên khác nhau cho mỗi giai đoạn vận chuyển trong phương thức vận tải
kết hợp (intermodal transport). Đầu tiên, nhiều hợp đồng đồng nghĩa với việc các công
ty trung gian vận chuyển (“forwarder”) phải giao kết với các nhà vận chuyển
(“carrier”) khác nhau. Thứ hai, người vận chuyển trong mỗi hợp đồng vận chuyển
phải tự mình chuẩn bị hàng hóa đúng thời điểm và địa điểm ở mỗi giai đoạn vận
chuyển. Đồng thời, người vận chuyển phải sắp xếp, lưu kho hàng hóa giữa các giai
đoạn vận chuyển nếu các giai đoạn vận chuyển không liên tục. Trong khi đó, trong hợp
đồng vận tải đa phương thức, công ty trung gian vận chuyển sẽ cung cấp địa điểm lưu

1


kho hàng hóa giữa các giai đoạn với chi phí rẻ hơn. Thứ ba mỗi người vận chuyển ban
hành một loại chứng từ vận chuyển riêng, ví dụ, vận đơn của nhà vận chuyển đường
thủy thơng thường có thể thỏa thuận, nhưng hợp đồng ký gửi của nhà vận chuyển
đường bộ thì khơng. Những sự khác biệt như thế tạo ra nhiều khó khăn cho người mua
hàng khi cố gắng lấy được tài liệu giải ngân từ ngân hàng. Lý do cuối cùng đó là, số
đối tác mà người vận chuyển phải thỏa thuận trong vận tải kết hợp có thể gây ra nhiều

khó khăn trong trường hợp hàng hóa bị hư hỏng trong quá trình vận chuyển. Đặc biệt
khi khơng thể chứng minh hàng hóa hư hỏng ở giai đoạn vận chuyển nào. Trong
trường hợp này, mỗi người vận chuyển đều cố gắng từ chối trách nhiệm, nguyên đơn
hay bên bảo hiểm sẽ là bên phải chịu thiệt hại. Do đó, sẽ thuận lợi hơn nếu chỉ có một
hợp đồng chung cho các nhà vận chuyển khác nhau. Theo cách đó, trong trường hợp
khơng xác định được giai đoạn xảy ra thiệt hại, thỏa thuận trong hợp đồng vẫn chỉ ra rõ
ràng bên nào phải chịu trách nhiệm.
Từ những lợi ích nói trên, vận tải đa phương thức ngày càng phát triển mạnh, từ
đó, ngày càng xuất hiện nhiều cơng ty kinh doanh loại hình dịch vụ này. Theo quy định
tại khoản 2 Điều 7 và Phụ lục 4 Luật Đầu tư năm 2014 của Quốc hội nước ta, kinh
doanh vận tải đa phương thức là một trong những ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
Hiện nay, vận tải đa phương thức được hướng dẫn cụ thể trong Nghị định 87/2009/NĐCP và Nghị định 144/2018/NĐ-CP. Mặc dù các quy định về điều kiện kinh doanh được
quy định trong hai Nghị định này thể hiện việc Việt Nam nội luật hóa nhanh chóng
Hiệp định khung ASEAN về vận tải đa phương thức, nhưng việc nội luật hóa về căn
bản chỉ là ghi nhận lại các điều kiện trong Hiệp định khung ASEAN vào pháp luật Việt
Nam, ngồi ra, chưa có những hướng dẫn cụ thể, chi tiết để áp dụng có hiệu quả các
quy định này vào thực tế. Điều này có thể dẫn đến việc doanh nghiệp thành lập và đăng
ký kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức ngày càng nhiều nhưng Nhà nước lại
không thể kiểm tra, đánh giá một cách chính xác việc tuân thủ, duy trì các điều kiện
này của doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các quy định về điều kiện kinh

2


doanh dịch vụ vận tải đa phương thức góp phần giải thích pháp luật, thấy được những
vấn đề khi áp dụng các quy định này vào thực tế cuộc sống, qua đó, kiến nghị giải pháp
hồn thiện pháp luật và giải pháp áp dụng pháp luật trên thực tế.
Do đó, tác giả chọn đề tài “Điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức
theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu

Hiện nay, các nghiên cứu đã công bố về vận tải đa phương thức chủ yếu tiếp cận
từ phương diện kinh tế. Các đề tài tập trung khai thác thế nào là vận tải đa phương thức,
các đặc điểm, hình thức vận tải đa phương thức. Mặc dù các nghiên cứu này có nói đến
quy định của pháp luật quốc tế và Việt Nam về vận tải đa phương thức, nhưng chỉ
dừng lại ở mức độ khái quát chung các quy định đối với người kinh doanh vận tải đa
phương thức.
Ở góc độ luật học, về vấn đề điều kiện kinh doanh cũng như quyền tự do kinh
doanh đã được nghiên cứu nhiều trong các bài viết và sách như “Tự do lựa chọn ngành,
nghề kinh doanh theo pháp luật Việt Nam hiện nay” và “Nhận diện điều kiện kinh
doanh ở Việt Nam hiện nay và một số khuyến nghị” của Nguyễn Thu Dung, “Tự do
kinh doanh: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Bùi Xuân Hải và “Quyền
tự do kinh doanh theo pháp luật liên minh châu Âu và Việt Nam” của Phan Huy
Hồng… Những tác phẩm này đã đề cập đến quy định về điều kiện kinh doanh nói
chung và mối quan hệ giữa điều kiện kinh doanh với quyền tự do kinh doanh. Về lý
thuyết, có thể áp dụng những định nghĩa, giải thích này đối với vận tải đa phương thức,
vì đây vẫn là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Tuy nhiên, mỗi ngành nghề vẫn
có những điểm đặc thù riêng, do đó, cần có những quy định riêng được ưu tiên áp dụng.
Đối với những ngành nghề khác, trước đây, đã có các bài viết cụ thể như “Điều kiện
kinh doanh và lai dắt tàu biển” của tác giả Lan Trường, “Điều kiện kinh doanh của
doanh nghiệp hoạt động dịch vụ xuất khẩu lao động” của tác giả Lâm Thắng... Riêng

3


đối với vận tải đa phương thức, cho đến nay, chưa có bài viết về Điều kiện kinh doanh
dịch vụ này.
Trong phạm vi của một khóa luận tốt nghiệp, tác giả Lương Thị Thu Hương
từng nghiên cứu về “Thực trạng vận tải đa phương thức tại Việt Nam”. Tuy nhiên,
trong phạm vi một khóa luận cử nhân, phạm vi nghiên cứu chỉ dừng lại ở cơ sở pháp lý
của hoạt động vận tải đa phương thức, người kinh doanh dịch vụ này ở Việt Nam và

chứng từ vận tải đa phương thức, không tập trung nghiên cứu các điều kiện kinh doanh
loại hình này trên thực tế. Đồng thời, khóa luận này được viết vào năm 2005, đến nay
không tránh khỏi phát sinh những sự thay đổi mới trong nhận thức cũng như quy định
của pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn này nhằm làm rõ những quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đa
phương thức theo pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua đó
thấy được pháp luật Việt Nam còn những mặt hạn chế nào và kiến nghị hoàn chỉnh quy
định này.
Để làm được điều này, tác giả phân tích, làm rõ cơ sở lý luận của điều kiện kinh
doanh dịch vụ vận tải đa phương thức, phân tích quy định và phản ánh thực trạng pháp
luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ này theo pháp luật Việt Nam, việc áp dụng các
quy định này trên thực tế và kiến nghị phương hướng, giải pháp hoàn thiện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định về điều kiện kinh
doanh dịch vụ vận tải đa phương thức quốc tế.
Việc nghiên cứu dựa trên các quy định trong pháp luật hiện hành của Việt Nam,
gồm có Luật Đầu tư 2014, Luật Doanh nghiệp 2014, Nghị định 87/2009/NĐ-CP và
Nghị định 144/2018/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Nghị định 87/2009/NĐ-CP về điều kiện
kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức nội địa và quốc tế ở Việt Nam. Bên cạnh đó,
trên cơ sở so sánh với quy định của Hiệp định khung ASEAN và pháp luật Ấn Độ,

4


Thái Lan, Trung Quốc về vận tải đa phương thức để kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
nghiên cứu các khái niệm, vấn đề trong mối liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau. Từ

phương pháp luận đó trong nghiên cứu và trình bày luận văn, học viên sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
-Phương pháp phân tích và tổng hợp thơng tin được sử dụng để làm rõ khái
niệm về điều kiện kinh doanh vận tải đa phương thức và phân tích các điều kiện kinh
doanh dịch vụ này theo quy định pháp luật Việt Nam.
-Phương pháp thu thập thông tin được sử dụng để tìm hiểu về thực tiễn áp dụng
quy định pháp luật trên thực tế.
- Phương pháp so sánh được sử dụng khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài về
điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức và so sánh với quy định trong
pháp luật Việt Nam hiện hành.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những vấn đề được nghiên cứu trong luận văn này giúp phân tích và làm rõ các
quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh vận tải đa phương thức, định hướng cho
việc áp dụng pháp luật một cách chính xác trên thực tế. Bên cạnh đó, cho thấy được
những mặt còn hạn chế của pháp luật Việt Nam khi áp dụng trên thực tế, từ đó đề ra
những kiến nghị, có giá trị tham khảo, giúp hồn thiện pháp luật trong tương lai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của Luận văn được trình bày thành 03
chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa
phương thức

5


- Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về
điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức ở Việt Nam hiện nay
- Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật và giải pháp thực hiện
pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức ở Việt Nam hiện nay
Chương 1

