Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phương pháp giúp học sinh làm tốt văn nghị luận trong phân môn tập làm văn khối 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.63 KB, 13 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình lĩnh hội và truyền đạt tri thức chương trình Ngữ văn nói
chung và bậc THCS nói riêng, phân mơn tập làm văn đóng vai trị rất quan trọng
trong việc cung cấp tri thức cơ bản về các kiểu văn bản, hình thành các kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết,… để hiểu khái quát về các loại văn bản và bố cục chung của
nó. Bản thân phân mơn tập làm văn là một hoạt động tích hợp tri thức: văn bản,
tiếng Việt vào việc tạo lập văn bản mới.
Chương trình tập làm văn đặt trọng tâm ở thực hành: Xây dựng bài qua
thực hành, thực hành nhận biết và thực hành qua văn bản. Do đó điểm mới và
khó trong chương trình Ngữ văn là phương pháp dạy thực hành. Cụ thể và quan
trọng nhất là rèn luyện kĩ năng viết một bài văn đúng, đủ, hay và có sức thuyết
phục. Đối với chương trình ngữ văn 7, văn nghị luận là một thể văn mới hơn khó
hơn so với chương trình cũ và với trình độ tiếp thu, khả năng nhận biết và diễn
đạt của các em nằm ở lứa tuổi 13, 14 do đó cịn nhiều hạn chế. Nếu những em
có khả năng tư duy trừu tượng tốt, biết trình bày một quan điểm, thái độ đúng
trước một vấn đề, có chủ kiến rõ ràng thì sẽ khơng thấy khó. Cịn những em
quen tư duy cụ thể, cảm tính, ít năng lực suy luận, ít có bản lĩnh, ít có chủ kiến
đối với mọi việc thì sẽ cảm thấy khó.
Thực trạng học sinh hiện nay, cho thấy kĩ năng viết cịn hạn chế nhất là
việc trình bày lại những suy nghĩ của mình trước một vấn đề nào đó. Để giúp
các em tiếp thu đỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các em có sự hứng thú trong học
tập gặt hái được những kết quả nhất định để bước sang học chương trình ngữ
văn lớp 8, 9 có thể tránh bớt phần bỡ ngỡ và có điều kiện nâng cao kiến thức
trong quá trình học tập vì vậy bản thân tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Phương pháp
giúp học sinh làm tốt văn nghị luận trong phân môn Tập làm văn Khối 7”.
1.2. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

-1-



Đối tượng nghiên cứu là phương pháp giúp học sinh làm tốt văn nghị luận
trong phân môn Tập làm văn Khối 7.
Khách thể nghiên cứu là toàn bộ học sinh khối 7.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tham khảo các sách phương pháp giúp
học sinh làm tốt văn nghị luận trong phân môn Tập làm văn Khối 7.
Phương pháp quan sát: dự giờ đồng nghiệp để rút kinh nghiệm.
1.4. Giới hạn về không gian nghiên cứu đề tài

Do điều kiện và thời gian nên đề tài của tơi chỉ gói gọn ở đối tượng
học sinh lớp 7 cụ thể là lớp 7A3 của trường THCS Huỳnh Thúc Kháng.

1.5. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu
1.5.1. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Thời gian nghiên cứu trong 1 năm (năm học 2016-2017).
1.5.2. Kế hoạch nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu kĩ các tài liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu đề tài.
Dự giờ các giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn khối 7 trong trường.

-2-


PHẦN II: NỘI DUNG, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Cơ sở lí luận
Chúng ta phải nhận thức rằng văn nghị luận là một trong những kiểu văn
bản rất quan trọng trong đời sống xã hội, có vai trị rèn luyện tư duy, năng lực
biểu đạt, suy luận của các em giúp các em có những quan điểm đúng đắn, tư duy
sâu sắc trước đời sống. Có thể khẳng định rằng kiểu văn nghị luận khó có thể
hình thành tư duy tư tưởng mạch lạc, tư duy sáng tạo, ý nghĩa sâu sắc trong đời
sống.