Những vấn đề lý luận về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương
thức
1.1. Khái quát về kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức
Theo nghĩa rộng, vận tải được hiểu là sự vận chuyển hay di chuyển vị trí của
người hoặc động vật, hàng hóa từ nơi này đến nơi khác. Phương thức vận chuyển bao
gồm

hàng không, đường sắt, đường bộ, đường thủy, bằng cáp, đường ống và

trong không gian. Như vậy, theo nghĩa rộng thì bất kỳ sự di chuyển vị trí nào của con
người và vật phẩm trong khơng gian đều được coi là vận tải.
Theo nghĩa hẹp và dưới góc độ kinh tế, vận tải là sự thay đổi vị trí của hành
khách và hàng hóa nhằm đạt được những mục đích nhất định, đồng thời thỏa mãn hai
tính chất:
- Là hoạt động sản xuất vật chất của xã hội, nghĩa là tạo ra sản phẩm xã hội và
có thu nhập quốc dân. Q trình sản xuất của ngành vận tải là sự kết hợp giữa ba yếu tố
con người, công cụ lao động và đối tượng lao động (hay đối tượng vận chuyển). Trong
đó, con người thơng qua công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra
sản phẩm của ngành vận tải – chính là sự di chuyển vị trí của hành khách, hàng hóa
trong khơng gian nhằm thỏa mãn mục đích nào đó của con người trong xã hội.
- Là hoạt động kinh tế riêng biệt, nghĩa là một bộ phận kinh tế cấu thành nên
nền kinh tế quốc dân.

6


Tóm lại, vận tải là hoạt động có mục đích của con người, sự di chuyển về không
gian và thời gian của công cụ lao động, sản phẩm lao động và ngay chính con người là
một nhu cầu tất yếu của xã hội.
Lịch sử phát triển của vận tải gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người.

Trong xã hội nguyên thủy, vận tải thường gắn với các hoạt động khuân, vác, gánh,
nâng… của con người. Sau này, khi hình thái kinh tế xã hội của con người ngày càng
trở nên phức tạp thì các hình thức vận tải ngày càng được cải tiến và đa dạng hóa. Việc
vận tải ban đầu chỉ được tiến hành trong quy mơ gia đình và phục vụ cho bản thân. Khi
lực lượng sản xuất phát triển, hoạt động thương mại ra đời và nhu cầu đi lại tăng nhanh,
khi đó hình thành nên dịch vụ vận tải. Dịch vụ vận tải là hoạt động kinh tế diễn ra giữa
chủ thể (người vận tải) và khách thể (người sử dụng và trả tiền).
Khi công nghiệp ngày càng phát triển, năng suất lao động tăng cao làm xuất
hiện nhu cầu cải tiến, hoàn thiện hệ thống cung ứng, phân phối vật chất (logistics)
nhằm giảm thiệt hại do tồn kho, ứ đọng nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành
phẩm, từ đó giảm giá thành, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường.
Để hoàn thiện hệ thống logistics, cần phải chú ý đến yếu tố vận tải, là khâu quan trọng
nhất, chiếm 1/3 tổng chi phí của logistics. Muốn giảm chi phí logistics, cần phải giảm
chi phí vận tải, bao gồm nhiều chặng khác nhau từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ ở các
nước khác nhau. Việc vận tải phải đảm bảo thời hạn giao hàng, đảm bảo cung cấp
nguyên vật liệu cho sản xuất đúng lúc, hàng hóa kịp thời đến tay người tiêu dùng, từ đó
giảm đến mức thấp nhất chi phí, thiệt hại do lưu kho, tồn đọng sản phẩm để làm giảm
tồn bộ chi phí logistics nói chung. Và một phương pháp vận tải có thể đáp ứng được
yêu cầu trên chính là vận tải đa phương thức (“multimodal transport”). Vận tải đa
phương thức có thể hiểu là một phương pháp vận tải trong đó hàng hóa được vận
chuyển bằng hai hay nhiều phương thức vận tải khác nhau, trên cơ sở một chứng từ vận
tải, một chế độ trách nhiệm và chỉ một người chịu trách nhiệm về hàng hóa trong suốt
hành trình chun chở từ một điểm nhận hàng đến một địa điểm giao hàng khác.

7


Cần phân biệt khái niệm vận tải đa phương thức với các khái niệm khác, cùng
chỉ việc chuyên chở hàng hóa bằng ít nhất hai phương thức vận tải trở lên từ nơi gửi
hàng đến nơi giao hàng là vận tải liên hợp (“intermodal transport”) và vận tải kết hợp

(“combined transport”). Theo đó, thuật ngữ “Intermodal transport” thường được sử
dụng trong văn hóa lập pháp Mỹ, nhưng tiền tố “Multi-” được xem là phù hợp hơn, vì
có nghĩa là “nhiều”, trong khi “Inter-” mang ý nghĩa “ở giữa”. Vận tải liên hợp
(“Intermodal transport”) cũng là phương pháp vận chuyển có sự tham gia của hai
phương thức vận tải trở lên, nhưng ở mỗi chặng vận chuyển sẽ có các hợp đồng khác
nhau. Riêng đối với vận tải quốc tế, các nhà vận chuyển ở mỗi chặng sẽ phát hành một
loại vận đơn riêng.
Trong khi đó, vận tải kết hợp (“combined transport”) xuất hiện nhiều trong các
tài liệu pháp luật ở châu Âu, ví dụ The Combined Transport Directive (92/106/EEC) –
một văn kiện của Liên minh Châu Âu về giảm thiểu tác động tiêu cực của việc vận
chuyển hàng hóa đối với môi trường và xã hội bằng cách hỗ trợ vận chuyển đường dài
bằng đường sắt thay vì đường bộ. Vận tải kết hợp cũng tương tự như vận tải đa phương
thức, chỉ khác nhau ở kỹ thuật chuyên chở, do đó, một số tài liệu sử dụng chung thuật
ngữ để tránh gây nhầm lẫn.
Từ khái niệm vận tải đa phương thức, ta có thể suy ra định nghĩa về dịch vụ vận
tải đa phương thức, cụ thể, đó là hoạt động kinh tế diễn ra giữa người cung ứng dịch vụ
vận tải đa phương thức và người sử dụng dịch vụ, thanh tốn phí cho người cung ứng.
Vậy, kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức có nghĩa là gì?
Stephenson – kỹ sư người Anh, chế tạo ra đầu máy xe lửa, cho rằng kinh doanh
là việc sản xuất hoặc mua bán hàng hóa thường xuyên được thực hiện với mục tiêu
kiếm lợi nhuận và có được sự giàu có thơng qua sự thỏa mãn mong muốn của con
người. Nhà lý luận xã hội học Lewis Henry Morgan định nghĩa kinh doanh là hoạt
động của con người hướng tới sản xuất hoặc có được sự giàu có thơng qua việc mua và
bán hàng hóa [28, tr.1]. Nhìn chung, kinh doanh có nghĩa là một hoạt động kinh tế, liên

8


quan đến sản xuất và phân phối hàng hóa hoặc dịch vụ liên tục và thường xuyên để đáp
ứng nhu cầu và mong muốn của con người.

Dưới góc độ kinh tế, một trong những đặc điểm của hoạt động kinh doanh là
“giao dịch trong nhiều giao dịch”, có nghĩa là, một hàng hóa hay dịch vụ trước khi đến
tay người tiêu dùng có thể trả qua nhiều giao dịch khác nhau. Như vậy, hoạt động kinh
doanh tự nó đã bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau.
Dưới góc độ luật học, “kinh doanh” được hiểu là việc thực hiện liên tục một,
một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi1.
Xuất phát từ các định nghĩa trên, ta có thể hiểu “kinh doanh dịch vụ vận tải đa
phương thức” là việc người cung ứng dịch vụ vận tải đa phương thức thực hiện một,
một số hoặc tổng thể các phương pháp, hình thức và phương tiện cung ứng dịch vụ vận
tải đa phương thức một cách thường xuyên, liên tục nhằm mục đích lợi nhuận. Tuy
nhiên, khi kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức, chủ thể cần thực hiện những
hoạt động nào? Hay nói cách khác, hoạt động kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương
thức bao gồm những nội dung gì?
1.2. Khái niệm điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức
1.2.1. Định nghĩa điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức
Trước khi tìm hiểu định nghĩa điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương
thức, cần hiểu được thế nào là điều kiện kinh doanh.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “điều kiện” là cái cần phải có để cho một cái khác có
thể xảy ra [33, tr.383]. Nói cách khác, “điều kiện” còn là điều được nêu ra như một đòi
hỏi trước khi tiến hành thực hiện một hoạt động nào đó.
Như vậy, có thể rút ra định nghĩa về “điều kiện kinh doanh” là những đòi hỏi
cần phải được đáp ứng trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh với nghĩa ở trên.