Một em học sinh có năng lực nghị luận tốt thì sẽ có khả năng biểu đạt, phán
đốn chính xác sự việc, sẽ tạo ra một điều kiện thuận lợi để thành đạt trong cuộc
sống.
Do đó, muốn tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh làm văn nghị luận tốt, giáo
viên phải giúp học sinh nắm vững khái niệm, có quan điểm rõ ràng khi nói đến
một việc, đồng thời giúp các em biết tư duy lơ-gích, sử dụng thành thạo các thao
tác: phân tích, tổng hợp, qui nạp, diễn dịch, so sánh, suy lý...
Cần phải giúp các em biết văn nghị luận phải có luận điểm, có lý lẽ, có dẫn
chứng (từ thực tế văn, thơ) và có phương pháp lập luận chặt chẽ để nối kết các
vấn đề, quan điểm nhỏ cùng một luận cứ để giải quyết vấn đề nào đó và đề ra lập
luận lớn.
2.1. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng đề tài
Thực trạng học sinh hiện nay, cho thấy kĩ năng viết cịn hạn chế nhất là
việc trình bày lại những suy nghĩ của mình trước một vấn đề nào đó. Trong q
trình giảng dạy bản thân tơi nhận thấy rằng giữa giảng dạy phương pháp truyền
thống hay phương pháp mới một cách riêng biệt thì nó khó đem lại kết quả cao,
bài giảng vì thế có phần cứng nhắc. Vì vậy, khi giảng dạy bản thân tơi phải kết
hợp phương pháp truyền thống và phương pháp mới trong cùng một tiết dạy để
tránh sự cứng nhắc. Vì thế, trong những năm giảng dạy chương trình Tập làm
văn cũ và chương trình mới đặc biệt là lớp 7 tơi đã đúc kết được một số phương
-3-


pháp mới có liên quan đến việc giảng dạy phân mơn Tập làm văn phần văn nghị
luận, trong chương trình Tập làm văn lớp 7 .
2.3. Các biện pháp giải quyết vấn đề
Trong q trình dạy phần lí thuyết của văn nghị luận, bản thân tôi rút ra dàn
bài chung của các bài lí thuyết về văn nghị luận như sau:
2.3.1. Khái niệm
Văn nghị luận là loại văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người

nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó. Muốn thế, văn nghị luận phải có quan
điểm rõ ràng, có lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục.
Ví dụ: Trích trong văn bản: “Chống nạn thất học”.
Quốc dân Việt Nam!
Khi xưa Pháp cai trị nước ta, chúng thi hành chính sách ngu dân. Chúng
hạn chế mở trường học, chúng không muốn cho dân ta học chữ để lừa dối dân ta
và bóc lột dân ta.
Số người Việt Nam thất học so với số người trong nước là 95%, nghĩa là
hầu hết người Việt Nam mù chữ. Như thế thì tiến bộ làm sao được?
Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc
phải thực hiện cấp tổc trong lúc này, là nâng cao dân trí [..]
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình,
phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào cơng cuộc xây dựng nước nhà, và
trước hết phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ.
Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, hãy góp
sức vào bình dân học vụ, như các anh chị em trong sáu, bảy năm nay đã gây
phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ, giúp đồng bào thất học.
Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học đi. Vợ chưa biết thì
chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ khơng biết thì con bảo, người ăn
người làm khơng biết thì chủ nhà bảo…
-4-


Phụ nữ lại càng phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là lúc chị em phải
cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng là một phần tử trong nước, có quyền bầu
cử và ứng cử.
Cơng việc này, mong anh chị em thanh niên sốt sắng giúp sức.
Chủ tịch
Chính phủ nhân dân lâm thời
HỒ CHÍ MINH

2.3.2. Đặc điểm văn nghị luận: Có 3 đặc điểm
- Luận điểm: Là ý kiến thể hiện tư tưởng quan điểm của bài văn. Là linh
hồn của bài viết, nó thống nhất các đoạn thành một khối. Luận điểm phải đúng
đắn, chân thực, đáp úng nhu cầu thực tế → thuyết phục.
- Luận cứ: là lí lẽ, dẫn chứng đưa ra làm cơ sở cho luận điểm. Luận cứ
phải chân thật, đúng, tiêu biểu → thuyết phục.
- Lập luận: Là cách lựa chọn, sắp xếp, trình bày luận cứ sao cho chúng
làm cơ sở vữngchắc cho luận điểm.
Chặt chẽ, hợp lí → thuyết phục.
Ví dụ: Trong văn bản: “Chống nạn thất học”.
Trước hết tác giả nêu lí do vì sao phải chống nạn thất học, chống nạn thất
học để làm gì? Chống nạn thất học bằng cách nào?