1

Khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014

9



Điều kiện kinh doanh ít nhiều ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh và hoạt
động kinh doanh của chủ thể kinh doanh. Vì vậy, điều kiện kinh doanh cần được quy
định bởi pháp luật.
Từ định nghĩa về điều kiện kinh doanh và kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương
thức có thể hiểu “điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức” là những yêu
cầu, đòi hỏi được pháp luật đặt ra, mà các chủ thể kinh doanh dịch vụ vận tải đa
phương thức cần đáp ứng hoặc phải thực hiện khi tiến hành hoạt động kinh doanh dịch
vụ vận tải đa phương thức trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Dưới góc độ luật học, phải đến Luật Doanh nghiệp 2005, khái niệm điều kiện
kinh doanh mới được quy định chính thức: điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh
nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành nghề cụ thể2. Nghị định
87/2009/NĐ-CP về vận tải đa phương thức không định nghĩa thế nào là điều kiện kinh
doanh vận tải đa phương thức, mà thay vào đó là liệt kê các điều kiện mà doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ này cần phải đáp ứng.
Khi Luật Đầu tư 2014 ra đời, thuật ngữ “điều kiện kinh doanh” được thay thế
bằng “điều kiện đầu tư kinh doanh”. Luật Đầu tư 2014 không định nghĩa thế nào là
“điều kiện đầu tư kinh doanh”, mà thuật ngữ này chỉ được giải thích mang tính viện
dẫn trong Nghị định 118/2015/NĐ-CP: “điều kiện đầu tư kinh doanh” là điều kiện mà
cá nhân, tổ chức phải đáp ứng theo quy định của luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước
quốc tế về đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh trong các ngành nghề quy
định tại phụ lục 4 Luật Đầu tư”. Mặc dù không trực tiếp đưa ra cách giải thích, nhưng
các quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và cách thức xây dựng,
ban hành một điều kiện đầu tư kinh doanh đã cho thấy khái niệm chung nhất về “điều
kiện đầu tư kinh doanh”. Theo đó, có thể hiểu là các yêu cầu mà Nhà nước đặt ra vì lý
do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng

2

Khoản 2 Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2005


10


đồng mà doanh nghiệp buộc phải tuân thủ trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư
kinh doanh của mình.
Luật Đầu tư 2014 đã kế thừa Luật Doanh nghiệp 1999 khi quy định hai hình
thức điều kiện đầu tư kinh doanh gồm:
- Điều kiện đầu tư kinh doanh phải có văn bản chấp thuận nào đó của cơ quan
nhà nước.
- Điều kiện đầu tư kinh doanh khơng cần phải có văn bản chấp thuận mà chỉ cần
tuân thủ các quy định hiện hành.
Đến khi Luật Đầu tư 2020 được ban hành, xuất hiện khái niệm mới về “Điều
kiện tiếp cận thị trường” áp dụng đối với Nhà đầu tư nước ngoài. Theo khoản 10 Điều
3 Luật Đầu tư 2020, điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài là điều
kiện nhà đầu tư nước ngoài phải đáp ứng để đầu tư trong các ngành, nghề thuộc Danh
mục ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài quy định
tại khoản 2 Điều 9 của Luật này.
Ngoài ra, điều kiện kinh doanh cịn được hiểu là tập hợp các cơng cụ mà Chính
phủ sử dụng để đặt ra các yêu cầu đối với công dân và doanh nghiệp. Theo PGS.TS
Phạm Duy Nghĩa, điều kiện kinh doanh là mọi sự can thiệp của cơ quan hành chính
vào quyền tự do kinh doanh của người dân, thường được cụ thể hóa bằng hành vi chấp
thuận, hạn chế hoặc khước từ việc đăng ký hoặc tổ chức những hoạt động kinh doanh
cụ thể.
1.2.2. Đặc điểm điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức
Qua nghiên cứu pháp luật Việt Nam có thể thấy các đặc điểm sau đây của điều
kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức:


Thứ nhất, điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức chỉ được


áp dụng đối với vận tải đa phương thức quốc tế.
Dịch vụ vận tải đa phương thức ở Việt Nam được chia thành vận tải đa phương
thức quốc tế và vận tải đa phương thức nội địa. Tuy nhiên, Nghị định 144/2018/NĐ-CP

11


đã bãi bỏ Chương III Nghị định 87/2009/NĐ-CP về kinh doanh vận tải đa phương thức
nội địa. Điều này đồng nghĩa với việc vận tải đa phương thức nội địa khơng cịn là
ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Do đó, điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa
phương thức chỉ được áp dụng đối với vận tải đa phương thức quốc tế.


Thứ hai, chủ thể thực hiện điều kiện kinh doanh là các doanh nghiệp

trong nước và các doanh nghiệp của các quốc gia có thoả thuận với Việt Nam về vận
tải đa phương thức.
Theo Nghị định 144/2018/NĐ-CP, chủ thể được tiến hành kinh doanh bao gồm:
Doanh nghiệp, hợp tác xã Việt Nam; doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, Nghị định cũng tạo điều kiện ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp của các
quốc gia là thành viên Hiệp định khung ASEAN về vận tải đa phương thức hoặc doanh
nghiệp của các quốc gia đã ký điều ước quốc tế với Việt Nam về vận tải đa phương
thức.


Thứ ba, có sự kết hợp giữa tiền kiểm và hậu kiểm trong quản lý nhà nước

đối với điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức quốc tế.
Hình thức pháp lý của điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức

quốc tế có sự khác biệt giữa hai nhóm chủ thể:
- Doanh nghiệp, hợp tác xã Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại
Việt Nam: các điều kiện kinh doanh được quy định đối với nhóm chủ thể này bao gồm
nghĩa vụ duy trì tài sản tối thiểu và bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Như vậy có thể
thấy, hình thức pháp lý của điều kiện kinh doanh áp dụng cho nhóm chủ thể này ở giai
đoạn “hậu kiểm”, có nghĩa là Nhà nước kiểm tra, giám sát khi doanh nghiệp đã đi vào
hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp phải duy trì điều kiện kinh doanh này trong suốt
quá trình hoạt động.
- Doanh nghiệp của các quốc gia là thành viên Hiệp định khung ASEAN về vận
tải đa phương thức hoặc là doanh nghiệp của quốc gia đã ký điều ước quốc tế với Việt
Nam về vận tải đa phương thức: các điều kiện kinh doanh được quy định đối với nhóm

12


chủ thể này bao gồm Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp. Trong khi điều kiện về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp ở giai đoạn
“hậu kiểm” thì điều kiện “Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp” thể hiện phương
thức quản lý Nhà nước ở giai đoạn “tiền kiểm” – kiểm tra trước khi cho doanh nghiệp
tiến hành kinh doanh.


Thứ tư, điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức ở Việt Nam

bao gồm quy định về điều kiện gia nhập thị trường và điều kiện phải tuân thủ khi kinh
doanh dịch vụ vận tải đa phương thức.
Điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức đối với doanh nghiệp của
quốc gia là thành viên hiệp định khung ASEAN về vận tải đa phương thức bao gồm:
- Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh vận tải đa phương thức quốc tế hoặc
giấy tờ tương đương do cơ quan có thẩm quyền nước đó cấp;

- Có bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp vận tải đa phương thức hoặc có bảo
lãnh tương đương.
Điều kiện về Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh được xem là điều kiện tiếp
cận thị trường. Doanh nghiệp của quốc gia là thành viên Hiệp định khung ASEAN về
vận tải đa phương thức cần phải đáp ứng điều kiện này để gia nhập thị trường. Bên
cạnh đó, doanh nghiệp cần phải đáp ứng điều kiện về bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp hoặc bảo lãnh tương đương trong quá trình kinh doanh dịch vụ vận tải đa
phương thức.
1.3. Mục đích, ý nghĩa của việc quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ vận
tải đa phương thức
Mặc dù quyền tự do kinh doanh đã được pháp luật các nước thừa nhận, nhưng
tự do kinh doanh khơng có nghĩa là được thực hiện mọi hành vi nhằm mục đích sinh
lợi. Con người không thể được làm tất cả, được tự quyết định tất cả những gì mà họ
muốn, trong xã hội tồn tại những lợi ích khác nhau hoặc đan xen với nhau giữa các chủ
thể. Quyền tự do kinh doanh của một cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp phải bị giới hạn

13


bởi quyền tự do kinh doanh và lợi ích chính đáng của những chủ thể khác trong xã hội
và lợi ích công cộng [19, tr.70]. Một trong những biện pháp can thiệp quyền tự do kinh
doanh chính là quy định ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh.
Mục đích chính của việc quy định điều kiện kinh doanh là để đảm bảo rằng, chủ thể
kinh doanh ngành nghề đó sẽ khơng gây thiệt hại hay đe dọa gây thiệt hại đến những
lợi ích mà Nhà nước cần bảo vệ, đó có thể là lợi ích quốc gia, lợi ích xã hội, là đạo đức,
tập quán tốt đẹp của dân tộc hay lợi ích của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Mỗi
quốc gia sẽ có những quy định cụ thể về điều kiện kinh doanh phù hợp với yêu cầu
quản lý kinh tế và môi trường pháp lý riêng của quốc gia mình.
Ở các nước phát triển và có nền pháp luật tiên tiến như Mỹ, Singapore, Trung
Quốc, pháp luật đều có quy định về điều kiện kinh doanh.

Pháp luật doanh nghiệp Mỹ có những quy định về điều kiện kinh doanh gắn liền
với loại hình doanh nghiệp hoặc một số loại ngành nghề nhất định. Với đặc điểm là
một quốc gia liên bang, hệ thống pháp luật Mỹ bao gồm hệ thống pháp luật liên bang,
hệ thống pháp luật bang. Do đó, có hai hệ thống cấp phép: Giấy phép và sự chấp thuận
của liên bang; Giấy phép và sự chấp thuận của tiểu bang cùng song song tồn tại và chi
phối đến hoạt động của doanh nghiệp. Ở phạm vi liên bang, có thể kể đến một số
ngành nghề cần có giấy phép hoặc sự chấp thuận của liên bang như: nông nghiệp, nước
giải khát và nước có cồn, hàng khơng, đánh bắt cá thương mại, vận chuyển bằng đường
hàng hải, năng lượng hạt nhân, vận tải và logistics…
Bên cạnh hệ thống pháp luật liên bang, mỗi một địa phương, tiểu bang có quy
định riêng về việc cấp giấy phép và cho phép kinh doanh đối với doanh nghiệp, tùy
thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và chính sách của nhà cầm quyền. Một số bang ở
Mỹ (Nevada, Montana…) yêu cầu chủ thể kinh doanh phải có Giấy phép kinh doanh
bang (“General Business License”) trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh. Ngồi
Giấy phép này, các chủ thể cần phải có Giấy phép kinh doanh hoặc Sự chấp thuận của
thành phố, hạt thuộc bang nơi đặt trụ sở kinh doanh. Hình thức khác, phổ biến hơn, là