→ Tác giả tuân theo thứ tự nguyên nhân- kết quả → chặt chẽ.
Tu©n theo thứ tự nguyên nhân, hệ quả.

Hoc trong vic ra :
* So sánh cách ra đề cũ và cách ra đề mới:
Cách ra đề cũ
Cách ra đề mới
- Nhân dân ta từ xưa đến nay ln Hãy giải thích hoặc chứng minh:
sống theo đạo lý: “Ăn quả nhớ kẻ - Thất bại là mẹ thành công.
-5-


trồng cây” . Em hãy chứng minh để - Hãy biết q thời gian.
làm sáng tỏ ý kiến trên?

- Có chí thì nên.


- Hưởng ứng phong trào Hội khoẻ - Ăn quả nhớ kẻ trông cây.
Phù Đổng , trường em có tổ chức một
số hoạt động thể dục, thể thao. Em dự
định tham gia mơn gì? Hãy giải thích
vì sao em lại tham gia mơn thể thao
đó?
* Giáo viên phân tích thêm:
Trước đây ra đề có dùng cụm từ "Hãy chứng minh, hãy giải thích". Nay có
thể khơng sử dụng những cụm từ trên. Như vậy các em có thể sử dụng nhiều
thao tác làm bài. Các em có thể đưa ra ý kiến tranh luận để ca ngợi, để phê phán,
phân tích hoặc khun nhủ. Tìm hiểu đề để xác định vấn đề cần nghị luận để
tránh khỏi lạc đề, xa đề. Vấn đề của đề bài mang ính chất trung tính, chưa thể
hiện rõ tư tưởng, quan điểm của người viết. Cách ra đề như vậy để các em bày tỏ
quan điểm, tư tưởng của mình một cách dễ dàng hơn. Cách ra đề như vậy gần
gũi cuộc sống để các em dễ dàng trong việc xác lập luận cứ).
Sau đó, các em tìm ra cách lập luận cho luận điểm. Có nhiều cách nhưng
các em mới học đến phần lí thuyết chung của bài văn nghị luận. Giáo viên giúp
các em lập dàn bài cho bài nghị luận.
Hướng dẫn các em lập dàn ý cho đề bài sau: " Chớ nên tự phụ"
1. Xác lập luận điểm: (Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện theo đề)
Đề bài Chớ nên tự phụ nêu ra một ý kiến thể hiện một tư tưởng, một
thái độ đối với thói tự phụ. Em có tán thành ý kiến đó khơng? Nếu tán thành thì
coi đó là luận điểm của mình và lập luận cho đề đó. Hãy nêu ra các luận điểm
gần gũi với luận điểm của đề bài để mở rộng suy nghĩ. Cụ thể hố luận điểm
phụ.
2. Tìm luận cứ:
-6-


Ta đặt các câu hỏi: Tự phụ là gì? Vì sao khuyên chớ nên tự phụ? Tự phụ

có hại như thế nào? Tự phụ có hại cho ai? Hãy liệt kênhững điều có hại do tự
phụ và chọn các lí lẽ, dẫn chứng quan trọng nhất để thuyết phục mọi người.
3. Xây dựng lập luận: (Giáo viên giúp các em cách lập luận)
Nên bắt đầu lời khuyên Chớ nên tự phụ từ chỗ nào? Dẫn dắt ngưới đọc đi
tỳư đâu tới đâu? Có nên bắt đầu bằng việc miêu tả một kẻ tự phụ với thái độ chủ
quan, tự đánh giá rất cao và coi thường người khác không? Hay bắt đầu bằng
cách định nghĩa tự phụ là gì, rồi suy ra tác hại của nó? Hãy xây dựng trật tự lập
luận để giải quýêt đề bài.
Sau khi các em biết làm một bài nghị luận chung, giáo viên giúp các em
phân biệt hai dạng:
- Lập luận chứng minh.
- Lập luận giải thích.
* So sánh hai kiểu lập luận trên
+ Giống nhau:
- Đều là văn nghị luận.
- Dùng lí lẽ và dẫn chứng để trình bày ý kiến, tư tưởng nhằm thuyết phục
người đọc, người nghe.
+ Khác nhau:
Chứng minh

Giải thích

Dùng những lí lẽ, dẫn chứng chân Bằng cách nêu khái niệm các từ khó, kể
thật để chứng tỏ luận điểm mới.

các biểu hiện, so sánh, đối chiếu với các
hiện tượng khác, chỉ ra mặt lợi, mặt hại,
nêu nguyên nhân, hậu quả, cách đề phịng
hoặc noi theo.