14


việc chính quyền bang chỉ yêu cầu chủ thể xin giấy phép kinh doanh ở thành phố, hạt
thuộc bang. Tuy nhiên, việc xin giấy phép kinh doanh ở địa phương tùy thuộc vào loại
hình kinh doanh hoặc chỉ phát sinh đối với một số loại hình doanh nghiệp nhất định (là
doanh nghiệp tư nhân, hợp danh, trách nhiệm hữu hạn hay tập đoàn3.
Pháp luật Mỹ khi quy định về điều kiện kinh doanh chủ yếu dựa trên loại hình
doanh nghiệp. Điều kiện kinh doanh theo ngành nghề kinh doanh chỉ được áp dụng đối
với những ngành nghề mà sức ảnh hưởng từ bản chất của hoạt động kinh doanh hay
quy mơ của doanh nghiệp khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi một bang mà cần phải có sự
kiểm sốt của liên bang để đảm bảo an toàn và an ninh cho nền kinh tế.
Ở Singapore, chủ thể khi muốn thành lập doanh nghiệp phải đảm bảo tuân thủ

cơ chế đăng ký thành lập theo pháp luật. Ngồi ra, Singapore cịn đặt ra quy định về
điều kiện kinh doanh trong một số ngành nghề nhất định. Theo pháp luật Singapore, để
đăng ký kinh doanh hoặc thực hiện kinh doanh trong một số ngành nghề cụ thể, doanh
nghiệp phải được cấp phép hoặc được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Hiện nay, ba loại giấy phép phổ biến ở Singapore bao gồm: giấy phép bắt buộc,
giấy phép nghề nghiệp và giấy phép hoạt động kinh doanh [40, tr.75].
Tại Trung Quốc, các quy định về điều kiện kinh doanh được thể hiện ở hình
thức văn bản chấp thuận hay điều kiện kinh doanh không cần văn bản chấp thuận của
cơ quan có thẩm quyền. Doanh nghiệp tại Trung Quốc phải đáp ứng những điều kiện
kinh doanh cả trước khi đăng ký thành lập doanh nghiệp và sau khi doanh nghiệp đi
vào hoạt động. Cụ thể, khi đăng ký thành lập doanh nghiệp, chủ thể phải xin chấp
thuận của nhà nước về tên doanh nghiệp, vốn pháp định. Khi thực hiện hoạt động kinh
doanh, doanh nghiệp phải xin phép hoạt động với cơ quan chuyên ngành quản lý lĩnh

Ở Mỹ, có 4 loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp tư nhân (sole proprietorship), công ty trách nhiệm hữu hạn
(limited liability company – LLC), cơng ty hợp danh (partnership) và tập đồn (corporation). Ở một số bang, việc
lựa chọn loại hình doanh nghiệp sẽ quyết định doanh nghiệp có phải đăng ký với chính quyền bang hay khơng.
Ví dụ, ở bang Texas, tập đồn, cơng ty trách nhiệm hữu hạn, cơng ty hợp danh có nghĩa vụ đăng ký với chính
quyền bang, trong khi doanh nghiệp tư nhân khơng có nghĩa vụ này.
3

15


vực mà doanh nghiệp đó kinh doanh, đầu tiên phải kể đến hệ thống cấp phép, bao gồm:
giấy phép kinh doanh tạm thời và giấy phép kinh doanh bắt buộc [40, tr.76].
Đối với việc quy định ngành nghề có điều kiện – đây là những ngành nghề mà
việc thực hiện hoạt động kinh doanh những ngành nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý
do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng
đồng. Mỗi quốc gia sẽ có những quy định khác nhau về ngành nghề kinh doanh có điều

kiện. Đối với lĩnh vực vận tải đa phương thức, không chỉ Việt Nam, một số quốc gia
khác trên thế giới như Ấn Độ, Thái Lan, Philippines, Bangladesh, Hàn Quốc, Trung
Quốc… có quy định điều kiện kinh doanh đối với dịch vụ này [55, tr.4].
Theo Luật Đầu tư 2014, kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức được xem là
ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Vậy vì sao lại quy định điều kiện kinh doanh
ngành nghề này? Liệu việc quy định điều kiện kinh doanh đối với ngành nghề này có
cản trở quyền tự do kinh doanh hay khơng? Và quy định này sẽ đem lại lợi ích gì cho
Nhà nước và xã hội.
Việc quy định vận tải đa phương thức là ngành nghề kinh doanh có điều kiện có
những ý nghĩa pháp lý sau:
- Xác định các yếu tố mà nhà đầu tư cần phải đáp ứng để có thể thực hiện hoạt
động đầu tư kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức ở Việt Nam. Các doanh nghiệp
đáp ứng được các điều kiện do pháp luật quy định khơng chỉ đúng trong q trình kiểm
tra các điều kiện đầu tư kinh doanh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà cịn là yếu
tố đảm bảo năng lực của nhà đầu tư, chủ thể kinh doanh khi kinh doanh loại hình dịch
vụ này.
- Tạo ra hành lang pháp lý mà người kinh doanh dịch vụ không thể vượt qua,
giúp đảm bảo cho việc đầu tư kinh doanh đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích của các
tổ chức, cá nhân khác không bị ảnh hưởng.