Dẫn chứng là chủ yếu.

Lí lẽ là chủ yếu.

Giáo viên ra một đề nhưng hướng dẫn học sinh làm theo hai cách lập luận trên.
-7-


Ví dụ: “ Ăn quả nhớ kẻ trơng cây”
Hướng dẫn học sinh thực hành tìm ý theo phương pháp chứng minh như sau:
Giáo viên có thể nêu ra một số câu hỏi như sau nhằm hướng học sinh tìm đến nội
dung bài:
* Mở bài: Xác định luận điểm chính: lịng biết ơn những người đã tạo ra thành
quả cho ta hưởng thụ.
* Thân bài: Nêu lí lẽ và dẫn chứng để chứng minh luận điểm trên là đúng.
- Con cháu kính u và biết ơn ơng bà, tổ tiên .
- Các lễ hội văn hố...
- Truyền thống thờ cúng ơng bà tổ tiên.
- Tôn sùng và nhớ ơn các anh hng liệt sĩ.
- Tồn dân biết ơn Đảng và Bác Hồ.
- Học trị biết ơn thầy cơ giáo.
- Dẫn chứng : Muốn sang thì bắc cầu Kiều...
Khơng thầy đố mày làm nên...
+ Học trò Chu Văn An dám lấy cái chết để cứu nước và trả ơn thầy (truyện
đầm mực)
+ Rất nhiều học sinh của thầy Nguyễn Tất Thành ở trường Dục Thanh (Phan
Thiết) theo gương thầy đi làm Cách mạng.
* Kết bài : Nêu ý nghĩa của luận điểm đã được chứng minh. Cảm nghĩ của em..
Cũng với đề tài này, giáo viên giúp các em tìm ý cho bài văn nghị luận giải thích
như sau:

* Mở bài: Giới thiệu điều cần giải thích và gợi ra phương hướng giải thích.
* Thân bài: triển khai việc giải thích
- Nghĩa đen: + Ăn quả là gì ?
-8-


+ Nhớ là gì ?
+ Kẻ trồng cây là gì ?
+ Mối quan hệ gữa quả và kẻ trồng cây.
+ Lời khuyên với người ăn hay người trồng ?
- Nghĩa bóng : câu tục ngữ nói một vấn đề dễ nhận thức trong thực tế cuộc
sống. Nói vậy để làm gì ? Có ý nghĩa thực tế như thế nào ?
- Có thể lập luận một số luận điểm :
+Lịng biết ơn là gì ?
+ Tại sao khi hưởng thành quả người khác ta phải biết ơn ? .../.
* Kết bài: Nêu ý nghĩa của điều được giải thích đối với mọi người.
Như vậy chỉ cần một đề bài, giáo viên có thể khắc sâu cho học sinh về kiến
thức văn nghị luận chứng minh và giải thích khác và giống nhau như thế nào?
Đối với bài này, không chỉ áp dụng trong tiết ơn tập mà trong q trình dạy
các tiết lí thuyết giáo viên giúp các em nắm kĩ để phần làm bài các em bớt phần
khó khăn.
Tóm lại, đối với học sinh nằm ở lứa tuổi 13, 14 về tâm sinh lí chưa phát
triển, khả năng suy luận chưa có vì vậy việc cung cấp các bài lí thuyết này
khơng phải dễ dàng. Do đó, đối với giáo viên đứng lớp phải sáng tạo trong cách
dạy, phải bằng mọi phương pháp hình thành trong nhận thức của các em, giúp
cho các em sau khi học xong phần văn nghị luận có sự hình dung văn nghị luận
khác với các loại văn khác mà các em đã học. Yêu cầu đối với các em là phải
đọc sách nhiều hơn, am hiểu xã hội nhiều hơn, tập kĩ năng tranh luận, suy luận
một vấn đề, biết nhận thức vấn đề đó đúng hay sai; đúng sai như thế nào để hình
thành cho các em một tư tưởng đúng đắn, có lập trường vững vàng. Vậy học văn

nghị luận ngồi việc các em biết cách làm một bài văn nghị luận cũng là một
quá trình giáo dục về nhân cách cho các em, giúp các em thấy yêu văn thơ