16


- Giúp người kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức có thể đánh giá khả
năng tài chính của mình để lựa chọn và thực hiện hoạt động kinh doanh một cách hiệu
quả nhất.
Tự do kinh doanh và việc quy định điều kiện đầu tư kinh doanh là hai phạm trù
song song tồn tại. Mặc dù điều kiện đầu tư kinh doanh được xem là một hạn chế của
quyền tự do kinh doanh nhưng chúng không đối nghịch nhau mà còn bổ trợ cho nhau.
Điều kiện kinh doanh giúp xác định ranh giới và là cơ sở để quyền tự do kinh doanh

được thực hiện. Tự do kinh doanh càng phát triển, khuôn khổ điều kiện kinh doanh sẽ
càng được cải tiến, hoàn thiện, đảm bảo phù hợp với tình hình thực tế của các quan hệ
xã hội và quay lại bổ trợ cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh của các tổ chức cá
nhân.
Như vậy, có thể nói rằng, điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức
không phải là một hạn chế của quyền tự do kinh doanh. Điều kiện kinh doanh và tự do
kinh doanh là hai mặt của một vấn đề, cùng tồn tại và phát triển. Để đảm bảo quyền tự
do kinh doanh được phát triển, vấn đề điều kiện đầu tư kinh doanh càng phải được chú
trọng. Xây dựng hệ thống quy định của pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh nói
chung và điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức nói riêng chính là xây
dựng nền móng cho quyền tự do kinh doanh.
1.4. Mối quan hệ và nguyên tắc áp dụng luật chung và luật chuyên ngành
trong quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức
Ở Việt Nam, quy định về điều kiện kinh doanh đã có nhiều sự thay đổi với sự ra
đời của Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014. Mặc dù số lượng các ngành
nghề kinh doanh có điều kiện đã giảm xuống đáng kể, nhưng kinh doanh dịch vụ vận
tải đa phương thức vẫn được xem là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Các quy
định về điều kiện kinh doanh nói chung cũng được áp dụng cho kinh doanh dịch vụ
vận tải đa phương thức. Cụ thể, Điều 9 Luật Đầu tư 2014, điều kiện đầu tư kinh doanh
bao gồm việc áp dụng một hoặc một số các hình thức sau đây:

17


a) Giấy phép;
b) Giấy chứng nhận đủ điều kiện;
c) Chứng chỉ hành nghề;
d) Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp;
đ) Văn bản xác nhận;
e) Các hình thức văn bản khác theo quy định của pháp luật không được quy định

tại các Điểm a, b, c, d và đ Khoản này;
g) Các điều kiện mà cá nhân, tổ chức kinh tế phải đáp ứng để thực hiện hoạt
động đầu tư kinh doanh mà khơng cần phải có xác nhận, chấp thuận dưới các hình thức
văn bản quy định tại các Điểm a, b, c, d, đ và e Khoản này.
Theo Nghị định 87/2009/NĐ-CP, điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa
phương thức đối với mỗi chủ thể kinh doanh sẽ có sự khác nhau. Nhìn chung, cần có
một số hoặc tất cả các hình thức sau: giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đầu tư, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, nghĩa vụ
duy trì tài sản tối thiểu hoặc bảo lãnh tương đương. Như vậy, có thể thấy sự khác biệt
giữa quy định về điều kiện kinh doanh nói chung và điều kiện kinh doanh dịch vụ vận
tải đa phương thức.
Trong khoa học pháp lý từ lâu đã thừa nhận nguyên tắc: “khi có sự khác biệt
giữa luật chung và luật chuyên ngành thì ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành” (“lex
specialist derograt legi generali”). Trong trường hợp này, Luật Đầu tư 2014 và Nghị
định 118/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đầu tư 2014 về điều kiện kinh doanh là luật
chung. Nghị định 87/2009/NĐ-CP, Nghị định 89/2011/NĐ-CP cùng với Nghị định
144/2018/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Nghị định 87/2009/NĐ-CP được xem là luật chuyên
ngành, do đó, các Nghị định này sẽ được ưu tiên áp dụng khi giải quyết các vấn đề liên
quan đến điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức.

18


×