-9-


hơn...Vì thế khi ra đề văn cần chọn những đề có nội dung giáo dục cao như các
đề:
- Thất bại là mẹ thành cơng.
- Hãy biết q thời gian.
- Có chí thì nên.
- Ăn quả nhớ kẻ trơng cây
Sau mỗi bài viết hình thành cho các em một nhận thức về tư tưởng sâu sắc về
bài học và tính giáo dục.
2.4. Hiệu quả của đề tài nghiên cứu
Từ cách làm trên, trong những năm giảng dạy bản thân tôi đã giúp các em
học sinh làm bài cũng như việc nâng cao nhận thức của các em. Kết quả sau khi
học văn nghị luận các em đã xác lập được tư tưởng, quan điểm của bài văn kết
quả cụ thể như sau:
Kết quả bài viết số 5

Lớp
7A3

Tổng
số
49

Giỏi
Số


Khá
%

Số

Trung bình
%

Số

%

Yếu
Số

Kém
%

Số

lượng
lượng
lượng
lượng
lượng
10 20,4% 15 30,6% 21 42,9% 3
6,1%
0


-10-

%


PHẦN III: KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa quan trọng nhất của đề tài
Việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này trong q trình dạy cho học sinh
lớp 7A3 tơi nhận thấy đa số học sinh hứng thú hơn, tham gia vào quá trình học
tập nhiều hơn, các em cảm thấy tự tin hơn. Tôi tin rằng bất cứ giáo viên nào sử
dụng những giải pháp ở sáng kiến kinh nghiệm này cũng sẽ thu được nhiều
thành công trong kết quả học.
3.2. Khả năng ứng dụng, triển khai đề tài
Đề tài “Phương pháp giúp học sinh làm tốt văn nghị luận trong phân mơn
tập làm văn Khối 7” có thể ứng dụng và triển khai rộng rãi tới trong các trường
THCS trong Quận.
3.3. Các kiến nghị quan trọng nhất được rút ra từ đề tài
3.3.1. Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo

-11-


Tiếp tục tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ mơn văn trong từng
năm để giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện pháp tối ưu,
tích cực nâng cao chất lượng dạy học mơn văn, và đặc biệt là văn nghị luận.
Có kế hoạch tham mưu với cấp trên có chế độ đãi ngộ hợp lí đối với giáo
viên giảng phụ đạo thêm cho học sinh yếu kém môn văn.
3.3.2. Đối với phụ huynh
Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình, có thời gian biểu cho
các em, đầu tư nhiều về thời gian cho con cái học tập.

Hướng dẫn và tạo cho con thói quen đọc sách, chia sẻ tư vấn, định hướng,
bồi dưỡng tâm hồn cho con để các em có nhiều thuận lợi trong việc bộc lộ và
phát triển cảm xúc, tình cảm trong cuộc sống nói chung và trong việc làm văn
nghị luận nói riêng.
Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên bộ môn văn để tìm hiểu,
nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình.
3.3.3. Đối với địa phương
Quản lí chặt chẽ các điểm kinh doanh internet, làm ảnh hưởng đến chất
lượng học tập của học sinh (không nên để các điểm kinh doanh hoạt động quá
23h)
Quan tâm sát sao, hiệu quả đến chất lượng giáo dục ở địa phương, đầu tư
cơ sở vật chất kịp thời phục vụ cho việc dạy và học.
3.4. Hướng nghiên cứu đề tài
Sau khi thực hiện đề tài “Phương pháp giúp học sinh làm tốt văn nghị luận
trong phân môn Tập làm văn khối 7” tôi thấy học sinh có hứng thú học tập hơn,
kết quả học tốt hơn. Tuy nhiên còn rất nhiều phương pháp nữa mà tôi chưa đưa
ra trong đề tài này được. Bởi vậy, tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu thêm vào thời gian
tới.

-12-


Trên đây là ý tưởng chủ quan của bản thân. Tuy vậy, chắc chắn rằng sẽ cịn
có những hạn chế nhất định. Rất mong sự đóng góp của quý thầy cô, Ban giám
hiệu nhà trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Ninh Kiều, ngày 09 tháng 3 năm 2017
Người viết đề tài

Hoàng Thị Kim Tương


-13-



×